• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Nghi vấn Nước việt của vua hùng có liên quan đến nước sở thời xuân thu chiến quốc

Không phải
Tài liệu đầu tiên ghi nhận về những nhóm người sống ở Giao Châu tức nước ta ngày nay thì họ không gọi là Hùng Vương mà họ gọi là Lạc Vương
Sách sớm nhất ghi chép về “Lạc” vương là sách Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên, thế kỷ VI, trong đó có dẫn lại từ sách Giao Châu ngoại vực ký khoảng thế kỷ IV một đoạn văn như sau: “交趾昔未有郡縣之時, 土地有雒田, 其田從潮水上下, 民墾食其, 名為雒民. 設雒王雒侯主諸郡縣. 縣多為雒將. 雒將銅印青綬” (Giao Chỉ xưa kia, lúc chưa có quận huyện, đất đai có ruộng Lạc, ruộng này theo nước triều lên xuống, dân trồng cấy ruộng ấy để ăn, nên gọi là dân Lạc. Các quận, huyện được cai trị bởi vua Lạc và các phụ tá vua là quan Lạc. Ở các huyện do các tướng Lạc cai quản, tướng Lạc có ấn đồng, dây thao xanh). Tiếp đến là sách Sử ký – Sách ẩn của Tư Mã Trinh đời Đường đã nhắc đến sách Quảng Châu ký của Bùi Uyên, đời Tấn,khoảng thế kỷ IV ghi chép cùng nội dung trên: “交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱人.有駱王, 駱侯.諸縣自名為駱將, 銅印青綬, 即今之令長也”(Giao Chỉ có ruộng Lạc, ruộng này theo nước triều lên xuống, người ta ăn ruộng ấy nên gọi là người Lạc. Có vua Lạc và các phụ tá vua là quan Lạc. Các huyện tự gọi người cai quản là tướng Lạc, đeo ấn đồng dải thao xanh, như quan lệnh trưởng ngày nay vậy).

nghiencuulichsu.com

Tìm hiểu lại danh xưng “Lạc” vương và “Hùng” vương



Như vậy trước khi Triệu Đà theo lệnh của Tần Thủy Hoàng tiến xuống phương nam thì vùng này đã có người sinh sống.
Họ cày ruộng theo con nước khi lên khi xuống và gọi chung là người Lạc và thủ lĩnh của họ gọi là vua Lạc và các quan Lạc phụ tá.
Vậy khái niệm Hùng Vương bắt đầu khi nào?
Danh xưng “Hùng vương” 雄王 được ghi chép trong thư tịch Hán là sách Thái Bình quảng ký, thế kỷ thứ X,đã dẫn Nam Việt chí (Thẩm Hoài Viễn) khoảng thế kỷ V: “交趾之地,頗為膏腴,從民居之,始知播植.厥土惟黑壤.厥氣惟雄.故今稱其田為雄田,其民為雄民.有君長,亦曰雄王;有輔佐焉,亦曰雄侯.分其地以為雄將” (Vùng đất Giao Chỉ rất màu mỡ, di dân đến ở, thoạt đầu biết trồng cấy. Đất đen xốp. Khí đất “hùng”. Vì vậy ruộng ấy gọi là ruộng Hùng, dân ấy là dân Hùng. Có quân trưởng cũng gọi là vua Hùng; các phụ tá thì gọi là quan Hùng. Đất đó được chia ra cho các tướng Hùng cai quản).
Đến thế kỷ thứ X mới bắt đầu xuất hiện khái niệm Hùng Vương thay cho Lạc Vương
Hùng 雄 ở đây có nghĩa là hùng mạnh xuất phát từ chất đất tơi xốp màu mỡ và khí đất hùng mạnh nên gọi là ruộng Hùng, dân Hùng Hùng quan và thủ lãnh là Hùng vương.

Như vậy ban đầu người Trung Hoa gọi thủ lĩnh vùng đất chúng ta là Lạc vương sau đó họ không dùng chữ Lạc nửa mà đổi thành Hùng vương

Lạc tướng thì thời HBT vẫn còn.

Vậy là Hùng vương là cách gọi của TQ thôi?
 
Cập nhật rồi đó mày. Giờ có chatGPT AI dịch sách cổ tiếng Hán dễ hơn hẳn
Mày phải trích đầy đủ ra chứ
Không trích chữ hán thì ít nhất cũng phải có dòng tiếng Việt ghi lại chứ.
Đâu thể nói khơi khơi tào lao được
 
Lạc tướng thì thời HBT vẫn còn.

Vậy là Hùng vương là cách gọi của TQ thôi?
Hùng Vương là cách gọi của Trung Quốc thời Đường chỉ những thủ lĩnh bộ lạc vùng Giao chỉ ngày nay
Trước đó nó gọi là Lạc vương
 
Hùng Vương là cách gọi của Trung Quốc thời Đường chỉ những thủ lĩnh bộ lạc vùng Giao chỉ ngày nay
Trước đó nó gọi là Lạc vương

Thì tao đang bảo đúng ra VN mình phải dạy là vua Lạc đúng ko, giỗ tổ vua Lạc.
Còn vua Hùng là bị tẩy não của TQ rồi.
 
Có quả nhiều điểm tương đồng
-vua mang họ hùng giống nước sợ,công chúa tên đệm là mị,như mi châu,mị nguyệt.
-xem hồ động đình là hồ thiêng mà hồ động đình chính là lãnh thổ nước sở
-trước đó đánh giặc ân thương với truyền thuyết thánh gióng thì nhà thương lúc đó lãnh thổ chưa quá sông trường giang làm sao đánh đến bắc bộ.
Những sự trùng hợp trên tao có suy nghĩ nước việt được thành lập là 1 chi của hoàng thất nước sở chạy nạn lập nên
Nghi vấn đéo gì nó là thật luôn,ko học với nghiên cứu ls vn à
 
1 dân tộc có lịch sử là phải có
- văn hoá- chữ viết
- công trình xây dựng
- sự tồn tại của triều đại được các triều đại láng giềng xác nhận
Dân ta làm đéo có gì, bắt đầu thực sự tự lập khi Ngô Quyền (cũng là dạng thái thú tách từ loạn thế) đánh với Nam Hán (chỉ là 1 nước nhỏ trong thập quốc ngũ đại)
Bịa đặt bỏ mẹ, mà lịch sử ngắn thì làm đéo sao Mẽo có 300 năm nó có nhục đâu cứ thích bịa đặt thủ dâm sóc lọ với nhau
 
1 dân tộc có lịch sử là phải có
- văn hoá- chữ viết
- công trình xây dựng
- sự tồn tại của triều đại được các triều đại láng giềng xác nhận
Dân ta làm đéo có gì, bắt đầu thực sự tự lập khi Ngô Quyền (cũng là dạng thái thú tách từ loạn thế) đánh với Nam Hán (chỉ là 1 nước nhỏ trong thập quốc ngũ đại)
Bịa đặt bỏ mẹ, mà lịch sử ngắn thì làm đéo sao Mẽo có 300 năm nó có nhục đâu cứ thích bịa đặt thủ dâm sóc lọ với nhau
Đánh với Nam Hán còn mất luôn quảng tây mà đéo thấy sử VN nào nhắc cả.
Còn ăn nam mít xạo Lồn lên hẳn 4000 năm văn hiến
 
Đánh với Nam Hán còn mất luôn quảng tây mà đéo thấy sử VN nào nhắc cả.
Còn ăn nam mít xạo lồn lên hẳn 4000 năm văn hiến
Mất 4 châu ở quảng tây ngày nay
Đéo phải mất luôn quảng tây
 
“Của” bao giờ mà mất. Loạn thế các thái thú thứ sử chư hầu thằng nào mạnh thì nhiều đất cùng nhau xà xẻo giang sơn đại Đường, đã buồi bao giờ thuộc về ngô quyền mà mất.
Đánh với Nam Hán còn mất luôn quảng tây mà đéo thấy sử VN nào nhắc cả.
Còn ăn nam mít xạo lồn lên hẳn 4000 năm văn hiến
 
Là Nam sao khởi nghĩa đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử lại là 2 bà trưng lãnh đạo. Đàn ông lúc đó ngủm hết r à
Có một số bộ lạc là mẫu hệ.
Còn câu chuyện bà Trưng thì chồng bà tên Thi mới là người khởi nghĩa chẳng qua ông ấy chết trước nên bà trưng mới thay thế.
Còn Thủy kính chú thì ghi Thi và Trắc đồng khởi nghĩa và Thi còn sống khi Mã Viện tấn công
 
“Của” bao giờ mà mất. Loạn thế các thái thú thứ sử chư hầu thằng nào mạnh thì nhiều đất cùng nhau xà xẻo giang sơn đại Đường, đã buồi bao giờ thuộc về ngô quyền mà mất.
So với lãnh thổ Tĩnh Hải Quân Dương Đình Nghệ thì đất của Ngô Vương Quyền mất 4 châu ở Quảng Tây
 
So với lãnh thổ Tĩnh Hải Quân Dương Đình Nghệ thì đất của Ngô Vương Quyền mất 4 châu ở Quảng Tây

Mày có nguồn nào tin cậy ước tính diện tích 4 châu này ko?

Nếu tao nhớ ko nhầm thì thời Tĩnh Hải Quân là gồm 12 châu, như vậy 4 châu thì ít cũng phải bằng 1/3 lãnh thổ VN thời đó?
 
So với lãnh thổ Tĩnh Hải Quân Dương Đình Nghệ thì đất của Ngô Vương Quyền mất 4 châu ở Quảng Tây
Dương đình nghệ là ai, 1 thủ lĩnh bộ lạc chống lại sự đô hộ của Nam Hán à? Mà lãnh thổ Nam Hán lại thuộc về Dương đình nghệ từ đéo bao giờ thế.
 
Mày có nguồn nào tin cậy ước tính diện tích 4 châu này ko?

Nếu tao nhớ ko nhầm thì thời Tĩnh Hải Quân là gồm 12 châu, như vậy 4 châu thì ít cũng phải bằng 1/3 lãnh thổ VN thời đó?
Lãnh thổ thời Khúc Thừa Dụ giành được tự chủ cho Tĩnh Hải quân đến những năm đầu thời nhà Ngô.
Tương đế.

Họ Khúc vua Nam Hán ... 10_nuo10
 
Mày phải trích đầy đủ ra chứ
Không trích chữ hán thì ít nhất cũng phải có dòng tiếng Việt ghi lại chứ.
Đâu thể nói khơi khơi tào lao được
Mày không F5 xem lại post của tao à ?
 
Đánh với Nam Hán còn mất luôn quảng tây mà đéo thấy sử VN nào nhắc cả.
Mất có huyện Sùng Tả, Phòng Thành Cảng và nửa thành phố Nam Ninh ngày nay thôi mày
Chứ Khâm Châu, Hải Khẩu là của Nam Hán hết
 
Mày không F5 xem lại post của tao à ?
Cái nước Việt Thường này có liên quan đếch gì Việt Nam hiện nay đâu
Mấy ông sử gia Việt Nam lấy câu chuyện này rồi nhận vơ Việt thường tức là Việt Nam cổ.
Làm gì có chuyện
 
Mày không F5 xem lại post của tao à ?
 
  1. Phái phủ nhận nước Việt Thường ở Việt Nam
Hơn nửa thế kỷ trước, năm 1957, trong Lịch sử cổ đại Việt Nam (nxb Văn Hóa – Thông Tin, 2005) học giả Đào Duy Anh đưa ra ý kiến phản bác chủ trương nước Việt Thường ở Việt Nam. Ông cho rằng, đó là quốc gia của người Việt ở Nam Dương Tử: “Cái tên Việt được thịnh hành khi Câu Tiễn xưng bá, nhưng nó vốn đã có từ trước. Lần đầu tiên người ta thấy nó xuất hiện trong thư tịch xưa là ở sách Thượng thư đại truyện: “Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông ngôn đến hiến chim trĩ trắng…” Sách Thượng thư đại truyện là của Phục Thắng (thường gọi là Phục sinh) ở đầu thời Hán, đọc cho học trò chép thành. Nếu chúng ta xét rằng, Phục Thắng vốn là một vị bác sĩ thời Tần sống sót lại, đã từng sống trước cuộc đốt sách của nhà Tần thì chúng ta có thể tin rằng chuyện Việt Thường hiến trĩ trắng chép đó không phải là Phục Thắng bịa đặt, mà tất đã từng được đọc ở trong sách xưa. Như vậy thì trước thời Tần Hán, hẳn rằng ở Trung Hoa đã có thuyết Việt Thường hiến trĩ trắng mà cái tên Việt Thường hẳn là tên một nước xưa ở thời nhà Chu.


(Các sách xưa) đều chỉ chép Việt Thường là nước ở miền nam Giao Chỉ. Nhan Sư Cổ ở thời Ðường chú giải Tiền Hán thư cũng chỉ nói Việt Thường là một nước xa ở phương nam, chứ không chỉ rõ chỗ nào, mãi đến sách Cựu Ðường thư ở thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) mới chỉ nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào. Về sau, sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại chú rõ thêm rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Các tác giả đời sau đều theo thuyết ấy, cho đến các nhà Trung Hoa học người Tây phương như Legge và Pelliot cũng cho Việt Thường xưa là Lâm Ấp đời sau…

Chúng tôi tưởng rằng đối với những thuyết trên, chúng ta không cần phải biện bác nhiều lời, chỉ biết rằng các nhà đều dựa theo vị trí mà họ đặt cho Giao Chỉ để đặt vị trí của Việt Thường, thì khi vị trí của Giao Chỉ người ta đặt sai, tất vị trí của Việt Thường người ta không thể đặt đúng được. Chúng tôi cũng theo sách xưa mà đặt Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ. Ðã ức đoán Giao Chỉ ở lưu vực sông Dương Tử thì phải tìm vị trí Việt Thường ở khoảng miền ấy thôi. Ðem so sánh chữ Việt Thường viết trong các sách… Những điều sai dị ấy khiến chúng ta có thể đoán rằng chữ Việt Thường là người Hán tộc dùng chữ Hán mà phiên âm một tên địa phương. Nhà Trung Hoa học Ed. Chavannes ngờ rằng Việt Chương nơi vua Sở Hùng Cừ phong cho con út là Chấp Tỳ, có lẽ đất Việt Thường xưa, vì hai tên ấy đồng âm, nhưng không chỉ rõ vị trí Việt Chương là nơi nào. Chúng ta thấy Sử ký chép rằng đất Cú Ðàn (nay là Giang Lăng), đất Ngạc (nay là Vũ Xương) và đất Việt Chương (?) là những nơi vua Sở phong cho các con, đều là đất ở miền Sở Man, nghĩa là đất châu Kinh và châu Dương. Phân tích đoạn sách ấy ra thì chúng ta có thể đoán rằng, đất Cú Ðàn và đất Ngạc đã là thuộc đất châu Kinh (Sở) thì đất Việt Chương tất là thuộc đất châu Dương hay Dương Việt (Man). Tán thành ý kiến của Ed. Chavannes về Việt Chương với Việt Thường chúng tôi tưởng nên tìm Việt Thường ở đất châu Dương… ” (tr. 215-217)

Mười năm trước, kỹ sư hàng hải trẻ Trương Thái Du cũng cho rằng Việt Thường thị ở Nam Dương Tử và đưa ra cách lý giải về thuật ngữ Giao Chỉ khá thuyết phục: “Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, thời Tây Hán là Bắc Bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ, đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần – Hán.” (Trương Thái. Du Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam.http://123doc.org/document/1905966-...co-su-viet-nam-truong-thai-du-pha-n-1-pdf.htm)


II. Kiến giải của chúng tôi

  1. Không thể có nước Việt Thường ở miền Trung Việt Nam
Thừa nhận việc Việt Thường thị cống rùa và chim trĩ cho triều đình Trung Quốc là có thể tin được nhưng chúng tôi cho rằng, Việt Thường thị không thể ở miền Trung Việt Nam vì những lẽ sau:

  1. Các tài liệu nói tới địa danh Giao Chỉ thời Đào Đường (2300 năm TCN) rồi thời Chu (1063 năm TCN) phải là địa danh đã có lúc đó. Trong khi Giao Chỉ ở Việt Nam chỉ xuất hiện vào đời Hán Vũ Đế, năm 111 TCN. Điều này cho thấy: Giao Chỉ thời Đào Đường và thời Chu hoàn toàn không phải là Giao Chỉ ở Việt Nam! Vì không có Giao Chỉ nên cũng chẳng làm gì có Việt Thường ở Việt Nam.
  2. Giả sử nhà nước Việt Thường ở miền Trung là có thật thì cũng không thể có chuyện quan hệ ngoại giao với Trung Nguyên vì lẽ: ngoại giao chỉ có thể xẩy ra giữa hai nước lân bang, gần gũi về địa lý, có liên hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa với sự hiểu biết, nương tựa nhau. Trong khi đó, giữa Việt Thường miền Trung với Trung Nguyên quá xa về địa lý, giao thông khó khăn, lại cách trở bởi nhiều nhà nước khác nên không có mối quan hệ gì về kinh tế, chính trị. Chỉ vì “”Trời không mưa dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay,” mà sang chầu, là lý do thiếu thuyết phục!
Chỉ bằng lập luận này đã đủ bác bỏ chủ trương cho rằng Giao Chỉ – Việt Thường trong các cổ thư trên là địa danh ở Việt Nam.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục Tiền biên, càng tỏ ra hoang tưởng khi chép: “Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.” Phù Nam chỉ hình thành từ thế kỷ I, còn Lâm Ấp mới ra đời năm 192 sau Công Nguyên thì làm sao mà sứ của Việt Thường nghìn năm trước đi qua hai nước chưa ra đời này?! Thêm nữa, làm thế nào mà sứ giả từ Nam Hoàng Hà đi xuống tận đồng bằng sông Cửu Long rồi ngược lên Nghệ Tĩnh ? Làm sao mà tin được chuyện vô lý như vậy? Khi biết rằng, Hậu Hán thư chép: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta càng thấy sự thiếu chính xác của cuốn sử triều Nguyễn!


Tại sao hàng trăm năm các học giả hàng đầu của chúng ta vẫn tin vào sự vô lý thô thiển như vậy?!

  1. Việt Thường thị chỉ có thể ở miền Nam Dương Tử.
Chúng tôi cho rằng Việt Thường thị nhiều khả năng là tiền thân của nước Việt của vua Câu Tiễn. Quá trình lịch sử có thể diễn ra như sau:

Khoảng 3300 năm TCN, nhà nước Thần Nông của người Việt ra đời, với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ. Năm 2879 TCN, nhà nước Xích Quỷ được thành lập trên kinh đô Lương Chử. Khảo cổ học cho thấy, khoảng 2300 năm TCN, do nước dâng nhấn chìm kinh đô Lương Chử, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Những mảnh vỡ của Xích Quỷ lập những tiểu quốc riêng của mình, trong đó có nước Việt Thường. Việt Thường (越裳) là tên được ghi trong sách cổ, với nghĩa: nước Việt mặc váy. Điều này đúng với phong tục mặc váy (quấn xà rông) của dân phương Nam, nay còn thịnh hành từ Campuchia, Lào, Thái Lan tới Miến Điện, Srilanca… Là một phần của văn hóa Lương Chử, Việt Thường rất tiến bộ: đồ đá mài, đồ gốm, đồ ngọc tinh xảo, làm chủ Âm Dương, ngũ hành, lịch Âm Dương, kinh Dịch và chữ giáp cốt. Việc Việt Thường hiến rùa mang chữ Khoa Đẩu, lịch Âm Dương cho vua Nghiêu rất có thể xảy ra.

Vào đời Hạ, một dòng của Hạ Vũ tới Việt Thường, học lối sống của người địa phương, rồi trở thành thủ lĩnh. Qua triều Thương-Ân, Việt Thường vẫn vững vàng phía Nam Dương Tử. Khi nhà Chu đánh nhà Thương, liên minh với 800 nước, tổ chức ăn thề. Do ở xa nên Việt Thường không tham gia liên minh. Đánh thắng nhà Thương, Chu xưng bá, thống lĩnh hơn 800 chư hầu, thanh thế rất lớn. Thêm nữa, nhà Chu thi hành chính trị tốt đẹp. Trước tình hình đó, Việt Thường thấy cần giao hảo, nên cống chim trĩ trắng, vật thờ linh thiêng của mình. Như được chép trong Hậu Hán thư: “Sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta hiểu vì sao Việt Thường không còn được ghi trong sách sử. Tới thời kỳ này, do tiếp xúc nhiều với dân phía Bắc, thấy quần tiện dụng hơn nên người Việt chuyển sang mặc quần. Tên “nước Việt mặc váy” (越裳) cũng mất theo, chỉ còn lại nước Việt (越) của vua Câu Tiễn.

Thời Chiến Quốc, do chiến tranh khốc liệt, người Việt ở Nam Dương Tử di tản đi nhiều nơi: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện… Người Nhật có tục thờ chim trĩ trắng phải chăng là theo phong tục Việt Thường? Đúng như tra cứu mà ông Đào Duy Anh dẫn ở trên, người Việt Thường mang tích cống chim trĩ cho nhà Chu tới nơi lập nghiệp như kỷ niệm về tổ tiên mình. Điều này không lạ. Lớp di cư khỏi đồng bằng Trong Nguồn hơn 4000 năm trước, sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, mang về Việt Nam câu ca: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra cùng sự tích một bọc trăm trứng để ghi nhớ cội nguồn. Lớp di cư khoảng 3500 năm trước – sau khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương lập nhà Ân – mang về quê cũ Việt Nam dư âm cuộc chiến tranh khốc liệt cùng người anh hùng đánh giặc được tượng hình trong cậu bé làng Dóng. Từ cuộc di tản thời Chiến Quốc, có những nhóm người Việt Thường di cư tới miền Trung Việt Nam. Theo truyền thống, họ lấy tên quê cũ đặt cho đất mới. Sau này, vào thời Hán, dựa theo tên Việt Thường sẵn có, người Hán đặt ra huyện Việt Thường. Tại Việt Nam, tiếng Việt được bảo tồn nên Việt Thường vẫn là Việt Thường. Ở Giang Nam, người Hán chiếm nhưng không còn nói được tiếng Việt nên Việt Thường nói trại thành Việt Chương?


Vậy là, ban đầu, Nam Giao chẳng phải địa danh cụ thể mà chỉ là “cái cột mốc di dộng” đánh dấu biên địa phương Nam của nhà nước Hoàng Đế, được chuyển dịch ngày càng xa theo đà bành trướng. Chỉ tới thời Đông Hán, khi không còn khả năng bành trướng nữa, “cột mốc”mới được đóng xuống Bắc Bộ Việt Nam thành địa danh cố định Giao Chỉ. Học giả thời Tấn, Nguyên sinh sau đẻ muộn, không thể tìm được Việt Thường, Giao Chỉ trên đất Tàu, mà cũng chẳng biết lịch sử cái tên Giao Chỉ, bèn đoán mò, viết đại rằng “Việt Thường là Lâm Ấp”! Trong sử sách, việc đoán mò rồi viết đại của các thầy Tàu không hiếm. Do không hiểu chữ “hồ” trong kinh Thi Lang bạt kỳ hồ/ tái trí kỳ vĩ vốn tiếng Việt là hố, hang: “Sói chui vào hang, vẫn lòi cái đuôi”, thầy đại nho Chu Hy giảng “hồ là cái yếm nơi cổ con sói khi già chùng xuống nên bước tới, nó dẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi.” Hơn 800 năm các đại nho vẫn tin, con sói già có yếm thòng ở cổ, thì việc người ta hoang tín vào một tên đất ghi trong sách hai nghìn năm trước khi nó được đặt trên thực địa, đâu phải chuyện lạ?! Từ đây, sai lầm tiếp tục qua các nhà nho thời Nguyễn, rồi học giả Pháp cho tới ngày nay!

III. Kết luận

Sách sử cùng nhiều chứng lý khác cho thấy rằng, từ xa xưa đã có nước Việt Thường của người Việt ở phía Nam Dương Tử. Nước Việt này có kinh tế, văn hóa phát triển, có quan hệ ngoại giao với nhà Đường Ngu và nhà Chu, có thể là tiền thân của nước Việt của Việt vương Câu Tiễn. Tới thời Chiến Quốc, do áp lực của chiến tranh tàn khốc, người Việt Thường đã di tản xuống nhiều quốc gia phương Nam.

Để phản bác chủ trương “Việt Thường quốc vùng Nghệ Tĩnh” chẳng đòi hỏi kiến thức cao siêu mà chỉ cần đọc nghiêm túc cổ thư rồi lập luận một cách hợp lý. Hơn 60 năm trước, học giả Đào Duy Anh đã biện giải khá thuyết phục. Nhưng không hiểu vì sao, thời gian trôi trọn một vòng hoa giáp mà không ai tỉnh ngộ nghe ông, lại cứ u mê tự giam trong cõi vô minh. Cái “Việt Thường quốc Nghệ Tĩnh” hoang tưởng đâu phải là phao cứu sinh để cố sống cố chết trì bám? Nay nếu mất Việt Thường quốc xứ Nghệ thì đó chỉ là vật ngoài thân, có gì đáng tiếc? Trong khi ta có cả gia tài vĩ đại: đất Việt là nơi phát tích của con người và văn hóa phương Đông?!


Vu Lan năm 2015
 

Có thể bạn quan tâm

Top