1. CƠN ĐỘNG ĐẤT LỊCH SỬ
Chính Định, nơi bối cảnh của cuốn tự truyện diễn ra
Một buổi sáng mùa xuân 1966, tôi thức dậy trong tiếng chuông báo thức ký túc xá, của trường trung học Chính Định số 1. Mọi người túa ra khỏi phòng ngủ trong tình trạng mặc đồ lót. Mặc dù là mùa xuân, nhưng miền Hoa Bắc vẫn còn lạnh, bạn tôi Mỹ Hồ run như cầy sấy. Nhìn quanh cứ ngỡ động đất xảy ra, nhưng tòa nhà vẫn có vẻ yên ổn. Mọi người chạy vòng quanh một lúc rồi quay lại ký túc xá. Tôi bận chiếc áo ấm và quần bông, rồi lên lớp bình thường.
Trong giờ nghỉ trưa, tôi bật chiếc radio tự chế, nhận tín hiệu từ đài Bắc Kinh để cho mọi người nghe. Một trận động đất tầm 6,7 độ Richter xảy ra ở một huyện cách xa vài trăm kilomet về phía nam, làm hàng nghìn người chết, và thêm vài nghìn người bị thương và mất nhà cửa. Quân đội, do thủ tướng Chu Ân Lai đã đến để thăm dò và hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai. Vài giờ sau, hiệu phó Lâm Thịnh, phát biểu trước tòa nhà giáo viên rằng chúng tôi phải hỗ trọ quyên góp quần áo và giường tạm cho nạn nhân của vụ động đất trên. Có một đoàn tàu chở những nạn nhân bị thương đến bệnh viện quân đội ở Chính Định. Tôi đóng góp một cái gối ruột kiều mạch, và cùng với mọi người chặt cành cây để làm cáng. Thằng Viện Triều có bố nó làm ở bệnh viện quân đội, thì đóng góp một cái cáng chuẩn y khoa. Những đồ quyên góp được tập trung ở một khu vực cạnh ga xe lửa, được đốt đuốc để làm dấu. Tối đến, 5 cái trực thăng theo dấu ánh đuốc mà hạ cánh. Những nạn nhân được đưa lên cáng và vào bệnh viện.
Vụ động đất này mau chóng bị rơi vào quên lãng, cho dù vài hôm sau chúng tôi phải chuẩn bị đề phòng cho hậu dư chấn, bằng cách mang bàn ghế ra ngoài và học tập dưới trời nắng. Với một lú trẻ con như chúng tôi hồi đó thì đây là một việc cực thú vị. Nhưng những người cao tuổi trong thị trấn thì lại không nghĩ thế. Vụ động đất làm rụng cái đỉnh gỗ của mái chùa cố trong trấn. Mọi người ai nấy cho là điềm rủi.
Một lão già mê tín cùng cực, mà tôi nhớ lại, đã cố trèo qua tháp chuông của trường trung học mỗi sáng, chỉ để rung chuông báo thức. Lão quả quyết rằng những vụ địa chấn luôn đem lại điềm xấu. Trong lịch sử, sau một cuộc địa chấn kinh hoàng, Vương Mãng đã lật đổ nhà Tây Hán và náo loạn toàn cõi Trung Nguyên. Và 17 năm sau, Lưu Tú đã tiêu diệt Vương Mãng, lên ngôi Quang Vũ Đế và lập ra nhà Đông Hán.
Chưa hết, lão già còn nói rằng chính Lưu Tú đã dừng lại ở chốn Chính Định này trong lúc tiến đánh Vương Mãng. Trưởng quận Trương Định mời Lưu cưới cháu họ mình, sau này là Quách hoàng hậu. Và điển tích xưa kể lại, trong đám cưới, Lưu Tú và Quách thị cùng uống rượu thề và bổ một quả bí ra làm đôi. Mà rượu đó ở đâu? Có vẻ từ một tiệm rượu mang tên Quách Hoàng Hậu đương bán dưới phố chính. Lão kể ra cũng uy tín chứ? Nhưng cũng để chắc chắn, tôi lên thư viện trường và xem sách viết thế nào. Lão kể 10 phần thì đúng 9 phần, mặc dù 1 phần còn lại khá quan trọng. Sau khi xưng đế thì Vũ Đế đã phế hoàng hậu xuống làm quý phi, và đưa một người con gái đẹp khác làm hoàng hậu.
Nói chung thị trấn Chính Định có những tích cổ như vậy vì đã trải qua tầm 4000 năm văn minh. Các triều đại được lập nên rồi sụp đổ, tạo chứng tích ở đây tốt đến nỗi, nếu bạn đào khoảng 3 mét sâu dưới đất, bạn có thể thấy được nền tường thành cũ. Sông Hô Đà trải qua ở phía nam, phía tây thì có đường cao tốc đang xây dở, bên cạnh tuyến đường sắt Bắc Kinh – Quảng Châu. Mà hơn nữa, thị trấn này là một sự pha trộn của các nền văn hóa khác nhau. Ngoài bốn ngôi chùa cổ ra, có một nhà thờ Công giáo kiểu Gothic, trước được một cha xứ tay to mặt lớn cai quản, giờ là bệnh viện quân đội, một nhà nguyện của người Hồi. Một tụ điểm hấp dẫn khác là đền Đại Phổ, ở phía đông của thị trấn, có tượng Quan thế âm, cao 22 mét và có 21 cặp tay.
Đền Đại Phổ với tượng Triệu Vân thời nay
Từ hồi trung cổ, Chính Định đã là nơi dừng chân của bao thế lực, những thương nhân Do Thái từ Ba Tư, nhà truyền đạo Tin lành của Mỹ rồi quân xâm lược Nhật. Năm 1900, liên quân Bát quốc đã đến đây để truy sát những người Nghĩa Hòa Đoàn từng đốt nhà thờ. Tôi nhớ lần cuối có chiến sự ở đây là vào năm 1947, khi PLA đã tập kích vào thị trấn và quét sạch quân Quốc Dân Đảng đến người cuối cùng.
Người Chính Định giữ bên mình nhiều ngón nghề và truyền thống mà ông cha để lại. Ai cũng biết làm pháo tép, lấy muối diêm từ đất nhão của đầm cói gần thị trấn, rồi trích xuất ra. Muối diêm trộn với lưu huỳnh từ trứng thối để khô, bột than gỗ, và thế là thành pháo. Đặc sản của thị trấn là món thỏ hầm, vốn là một truyền thống từ thời Hán, và bạn có thể tìm nó ở bất kì chỗ đầu ngõ nào trong thị trấn.
Nhưng sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nhắc đến Triệu Vân, một trong Ngũ hổ Tướng của Lưu Bị, người cũng đã sinh ra trên vùng đất này. Nơi tướng Triệu sinh ra nằm ở đâu đó ở phố Bách Thắng. Một đứa con gái cùng lớp của tôi, tên họ là Triệu, suốt ngày khoe khoang rằng mình là hậu duệ của tướng Triệu, và tôi cũng tin lấy tin để. Mọi người cũng đồn rằng Triệu Vân đã tắm cho ngựa và mài kiếm của mình ở tấm bia đá đầu đền Đại Phổ. Tôi cũng tin cho đến khi có một đoàn khảo cổ về và xem xét, thì té ra nó thuộc về thời nhà Đường.
Chính Định không phải là nơi tôi sinh ra. Gia đình tôi có gốc từ Thủy Nguyên, một thị trấn nhỏ nằm dọc dãy Thái Hành Sơn, ngay cạnh Vạn Lý Trường Thành. Nhà có 5 đứa, 4 trai, 1 gái. Tôi là đứa thứ nhì. Anh cả của tôi, Vệ Hoa, sinh vào 1950, khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. 2 năm sau đó tôi ra đời. Đứa thứ ba là Chỉ Hoa, và đứa trai út là Tân Hoa. Em gái Mai Nguyên của chúng tôi, có lẽ là đứa duy nhất trong nhà được sinh ở Chính Định.
Ông Cao Sơn Quế - Ảnh chụp năm 1960
Bố của chúng tôi, Cao Sơn Quế, từng lãnh đạo một đợn vị du kích chống Nhật quanh vùng núi Thái Hành. Sau khi Nhật bại trận vào 1945, ông được bầu làm trưởng trấn Thủy Nguyên, vốn dĩ nằm dưới vùng kiểm soát của Hồng quân. Năm 1955, tỉnh trưởng tỉnh Hà Bắc giao cho bố tôi chức vụ công tố viên về điều tra hình sự, của tòa án nhân dân tỉnh. Tuy vậy, ông thích đọc những cái tài liệu làm nông và thảo luận với tầng lớp bần nông mù chữ, nên không lâu sau khi nhậm chức, ông xin về làm thị trưởng thị trấn Chính Định, với số dân khoảng 350000 người lúc đó. Mẹ tôi cũng theo đó mà có một công việc hành chính.
Chúng tôi hồi đó ở với ông ngoại bên Thủy Nguyên khoảng tầm hai năm, đúng lúc phong trào Đại nhảy vọt đang được tiến hành. Giấc mơ của chủ tịch Mao về một cuộc cách mạng công nghiệp vô sản vĩ đại, nhanh chóng, được nhân hóa bằng một tấm áp phích, trên đó vẽ một người đàn ông lực lưỡng đứng cạnh một quả tên lửa, dưới ghi hàng chữ to tướng: “Phải vượt qua nước Anh trong 15 năm tới!”. Chúng tôi dành thời gian ở nhà phụ giúp ông ngoại đập nát cái bình sắt gia truyền cổ, tháo chốt đồng ở cánh cổng chính trước nhà, để giao nộp cho lò luyện kim tự chế của hợp tác xã. Và bị cuốn theo phong trào công xã nhân dân (CXND), ông ngoại chúng tôi xung phong làm ông nuôi cho một nhà ăn tập thể của địa phương. Ai nấy cũng nghĩ rằng giai đoạn quá độ CNXH sắp thành công, và đạt được chủ nghĩa cộ.ng s.ản chân chính.
Chúng tôi cùng ông ngoại rời đến Chính Định vào cuối năm 1959, chỉ mang theo bát cơm và đũa. Ông lại được làm phụ bếp cho nhà ăn địa phương. Rồi đến mỗi tối, lũ trẻ chúng tôi ai nấy cũng háo hức đòi nghe ông kể về phần của Triệu Vân trong Tam Quốc.
Rồi vào một hôm, nhà ăn tập thể tự dưng đóng cửa, mọi nhà đành phải mua nồi niêu để tự nấu. Sau đó là thiếu thốn đủ điều. Đó là lần đầu tiên chúng tôi được nhận tem phiếu để mua các nhu yếu phẩm thường ngày, gạo, dầu, vải, than… Và khi tình trạng đói kém càng tệ hại, dân phố cũng như nông dân đều hô hào dỡ bỏ bức tường thành cổ ở Chính Định. Mọi người bẩy những viên gạch cổ ra rồi đem đi bán, hoặc dùng để xây chuồng lợn. Bố tôi vô cùng lo lắng trước tình trạng như vậy, vì thứ nhất, tường thành Chính Định là tường thành cổ được được bảo tồn kỹ lưỡng nhất tỉnh, và thứ hai, tường thành cực kỳ quan trọng trong việc phòng chống lũ lụt. Vào mùa mưa, con sông Hô Đà thỉnh thoảng dâng cao tràn qua bờ đê, nhưng may là có bức tường thành giữ lại. Bố tôi liền ra công lệnh nghiêm cấm việc phá hoại bức tường. Bức công lệnh được dán ở khắp nơi, có dấu đỏ kèm chữ ký của bố tôi ở dưới.
Công lệnh này tuy đã dừng lại việc phá hoại tường thành, nhưng cũng đem bố tôi vào rắc rối. Vào cuộc họp của Đảng ủy quận Chính Định, chính ủy viên Hán Vinh đã buộc tội ông ra công hàm mà không có sự phê thuận của cấp trên. Nhưng bố tôi, cũng có chức vụ trong Đảng ủy, thanh minh rằng là mình đã có hành động đúng đắn với vai trò là trưởng quận. Mặc dù ông được nhiều người ủng hộ, nhưng chính ủy Hán vẫn chưa dừng lại ở đó. Hắn gửi một bức thư lên Tỉnh Ủy, tố cáo bố tôi về tội đi lại đường lối của Đảng. Âu cũng phải, vì trước đó ông vô tình xúc phạm hắn là một kẻ quan liêu, xa rời thực tiễn, còn nói xấu sau lưng rằng: “Chính ủy Hán là một tên đàn bà”. Kết quả là Tỉnh ủy bắt bố tôi thôi chức vụ trưởng quận, và điều đi làm công nhân của một nhà máy thép ở Thạch Gia Trang, thủ phủ của tỉnh.
Gia đình chúng tôi tiếp tục sống trong một khu phố yên tĩnh ở Chính Định. Mẹ tôi, sau khi sinh Nhất Nguyên, đứa em gái út, đã quay trở lại làm việc kế toán cho phòng thuế quận ngay cả khi kỳ nghỉ sinh chưa kết thức. Năm 1960-62 được coi là 3 năm đói kém. Anh em chúng tôi, khi từ trường tiểu học ở phố Dân Chủ quay về, đói đến lả người. Đến lúc ăn, ông ngoại phân phát cháo ngô và bánh hấp làm từ bột khoai lang cho 6 anh em, tùy theo độ tuổi. Ông luôn nhắc đến tích Khổng Dung trong Tam quốc luôn chọn quả lê nhỏ nhất, có lẽ là để phân chia cho anh em trong nhà một cách công bằng.
Máy cày xếp hàng trong giai đoạn Đại Nhảy Vọt - 1958-1960
Nạn nhân nạn đói trong 3 năm đói kém - 1960 -> 1962
Những câu chuyện của ông kể lại luôn làm cho bữa ăn thêm phần hứng khởi, mặc cho hoàn cảnh hiện tại là hầu như chẳng có bữa nào được no. Chỉ Hoa thậm chí liếm cái bát cháo đã khô cong để chắc chắn rằng nó không bỏ sót một giọt cháo nào. Thi thoảng chúng tôi ra ngoài tìm những nguồn thức ăn mà giờ kể cũng khó tin, như là hái lá liễu, lá dương non mà cho vào ruột bánh, bóc vỏ cây du rồi nhai rau ráu. Chuồn chuồn, ve sầu cũng trở thành những nguồn đạm khoái khẩu. Thi thoảng chúng tôi cũng đi tìm nhiên liệu đốt. Khi than hết vào mùa đông và đầu xuân, ông ngoại dẫn chúng tôi ra cánh đồng bông ở phía nam thị trấn để đào rễ khỏi nền đất lạnh giá, và vào lúc cuối hè sang thu, chúng tôi kiếm lá khô và cỏ khô. Và quần áo thì ai cũng như ai, vá chi chít chằng chịt.
Bởi vì bị giáng chức, lương của bố tôi đã giảm từ 130 tệ một tháng xuống chưa đến 100 tệ. Lương mẹ tôi thì vẫn vậy, 42 tệ một tháng, cứ như vậy được 10 năm rồi. Lạm phát trong 3 năm đói kém kinh khủng tới mức giá một quả hồng trước chỉ có 3 hào, nhưng sang năm 1962 thì lên tận 50 hào (là bằng nửa tệ). Lúc đó nếu tính sơ sơ cả gia đình chúng tôi chỉ có tổng thu nhập chừng 280 quả hồng. May thay là nhà nước vẫn giữ giá lương thực bình ổn. Ngược lại, những thứ không ăn được thì giá lại giảm. Lọ gốm sứ cổ, trang sức, lư đồng, tượng thần Phật, gia tài được bán với giá rẻ không tin được. Chỉ bỏ ra vài tệ là có thể mua được một món đồ cổ, mà thời nay nó có thể chễm chệ ở đâu đó trong một viện bảo tàng. Mặc cả không có giá trị gì, vì nhiều người bán hơn người mua. Một hôm khi ông ngoại chúng tôi, đang trên đường đi mua thức ăn, đã để ý tới một chiếc bát gốm tinh xảo thời nhà Minh. Ngoại quan hoàn hảo, hoa văn dưới đáy bát chỉ rằng nó được tạo ra dưới thời Tuyên Đức Đế, khoảng giữa thế kỷ 15. Giá là 50 hào, bằng một quả hồng mà thôi. Ông ngoại mua luôn mà không chút đắn đo nào.
Anh cả Vệ Hoa thấy tò mò với kiểu buôn bán trên và quyết định thử sức. Anh lấy một chiếc áo len lông lạc đà và đứng ở đầu chợ suốt cả buổi, quyết giữ giá 15 tệ cho cái áo đó. Chẳng ai mua. Vẫn không bằng lòng, ngày hôm sau ra ga xe lửa, nhưng vẫn không thành. Ông tôi khuyên anh từ bỏ. Vì nếu không ai mua một cái đỉnh bằng đồng từ thời Tần với giá 2 tệ, thì một cái áo len đã qua sử dụng càng không có cơ hội.
Bố chúng tôi không có thời gian ở nhà mấy bởi vì tính chất công việc, ngay cả khi đã bị giáng chức xuống làm công nhân nhà máy thép. Đi làm về là ông tự nhốt mình trong một cái miếu nhỏ đã xuống cấp gần nhà chúng tôi. Nơi đó do lão Lưu, một sĩ quan quân đội về hưu quản lý. Lão cũng có thiện cảm với bố tôi, và xem rằng bố tôi đã bị oan ức và để cho ông dùng cái miếu đó. Anh em chúng tôi cuối cùng cũng tìm ra lí do mà bố tôi đã dùng, vào đầu năm 1963, khi người đưa thư đến và đưa một bản thông báo rằng trưởng quận Cao Sơn Quế đã được miễn tội. Bố tôi trước đó luôn gửi thư khiếu nại cho Tỉnh ủy và Đảng bộ Trung ương, vào họ đã xem lại trường hợp của ông.
Bố tôi vốn là một người công chức rất được yêu thích, và việc giáng chức của ông ấy đã dẫn đến một làn sóng phản đối trong tỉnh. Ông còn được ví như kiếp sau của Hải Thụy, một viên trung thần thanh liêm chính trực thời nhà Minh. Công cuộc sửa sai sau này hóa ra chỉ là một cuộc trao đổi giữa chính ủy Hán và văn phòng Đảng ủy tỉnh. Hắn thoát tội mà không nhận lại bất cứ sự trừng phạt nào, thậm chí còn được chuyển công tác đến Đảng ủy thành phố Thạch Gia Trang. Bố tôi được chuyển về làm trưởng huyện Linh Thọ kế bên, với nhân khẩu khoảng 250000 người. Mọi người, trừ 2 con trai cả, là anh Vệ Hoa và tôi, chuyển về huyện vào một ngày mưa gió giữa tháng 8 năm 1963. Năm đó nước sông Hô Đà lên cao và tràn bờ, may thay thị trấn Chính Định được bức tường cổ che chở khỏi dòng lũ. Uy tín của bố tôi từ đó cứ lên cao gấp bội, và ai trong thị trấn cũng nghĩ ông là một vị hiền nhân. Nhưng sau cùng, bức tường cổ đó vẫn bị tháo dỡ.