• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Tại sao không nên vội tin… đức Phật ?

Năm 7-8 tuổi, tôi thường theo bà nội đi chùa và những ngôi chùa với tất cả sự thâm nghiêm, huyền bí của nó đã hấp dẫn thằng-bé-tôi ghê gớm. Khi bà tôi quỳ xuống, chắp tay, cúi đầu vái lạy, tôi cũng được dạy phải làm theo y như thế. Những rung cảm kỳ lạ, khó lý giải xuất hiện trong tâm hồn tôi sau mỗi cái chắp tay, mỗi lần vái lạy.

Mọi thứ cứ diễn ra như vậy cho đến năm 20 tuổi, sau một giấc mơ lạ và sau rất nhiều suy nghĩ chất chứa của cậu-thanh-niên-tôi (chứ không còn là thằng-bé-tôi) về những cái chắp tay, những lần vái lạy trong mỗi lần bước chân vào chùa. Rốt cuộc thì tại sao mình phải quỳ lạy như thế nhỉ?

Tại sao mình phải tin vào sự màu nhiệm huyền bí đến từ những pho tượng trên đài uy nghiêm? Tại sao mình phải tin chỉ vì bà mình đã tin, bố mẹ mình đã tin, những người xung quanh mình đã tin? Tại sao mình phải tin chỉ vì đấy là một niềm tin thói quen - một niềm tin phản xạ vốn đã theo đuổi mình từ thời thơ ấu?

Tôi đem tất cả những thắc mắc này hỏi vị sư ở một ngôi chùa trong lòng Hà Nội. Vị sư đó giải thích với tôi rằng tôn giáo xét cho cùng được xây dựng trên cơ sở của niềm tin. Có niềm tin sẽ có tốt lành. Có niềm tin sẽ có an lạc. Và có niềm tin sẽ có giải thoát. Cách trả lời ấy vừa thỏa mãn, vừa không thỏa mãn tôi.

Thỏa mãn ở chỗ, xét về mặt nguyên lý, đúng là mọi tôn giáo, tín ngưỡng trong cuộc đời này đều xây dựng trên cơ sở của lòng tin, trong đó có những tín ngưỡng bản địa mà lòng tin ấy là vô điều kiện.

Nhưng theo tìm hiểu của tôi khi đó thì tất thảy những tôn giáo lớn đều có một thế giới quan - một nhân sinh quan - một cơ sở lý luận, và nếu bỏ qua những cơ sở lý luận căn bản này để tin ngay, tin vội, tin mơ hồ thì không loại trừ khả năng chúng ta sẽ bị niềm tin dẫn dắt sai đường.

Đọc kinh Phật, tôi chợt nhận ra chính đức Phật cũng có lần đề cập tới điều này. Kinh Kalama - một trong những bộ kinh rất hay và rất nổi tiếng có kể lại câu chuyện một lần Phật đi ngang qua bộ tộc Kalama và những người thanh niên Kalama đã chạy tới hỏi Phật:

- Thưa thầy, bất kể vị đạo sĩ nào đi qua đây cũng nói giáo lý của họ mới đích thực là chân lý. Do vậy, chúng con hoang mang, không biết tin ai!

Câu trả lời của đức Phật:

- Các con đừng vội tin tưởng vào bất cứ điều gì, cho dù những điều ấy đã được chép trong kinh điển. Cũng đừng vội tin tưởng vào bất kỳ điều gì, cho dù điều ấy được nói ra từ những đạo sư danh tiếng.

Thấy các chàng trai Kalama vẫn chưa hiểu, đức Phật nói rõ thêm:

- Với tất cả những điều được người khác rao giảng, các con phải dùng tâm mình để quán chiếu, tìm hiểu và phê phán, rồi ứng dụng nó vào đời sống hằng ngày, xem nó có giúp mình thoát khỏi khổ đau được không. Nếu được thì hãy tin.

Cách trả lời của đức Phật khiến chúng ta phải đi đến một kết luận: Cũng chớ vội tin ngay vào chính đức Phật cùng những giáo lý của người, nếu chưa quán chiếu nó, tìm hiểu nó và ứng nghiệm nó vào cuộc sống của chúng ta.

Hiểu như thế tôi bắt đầu đọc sách Phật nhiều hơn và bắt đầu thử ứng nghiệm những điều mình đọc vào trong cuộc sống của mình.

Thế nên thật sự là tôi vẫn hay vãn cảnh chùa, để tìm một sự bình an nào đó, xua đi những căng thẳng mà đời sống này đem lại. Nhưng tôi không còn chắp tay, vái lạy trước tượng Phật như ngày xưa nữa.
 
CHÚNG SINH CÕI THIÊN MA PHÁ NGƯỜI TU HÀNH NHƯ SAU
1: THÂN THỂ KHÔNG BỊ CHƯỚNG NGẠI
... Người nào trong khi tu thiền do sức dụng công nên tâm tính được nhiệm màu sáng suốt, tự thấy thân mình trong giấy phút qua lại tự tại, không bị cái gì làm chướng ngại. Vì dụng công tu luyện nên tạm hiện ra các việc như vậy, không phải là chứng Thánh, nếu sinh tâm nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma cám dỗ.
2: LOẠI BỎ TRÙNG ĐỘC TRONG THÂN
... Người trong lúc dụng công tu thiền, chợt thấy thân thể mình trong suốt, các loài trùng độc chui bò qua lại trên thân thể, cầm bỏ ra ngoài mà thân thể không đau đớn. Đó chính là dụng công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma cám dỗ.
3: NGHE TRONG HƯ KHÔNG CÓ TIÊNG NÓI PHÁP
... Người trong lúc tu thiền, nghe trong hư không có tiếng thuyết pháp, hoặc nghe Thánh, Hiền, Tiên, Phật trong mười phương thế giới nói ra nghĩa lý nhiệm mầu. Đây là vì người dụng công tu luyện nên tự tâm biện hiện ra cảnh giới như vậy, không phải chứng Thánh, nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma ám ảnh.
4: THẤY PHẬT HIỆN VÀ HOA SEN TRỔ
... Người tu thiền định, khi tâm thanh tịnh rồi thì tự phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ thấy mười phương đều hiện ra sắc vàng, tất cả các vật loại hóa thành Phật hết. Rồi lại thấy đức Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, các đức Phật ngồi xung quanh và có vô số hoa sen đồng thời xuất hiện. Đây là do người dụng công tu thiền nên thấy có các cảnh tạm hiện ra như vậy. Không phải chứng Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma cám dỗ.
5: THẤY CÁC VẬT BÁU ĐẦY KHẮP HƯ KHÔNG.
... Người tu hiền thấy mười phương hư không đều thành bảy báu, nào màu xanh, sắc vàng, đỏ, trắng, hiện ra vô số mà chẳng chướng ngại nhau. Đây là do trong lúc tu thiền. Vì người dụng công đè nén vọng niệm thái quá nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy. Không phải chứng Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma cám dỗ.
6: THẤY BAN ĐÊM NHƯ BAN NGÀY.
... Người tu thiền định. Do tâm yên tịnh nên phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ mặc dù là đêm tối. Ở trong nhà tối mà vẫn thấy rõ hết cả mọi vật, không khác gì ban ngày. Vì người dụng công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy. Ko phải chứng Thánh. Nếu cho mình chứng Thánh thì sẽ bị ma cám dỗ.
7: THÂN THỂ KO BIẾT ĐAU.
... Người tu thiền đến khi tâm tính được rỗng không thì thân thể không biết đau. Lúc bấy giờ lửa đốt không cháy, dao cắt đâm không đau. Đấy là do sức dụng tâm tu luyện của người nên tạm được như vậy. Không phải chứng Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma cám dỗ.
8: THẤY CẢNH GIỚI PHẬT HIỆN KHẮP NƠI
... Người tu thiền do dụng công cùng tột nên thấy mười phương núi sông toàn cả thế giới đều biến thành cõi Phật, đủ hết bảy món báu chiếu sáng khắp giáp. Lại thấy hằng sa chư Phật ở trong cung điện tốt đẹp hiện đầy cả hư không. Trông lên thì thấy các cung trời. Nhìn xuống lại thấy hết các cõi địa ngục đều không có chướng ngại. Đây là do lúc tu thiền, vì người ngưng vọng tưởng lâu ngày nên nó mới hóa hiện như vậy. Không phải chứng Thánh. Nếu cho mình chứng Thành thì bị đọa vào đường tà.
9: BAN ĐÊM THẤY NGHE ĐƯỢC PHƯƠNG XA.
... Trong khi tu thiền. Do tâm tham cứu sâu xa nên trong lúc giữa đêm nghe được tiếng hoặc nhìn thấy được mọi cảnh vật, con người từ ở xa. Đây là do người kiềm thúc vọng tâm thái quá nên tạm thời hiện ra như vậy. Không phải chứng Thánh. Nếu cho mình chứng Thánh thì bị đọa vào đường tà.
10: THÂN HÌNH BIẾN HÓA, NÓI PHÁP THÔNG SUỐT.
... Trong khi tu thiền. Do người dụng tâm tham cứu cùng tột nên thấy có các vị thiện tri thức, chỉ trong giây phút mà thân mình biến hóa nhiều cách. Đây là do trong khi tu thiền vì người sinh tâm chấp trước nên bị ma ám ảnh, làm cho người đó thông suốt nghĩa mầu, nói pháp vô ngại. Không phải chứng Thánh. Nếu không chấp trước thì cảnh ma này dần dần tiêu trừ. Còn nếu cho mình chứng Thánh thì bị đọa vào cảnh ma.
11: THẤY LOÀI VẬT THƯƠNG KHÓC.
... Người tu thiền khi phá trừ săc ấm rồi. Tâm trí sáng suốt. Do người dụng công dằn ép các vọng tưởng thái hóa nên phát sinh lòng thương xót các loài vật vô cùng, cho đến thấy các loài mòng muỗi, thương cũng như con ruột, thương đến nỗi sa nước mắt khóc hoài. Nếu người giác ngộ thì cảnh ấy dần dần tiêu hết ko có hại gì. Còn mê lầm không biết thì bị Ma Sầu Bi ám ảnh vào tâm, rồi thấy người tự khóc hoài. Tâm mất chánh định. Sau khi chết bị đọa vào cảnh ma.
12: CHÍ DŨNG MÃNH BẰNG PHẬT.
... Người tu thiền khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, thấy có nhiều điều linh ứng và những cảnh tốt đẹp hiện ra. Vì trong lòng cảm khích thái quá nên người phát tâm đại dũng mãnh, lập chí đồng với chư Phật, quyết tu một đời cho thành Phật. Không chịu trải qua bao vô số kiếp. Nếu người giác ngộ thì cảnh ấy dần dần tiêu diệt. Còn mê lầm không biết mà cho mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm. Lúc đó thấy người hay khoe khoang hống hách, ngã mạn không ai băng, cho đến trên thấy không có Phật, dưới thấy không có người. Mất chánh định. Sau khi chết rồi bị đọa vào ác đạo.
13: TÂM NGHĨ TƯỞNG KHÔ KHAN.
... Người tu thiền. Khi cảnh giới địa vị đã qua khỏi. Cảnh giới địa vị mới chưa chứng. Lúc ấy bơ vơ giữa chừng vì trí lực suy kém nên trong tâm sanh ra khô khan. Tất cả thời khoảnh khắc giây phút nhớ nghĩ vẩn vơ rồi tự cho đó là tinh tấn. Đây là vì trong lúc tu thiền không có trí tuệ sáng suốt để phán đoán. Nếu người hiểu biết thì không có hại. Còn mê lầm không biết, cho mình chứng Thánh thì bị ma ám ảnh vào tâm. Mất chánh định. Chết rồi đọa vào ác đạo.
14: ĐẶNG CHÚT ÍT CHO LÀ ĐẦY ĐỦ. ( đặng tức là được. Đặng trong bài là chứng được).
... Người tu thiền định khi sắc ấm tiêu. Thọ ấm hiện bày. Vì dùng huệ nhiều hơn định. Mất sự thăng bằng nên gặp những cảnh thù thắng hiện ra. Sanh lòng nghi ngờ cho là Đức Tỳ Lô Giá Na Phật, mới đặng chút ít cho là đầy đủ. Nếu người hiểu biết thì không có hại. Còn mê lầm không biết cho mình chứng Thánh thì bị ma ám ảnh. Khi gặp ai, gặp người nào cũng tự xưng chứng đắc đạo vô thượng Bồ Đề. Như thế sẽ mất chánh định. Sau chết đọa vào đường ma.
15: TÂM BUỒN RẦU VÔ HẠN.
... Người tu thiền định khi cảnh cũ đã mất. Địa vị mới chưa chứng. Tự thấy bơ vơ. Gặp cảnh gian nan nguy hiểm, sinh tâm buồn rầu vô hạn, tâm không muốn sống. Cầu xin người khác giết giúp thân mạng mình để sớm được giải thoát. Đây là do trong khi tu hành. Người tu thiếu phương tiện để lướt qua những cảnh ấy. Nếu liễu ngộ (nhận biết) thì không hại. Còn mê lầm không biết mà cho mình chứng Thánh thì bị Ma Ưu Sầu ám ảnh rồi lúc thiền tự cầm gươm dao lóc lấy thịt mình, thích bỏ thân mạng, thường hay lo buồn hoặc vào ở núi non rừng rú, không muốn thấy người, mất tâm chánh định, sau chết rồi đọa vào đường ma.
16: VUI CƯỜI KHÔNG THÔI.
... Người tu thiền định khi tâm được thanh tịnh an ổn rồi. Bỗng nhiên sinh ra vui mừng vô hạn không thể ngăn được. Nếu hiểu biết thì không hại. Còn mê lầm cho mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm. Lúc đó thấy ai cũng cười. Đi đứng nằm ngồi một mình cũng cười. Đi đường một mình thì nói cười ca múa tự cho rằng đã chứng được vô ngại giải thoát. Như thế mất chánh định và chết sẽ đọa đường tà.
17: SINH ĐẠI NGÃ MẠN.
... Người tu thiền định khi thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, tự cho được như thế là đầy đủ rồi, sinh tâm đại ngã mạn. Đối với mười phương chư Phật còn khinh khi. Huống hồ là Thinh Văn, Duyên Giác. Nếu hiểu ngộ (nhận biết) thì không hại. Còn nếu mê lầm không biết cho là chứng Thánh thì bị ma đại ngã mạn nó nhập tâm. Không lạy Phật Tổ. Hủy hoại kinh tượng. Hạng người ấy thường nói với tín đồ rằng: Tượng Phật bằng cây gỗ, đất, đồng, chì...v.v. Còn kinh chỉ là giấy mực. Có gì mà kính lạy. Nhục thân (thân thể người) này mới là chân thật hiện hữu, sao không cung kính, thật là điên đảo. Tín đồ nghe rồi tin theo, đốt kinh phá hủy tượng Phật. Người làm cho chúng sinh nghi lầm như thế. Sau khi chết rồi bị đọa vào địa ngục vô gián.
18: TÂM SINH KHINH AN.
... Người tu thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày. Trong tâm sinh ra vô lượng khinh an rồi tự cho mình đã chứng Thánh, được đại tự tại. Nếu người hiểu biết thì không hại. Còn mê lầm không biết thì bị ma nhập tâm rồi tự cho mình đã đầy đủ, không cần tinh tấn, mất chánh định. Sau khi chết rồi bị đọa vào đường tà.
19: CHẤP KHÔNG.
... Người tu thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày thì trong tâm bỗng sáng rồi sinh ra chấp đoạn diệt. Bác không có nhân quả, không có tội phúc, tất cả đều không. Nếu người hiểu biết thì không hại. Còn mê lầm không biết chấp mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, rồi chê bai người trì giới cho là tu hành Tiểu Thừa. Tự cho, tự xưng mình là Bồ Tát ngộ lý chân không rồi. Không còn trì giới và không phạm giới nữa. Vẫn ăn thịt và uống rượu và làm những việc tà dục. Do thần lực của ma làm cho người say mê. Thương yêu cung phụng, luôn luôn trung thành, chẳng sinh lòng nghi ngờ hủy báng. Vì ma nhập lâu ngày làm cho phải điên. Đến nỗi ăn uống những đồ nhơ uế, cũng như uống rượu ăn thịt, phá các giới cấm của Phật, hoàn toàn chấp không. Làm mất chánh kiến của mình. Sau khi chết rồi đọa vào đường ác.
20: VÌ QUÁ THAM ÁI NÊN SINH RA CUỒNG
... Người tu thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày thì sinh ra vô cùng ái dục, đến nỗi phát cuồng. Nếu người giác ngộ thì cảnh đó hết dần. Còn nếu mê lầm không biết cho là chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, rồi khuyến hóa người đời bình đẳng hành dục, nói với tín đồ rằng: Hành dục là đạo Bồ Đề, người hành dâm dục là kẻ duy trì chánh pháp. Do thần lực của ma làm cho người cuồng kia chinh phục được cả ngàn muôn người. Đến chừng ma nhàm chán, bỏ người tu thiền kia rồi. Lúc bấy giờ người không còn oai đức gì nữa. Bị luật nước giam cầm xử trị. Đến khi chết bị đọa vào địa ngục vô gián.

copy của người anh/ người thầy/ của t
 
Nếu làm theo đức Phật sai do mày không hiểu lời Phật dạy, không phải lời nói bọn súc vật. Nếu muốn gặp hỏi thì mày đi chết rồi đối chất. (khốn nạn nhất chỗ này)
Phật, Chúa, ông bà xưa, thánh Alla là những người bị nhét chữ vào mồm nhiều nhất,
 
Vô vi là ko có hình tướng,là thật tướng, còn cái gì thấy ở kiếp người chỉ là nhân duyên mà tạo thành, nên nó ko thật thì gọi là hữu vi
Hữu vi là các pháp được tạo thành, duyên sanh. Vi có nghĩa: tạo. Các pháp hữu vi bao gồm Danh - Sắc, gồm cả hình tướng và không hình tướng. Các Pháp hữu vi: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Pháp vô vi có nghĩa: pháp này không được tạo thành, không phải duyên sanh. Chỉ có một: Niết Bàn.
 
Hữu vi là các pháp được tạo thành, duyên sanh. Vi có nghĩa: tạo. Các pháp hữu vi bao gồm Danh - Sắc, gồm cả hình tướng và không hình tướng. Các Pháp hữu vi: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Pháp vô vi có nghĩa: pháp này không được tạo thành, không phải duyên sanh. Chỉ có một: Niết Bàn.
Lại sách vỡ
 
Hữu vi là các pháp được tạo thành, duyên sanh. Vi có nghĩa: tạo. Các pháp hữu vi bao gồm Danh - Sắc, gồm cả hình tướng và không hình tướng. Các Pháp hữu vi: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Pháp vô vi có nghĩa: pháp này không được tạo thành, không phải duyên sanh. Chỉ có một: Niết Bàn.
mày nói ngôn ngữ cõi nào vậy
 
Đã ko có đúng, ko có sai r thì quán chiếu làm gì nhỉ? Có quán chiếu thì phật giáo đâu phải xây dựng trên đức tin?
 
Sửa lần cuối:
Vị sư đó giải thích với tôi rằng tôn giáo xét cho cùng được xây dựng trên cơ sở của niềm tin. Có niềm tin sẽ có tốt lành. Có niềm tin sẽ có an lạc. Và có niềm tin sẽ có giải thoát.
Vị này chắc mới chuyển về
 
"Vô vi là ko có hình tướng,là thật tướng, còn cái gì thấy ở kiếp người chỉ là nhân duyên mà tạo thành, nên nó ko thật thì gọi là hữu vi"

Ngu không biết mình ngu.
Tao biết tao ngu chứ, nhưng tao ghét mầy thằng ngu gôm sách vỡ vào ok chưa
 
ko có giới luật sao tu được mậy
Mày nên phân biệt sự khác nhau giữa giới luật và "loại bỏ tính dục". Thôi để tao giải thích luôn về bề mặt cho mày nắm: "Cố gắng tránh xa sự tà dâm" tà dâm ở đây không có nghĩa là nghỉ khỏi chịch, mà nghĩa là đừng hiếp dâm, chịch vợ bạn làm tâm lo lắng, bất an, pháp luật truy cứu ảnh hưởng tới việc tu thôi. Giới luật này được áp dụng cho cư sĩ tại gia, người có thể chứng đắc được quả vị cao nhất: A-la-hán (dù sau đó phải xuất gia hoặc nhập diệt), huống chi từ Dự lưu đến Bất lai.
 
Đm giờ nghe nói lời phật phải xem là văn thằng nào đã, kiểu thằng thích nhật từ mất công đọc lại tẩu hoả nhập ma bcm. Tốt nhất lựa 1 thầy uy tín rồi thẳng tiến khỏi nghe ngang dọc mất cônh.
 
Mày nên phân biệt sự khác nhau giữa giới luật và "loại bỏ tính dục". Thôi để tao giải thích luôn về bề mặt cho mày nắm: "Cố gắng tránh xa sự tà dâm" tà dâm ở đây không có nghĩa là nghỉ khỏi chịch, mà nghĩa là đừng hiếp dâm, chịch vợ bạn làm tâm lo lắng, bất an, pháp luật truy cứu ảnh hưởng tới việc tu thôi. Giới luật này được áp dụng cho cư sĩ tại gia, người có thể chứng đắc được quả vị cao nhất: A-la-hán (dù sau đó phải xuất gia hoặc nhập diệt), huống chi từ Dự lưu đến Bất lai.
Thế cho t hỏi Thich Nhật Từ và Thích Tâm Phúc ai tu vi cao hơn m
 
Năm 7-8 tuổi, tôi thường theo bà nội đi chùa và những ngôi chùa với tất cả sự thâm nghiêm, huyền bí của nó đã hấp dẫn thằng-bé-tôi ghê gớm. Khi bà tôi quỳ xuống, chắp tay, cúi đầu vái lạy, tôi cũng được dạy phải làm theo y như thế. Những rung cảm kỳ lạ, khó lý giải xuất hiện trong tâm hồn tôi sau mỗi cái chắp tay, mỗi lần vái lạy.

Mọi thứ cứ diễn ra như vậy cho đến năm 20 tuổi, sau một giấc mơ lạ và sau rất nhiều suy nghĩ chất chứa của cậu-thanh-niên-tôi (chứ không còn là thằng-bé-tôi) về những cái chắp tay, những lần vái lạy trong mỗi lần bước chân vào chùa. Rốt cuộc thì tại sao mình phải quỳ lạy như thế nhỉ?

Tại sao mình phải tin vào sự màu nhiệm huyền bí đến từ những pho tượng trên đài uy nghiêm? Tại sao mình phải tin chỉ vì bà mình đã tin, bố mẹ mình đã tin, những người xung quanh mình đã tin? Tại sao mình phải tin chỉ vì đấy là một niềm tin thói quen - một niềm tin phản xạ vốn đã theo đuổi mình từ thời thơ ấu?

Tôi đem tất cả những thắc mắc này hỏi vị sư ở một ngôi chùa trong lòng Hà Nội. Vị sư đó giải thích với tôi rằng tôn giáo xét cho cùng được xây dựng trên cơ sở của niềm tin. Có niềm tin sẽ có tốt lành. Có niềm tin sẽ có an lạc. Và có niềm tin sẽ có giải thoát. Cách trả lời ấy vừa thỏa mãn, vừa không thỏa mãn tôi.

Thỏa mãn ở chỗ, xét về mặt nguyên lý, đúng là mọi tôn giáo, tín ngưỡng trong cuộc đời này đều xây dựng trên cơ sở của lòng tin, trong đó có những tín ngưỡng bản địa mà lòng tin ấy là vô điều kiện.

Nhưng theo tìm hiểu của tôi khi đó thì tất thảy những tôn giáo lớn đều có một thế giới quan - một nhân sinh quan - một cơ sở lý luận, và nếu bỏ qua những cơ sở lý luận căn bản này để tin ngay, tin vội, tin mơ hồ thì không loại trừ khả năng chúng ta sẽ bị niềm tin dẫn dắt sai đường.

Đọc kinh Phật, tôi chợt nhận ra chính đức Phật cũng có lần đề cập tới điều này. Kinh Kalama - một trong những bộ kinh rất hay và rất nổi tiếng có kể lại câu chuyện một lần Phật đi ngang qua bộ tộc Kalama và những người thanh niên Kalama đã chạy tới hỏi Phật:

- Thưa thầy, bất kể vị đạo sĩ nào đi qua đây cũng nói giáo lý của họ mới đích thực là chân lý. Do vậy, chúng con hoang mang, không biết tin ai!

Câu trả lời của đức Phật:

- Các con đừng vội tin tưởng vào bất cứ điều gì, cho dù những điều ấy đã được chép trong kinh điển. Cũng đừng vội tin tưởng vào bất kỳ điều gì, cho dù điều ấy được nói ra từ những đạo sư danh tiếng.

Thấy các chàng trai Kalama vẫn chưa hiểu, đức Phật nói rõ thêm:

- Với tất cả những điều được người khác rao giảng, các con phải dùng tâm mình để quán chiếu, tìm hiểu và phê phán, rồi ứng dụng nó vào đời sống hằng ngày, xem nó có giúp mình thoát khỏi khổ đau được không. Nếu được thì hãy tin.

Cách trả lời của đức Phật khiến chúng ta phải đi đến một kết luận: Cũng chớ vội tin ngay vào chính đức Phật cùng những giáo lý của người, nếu chưa quán chiếu nó, tìm hiểu nó và ứng nghiệm nó vào cuộc sống của chúng ta.

Hiểu như thế tôi bắt đầu đọc sách Phật nhiều hơn và bắt đầu thử ứng nghiệm những điều mình đọc vào trong cuộc sống của mình.

Thế nên thật sự là tôi vẫn hay vãn cảnh chùa, để tìm một sự bình an nào đó, xua đi những căng thẳng mà đời sống này đem lại. Nhưng tôi không còn chắp tay, vái lạy trước tượng Phật như ngày xưa nữa.
Trí tuệ không đủ thì chân lý trước mắt cũng không nhận ra. Tâm không hướng Phật thì tụng kinh cũng không giải quyết vấn đề gì.
 
Mày nên phân biệt sự khác nhau giữa giới luật và "loại bỏ tính dục". Thôi để tao giải thích luôn về bề mặt cho mày nắm: "Cố gắng tránh xa sự tà dâm" tà dâm ở đây không có nghĩa là nghỉ khỏi chịch, mà nghĩa là đừng hiếp dâm, chịch vợ bạn làm tâm lo lắng, bất an, pháp luật truy cứu ảnh hưởng tới việc tu thôi. Giới luật này được áp dụng cho cư sĩ tại gia, người có thể chứng đắc được quả vị cao nhất: A-la-hán (dù sau đó phải xuất gia hoặc nhập diệt), huống chi từ Dự lưu đến Bất lai.
Tu tại gia mà vẫn chứng alahan dc hả
 
Năm 7-8 tuổi, tôi thường theo bà nội đi chùa và những ngôi chùa với tất cả sự thâm nghiêm, huyền bí của nó đã hấp dẫn thằng-bé-tôi ghê gớm. Khi bà tôi quỳ xuống, chắp tay, cúi đầu vái lạy, tôi cũng được dạy phải làm theo y như thế. Những rung cảm kỳ lạ, khó lý giải xuất hiện trong tâm hồn tôi sau mỗi cái chắp tay, mỗi lần vái lạy.

Mọi thứ cứ diễn ra như vậy cho đến năm 20 tuổi, sau một giấc mơ lạ và sau rất nhiều suy nghĩ chất chứa của cậu-thanh-niên-tôi (chứ không còn là thằng-bé-tôi) về những cái chắp tay, những lần vái lạy trong mỗi lần bước chân vào chùa. Rốt cuộc thì tại sao mình phải quỳ lạy như thế nhỉ?

Tại sao mình phải tin vào sự màu nhiệm huyền bí đến từ những pho tượng trên đài uy nghiêm? Tại sao mình phải tin chỉ vì bà mình đã tin, bố mẹ mình đã tin, những người xung quanh mình đã tin? Tại sao mình phải tin chỉ vì đấy là một niềm tin thói quen - một niềm tin phản xạ vốn đã theo đuổi mình từ thời thơ ấu?

Tôi đem tất cả những thắc mắc này hỏi vị sư ở một ngôi chùa trong lòng Hà Nội. Vị sư đó giải thích với tôi rằng tôn giáo xét cho cùng được xây dựng trên cơ sở của niềm tin. Có niềm tin sẽ có tốt lành. Có niềm tin sẽ có an lạc. Và có niềm tin sẽ có giải thoát. Cách trả lời ấy vừa thỏa mãn, vừa không thỏa mãn tôi.

Thỏa mãn ở chỗ, xét về mặt nguyên lý, đúng là mọi tôn giáo, tín ngưỡng trong cuộc đời này đều xây dựng trên cơ sở của lòng tin, trong đó có những tín ngưỡng bản địa mà lòng tin ấy là vô điều kiện.

Nhưng theo tìm hiểu của tôi khi đó thì tất thảy những tôn giáo lớn đều có một thế giới quan - một nhân sinh quan - một cơ sở lý luận, và nếu bỏ qua những cơ sở lý luận căn bản này để tin ngay, tin vội, tin mơ hồ thì không loại trừ khả năng chúng ta sẽ bị niềm tin dẫn dắt sai đường.

Đọc kinh Phật, tôi chợt nhận ra chính đức Phật cũng có lần đề cập tới điều này. Kinh Kalama - một trong những bộ kinh rất hay và rất nổi tiếng có kể lại câu chuyện một lần Phật đi ngang qua bộ tộc Kalama và những người thanh niên Kalama đã chạy tới hỏi Phật:

- Thưa thầy, bất kể vị đạo sĩ nào đi qua đây cũng nói giáo lý của họ mới đích thực là chân lý. Do vậy, chúng con hoang mang, không biết tin ai!

Câu trả lời của đức Phật:

- Các con đừng vội tin tưởng vào bất cứ điều gì, cho dù những điều ấy đã được chép trong kinh điển. Cũng đừng vội tin tưởng vào bất kỳ điều gì, cho dù điều ấy được nói ra từ những đạo sư danh tiếng.

Thấy các chàng trai Kalama vẫn chưa hiểu, đức Phật nói rõ thêm:

- Với tất cả những điều được người khác rao giảng, các con phải dùng tâm mình để quán chiếu, tìm hiểu và phê phán, rồi ứng dụng nó vào đời sống hằng ngày, xem nó có giúp mình thoát khỏi khổ đau được không. Nếu được thì hãy tin.

Cách trả lời của đức Phật khiến chúng ta phải đi đến một kết luận: Cũng chớ vội tin ngay vào chính đức Phật cùng những giáo lý của người, nếu chưa quán chiếu nó, tìm hiểu nó và ứng nghiệm nó vào cuộc sống của chúng ta.

Hiểu như thế tôi bắt đầu đọc sách Phật nhiều hơn và bắt đầu thử ứng nghiệm những điều mình đọc vào trong cuộc sống của mình.

Thế nên thật sự là tôi vẫn hay vãn cảnh chùa, để tìm một sự bình an nào đó, xua đi những căng thẳng mà đời sống này đem lại. Nhưng tôi không còn chắp tay, vái lạy trước tượng Phật như ngày xưa nữa.
có gì lạ đâu, đức phật trước khi giác ngộ cũng phải đi học đủ các thầy bà la môn khác. Có một điều chắc chắn là mày vẫn phải học thầy và tin thầy để có cái mà vận dụng thì mới biết đúng hay không. Còn mới nghe bài vậy mà đã kêu đóe có thầy nào nói thật thì thôi tao thua mày
 
Tu tại gia mà vẫn chứng alahan dc hả
hiểu tu là sửa mình, phật( buddha) là người đã giác ngộ. Có hay ko có phật thì chân lý vũ trụ nó vẫn vậy. Phật để lại giáo lý( ngay cả kinh Nikaya được cho là nguyên bản nhất của ngài tất Đạt Đa Cổ Đàn cũng đúng khoản 70%), do truyền miệng, ghi chép nên tam sao thất bản. Vậy nên cẩn thận khi đọc các bản kinh.
Tu để chứng này chứng nọ nó hình thành lòng tham, tham đạt thành quả.
Sửa mình thì hoàn cảnh nào chẳng được, môi trường nào chẳng được, tuỳ hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Bổ sung: xưa các vị thầy ko cho trò đọc kinh sách sớm vì ngộ chữ, cứ bám vào đó. Nó cũng là cản trở việc tu, khi ngộ ra được gì đó kinh sách tham khảo, đối chiếu những gì các vị đã nói.
Căn bản nhất theo tao
. Bát chánh đạo
. 37 phẩm trợ đạo
. Kinh pháp cú
Ban đầu vậy là đủ
 
Sửa lần cuối:

Có thể bạn quan tâm

Top