congarung1988
Thích phó đà
Lâu lâu không viết lách, xin được viết về 2 câu chuyện Lịch sử của TQ dưới góc nhìn của tao. Cảm hứng từ tmb @TrienChjeu và @Tieulongnu
https://i.*********/2023/03/23/Ban-do-xuan-thua1733008c99ffa8b.png
Trong đó giai đoạn chiến Quốc là giai đoạn gồm có bẩy nước lớn và một số những nước nhỏ phụ dung kéo dài bắt đầu từ khi ba họ Triệu Ngụy Hàn phân chia Tam Tấn. Đây là giai đoạn kết thúc việc hàng trăm nước lớn nhỏ thời Xuân Thu, và 7 nước lớn thống trị toàn cõi Trung Quốc.
https://i.*********/2023/03/23/Ban-do-Chien-quoc-That-hunga502a4d53f768627.jpg
Trong đó nước Tề đã trở nên giàu có nhờ nguồn lợi từ muối và thương nghiệp, nước Sở trở thành quốc gia rộng nhất và đông dân nhất nhờ hàng loạt cuộc chiến tranh thôn tính các quốc gia Ở miền sông Hán, nước Việt ở Giang Nam, tiến lên vùng Hà Nam và Sơn Đông khi chiếm các quốc gia như nước Lỗ, nước Trần, nước Thái... Còn vùng đất thuộc Tam Tấn cũ thì nước Triệu sau cải cách của Triệu Vũ Linh Vương đã trở nên mạnh mẹ nhờ việc áp dụng lối chiến đấu của người hồ. Nước Triệu trở thành một trong những đối trọng quân sự lớn nhất của nước Tần.
https://i.*********/2023/03/23/Tan-Chieu-Tuong-vuong45f5acbdd7192047.jpg
Tuy nhiên, sang thời Chiến Quốc, quốc gia mạnh nhất trong giai đoạn này lại là nước Tần. Sau khi cải cách của Thương Ưởng. Nước Tần đã phát triển một chế độ xã hội tập trung quyền lực cao độ vào tay nhà vua. Cả quốc gia trở thành một bộ máy chiến tranh khổng lồ. Nước Tần nhanh chóng tiến sang phía Đông tiêu diệt nhiều nước nhỏ và xâm lược các vùng đất rộng lớn của Ngụy, Sở, Hàn như vùng Tây Hà của ngụy vùng Ba, Thục của Sở thậm chí còn tiến chiếm kinh đô Dĩnh của Sở, An Ấp của Nguỵ. Buộc nước Sở nước Ngụy phải dời đô về phía Đông (Thọ Xuân, Đại Lương).
Sau đó dù Điền Đan có khôi phục lại nước Tề, nhưng lãnh thổ đã bị nước Yên Triệu và nước Sở chiếm nhiều vùng lãnh thổ, Tề chỉ còn rộng 2000 dặm vuông, nước Tề không thể khôi phục lại sức mạnh giống như thời đại của Tề Uy Vương (Thời ấy Tề - Tần mạnh nhất, vua Tề xưng là Đông Đế, Tần xưng là Tây Đế).
Ngụy cũng phải dời đô từ An ấp về đại lương. Biểu lộ sự suy yếu so với các nước như Tần, Sở. Nước ngụy chỉ còn rộng hơn 1000 dặm vuông . Địa thế của Ngụy cũng không đẹp khi là bãi chiến trường do nằm trung tâm Trung Nguyên, ở giữa trong các quốc gia Thất Hùng.
Vào thời kỳ đỉnh cao nước Triệu có tới năm mươi đến sáu mươi vạn quân là lực lượng quân sự mạnh nhất trong sáu nước Sơn Đông. Tuy nhiên sau trận Trường Bình, quốc lực của Triệu suy yếu trầm trọng và không còn là đối thủ của nước Tần. Triệu có rất nhiều tướng giỏi như Nhạc Nghi, Triệu Xa, Liêm Pha... Có thể coi sự thất bại trong trận Trường Bình là dấu mốc quan trọng dẫn đến việc nước Tần thống nhất Trung Hoa.
(Còn tiếp)
Bởi vậy có những gia tộc xuất thân cao quý như họ Vương, họ Tạ, họ Tiêu, họ Chu, họ Viên,... Từ thời lưỡng Tấn trở đi đều luôn chiếm những địa vị cao trong triều đình. Dù cho những người này tài năng tầm thường.
Vấn đề sĩ tộc nằm ở chỗ - họ không chỉ là nắm quyền lực lớn mà còn ở khía cạnh - Kiêm tính ruộng đất. Từ thời Đông Hán, vua Quang Vũ đế lên ngôi không chỉ nhờ công mình, mà còn cả cha anh, bạn bè - gọi là tập đoàn Nam Dương. Họ giúp ông ta lên ngôi, thì cũng đồng thời nhận của ông ta rất nhiều quyền lợi (bỏ binh quyền, vui hưởng vinh hoa, phú quý). Nạn kiêm tính ruộng đất càng ngày càng phát triển. Quan lại vơ vét đất cát ruộng vườn, lập điền trang, ổ bảo, xây dựng quân đội riêng. Việc này khiến cho nhà Đông Hán sụp đổ bởi khởi nghĩa nông dân của dân nghèo, bần cùng hóa. Tuy nhiên sang thời Lưỡng Tấn và Lục triều, hiện tượng không giảm đi mà còn mạnh hơn. Nhà nước không có nguồn thu, dân không đóng thuế cho nhà nước, mà nộp tô cho địa chủ sỹ tộc. Quốc gia càng lúc càng yếu mà địa chủ mỗi lúc mỗi giàu. Nhà nước không có cách nào hạn chế được. Dẫn đến kết cục Nam Triều suy vong.
https://i.*********/2023/03/23/Bac-Nguy-Hieu-Van-De2c6ef65750b0aaff.jpg
Ông là người Thiết lập nên hệ thống “con vua lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa” cho người phương Bắc. Hệ thống này tồn tại mãi cho tới khi nhà đường được thiết lập. Một bộ phận lớn các quan lại cho tới thời kỳ của đường Huyền tông, vẫn là con cháu của các gia tộc lớn như họ Tiết, họ Bùi, họ Nguyên, họ Thôi, họ Vương...
Bị tuy không phải dòng dõi gần của nhà Hán, cũng là con cháu hoàng tộc. Có thuyết nói Bị là cháu Trung Sơn Tĩnh vương. Có thuyết nói là con cháu Lâm Ấp hầu. Nhưng tựu chung đều là dòng dõi nhà Hán. Nếu không dựa vào cái dòng dõi này, chắc chắn ông ta không thể làm nên nghiệp lớn. Họ Tôn của ba cha con Kiên – Sách – Quyền tuy không phải là thế gia vọng tộc đất Phú Xuân. Nhưng vẫn nhận mình là con cháu Tôn Vũ.
Truyện Chiến Quốc
Sự tạo thành giai đoạn Chiến quốc
Nhà Chu là triều đại lịch sử dài nhất Trung Quốc. Tuy nhiên triều đại này thực tế chỉ là dạng liên minh các bộ lạc mà nhà Chu chỉ kiểm soát một vùng lãnh thổ tương đối nhỏ hẹp. Giai đoạn nhà Chu được chia làm hai phần gồm có Đông Chu và Tây Chu. Giai đoạn Đông Chu (bắt đầu từ khi chú Bình Vương dời đô từ đất Cảo ( vùng Quan Trung) sang Lạc Dương). Đông Chu lại được chia làm hai giai đoạn nhỏ hơn là Xuân Thu và chiến Quốc.https://i.*********/2023/03/23/Ban-do-xuan-thua1733008c99ffa8b.png
Trong đó giai đoạn chiến Quốc là giai đoạn gồm có bẩy nước lớn và một số những nước nhỏ phụ dung kéo dài bắt đầu từ khi ba họ Triệu Ngụy Hàn phân chia Tam Tấn. Đây là giai đoạn kết thúc việc hàng trăm nước lớn nhỏ thời Xuân Thu, và 7 nước lớn thống trị toàn cõi Trung Quốc.
https://i.*********/2023/03/23/Ban-do-Chien-quoc-That-hunga502a4d53f768627.jpg
Đặc điểm của gia đoạn Chiến quốc
Điểm đặc trưng của giai đoạn chiến Quốc là các quốc gia đã trở nên mạnh hơn về quân sự, giầu có hơn về kinh tế và đây cũng là giai đoạn có những thay đổi đặc biệt khi công cụ bằng sắt đã trở nên cực kỳ phổ biến, kinh tế phát triển các vùng đất được khai hoang, dân cư trở nên đông đúc. Thời điểm này, người ta ước tính Trung Quốc có cỡ 20 triệu dân.Trong đó nước Tề đã trở nên giàu có nhờ nguồn lợi từ muối và thương nghiệp, nước Sở trở thành quốc gia rộng nhất và đông dân nhất nhờ hàng loạt cuộc chiến tranh thôn tính các quốc gia Ở miền sông Hán, nước Việt ở Giang Nam, tiến lên vùng Hà Nam và Sơn Đông khi chiếm các quốc gia như nước Lỗ, nước Trần, nước Thái... Còn vùng đất thuộc Tam Tấn cũ thì nước Triệu sau cải cách của Triệu Vũ Linh Vương đã trở nên mạnh mẹ nhờ việc áp dụng lối chiến đấu của người hồ. Nước Triệu trở thành một trong những đối trọng quân sự lớn nhất của nước Tần.
Nước Tần xưng Bá
Thời Xuân Thu, có năm vị chư hầu xưng bá. Lần lượt là Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Sở Trang Vương, Tống Tương công. Có thuyết khác là Phù Sai, Câu Tiễn thay cho Tống Tương Công. Trong giai đoạn này, hai nước Tấn và sở là hai nước mạnh nhất. Tề là nước lớn duy nhất không phải nộp cống cho hai nước này. Nước Tần cũng là nước lớn, nhưng lại nằm ở phía Tây xa xôi hẻo lánh.https://i.*********/2023/03/23/Tan-Chieu-Tuong-vuong45f5acbdd7192047.jpg
Tuy nhiên, sang thời Chiến Quốc, quốc gia mạnh nhất trong giai đoạn này lại là nước Tần. Sau khi cải cách của Thương Ưởng. Nước Tần đã phát triển một chế độ xã hội tập trung quyền lực cao độ vào tay nhà vua. Cả quốc gia trở thành một bộ máy chiến tranh khổng lồ. Nước Tần nhanh chóng tiến sang phía Đông tiêu diệt nhiều nước nhỏ và xâm lược các vùng đất rộng lớn của Ngụy, Sở, Hàn như vùng Tây Hà của ngụy vùng Ba, Thục của Sở thậm chí còn tiến chiếm kinh đô Dĩnh của Sở, An Ấp của Nguỵ. Buộc nước Sở nước Ngụy phải dời đô về phía Đông (Thọ Xuân, Đại Lương).
Đặc điểm của nước Tần
Về địa lý
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nước Tần là họ nằm ở sâu miền biên viễn phía Tây nên không chịu lửa binh đao. Trong khi các quốc gia miền Sơn Đông thường xuyên chịu cảnh chiến tranh chinh phạt lẫn nhau, thì họ lại có thời gian và tập trung nguồn lực để tiêu diệt các quốc gia nhỏ ở gần. Không những vậy đặc điểm quân sự của nước Tần là sự pha trộn giữa người khương và người hán. Họ sở hữu thể chất ưu việt hơn so với các quốc gia phía Đông.Về mặt địa hình
Nước Tần sở hữu địa thế ưu việt hơn hẳn so với các nước miền Đông , cao hơn, lại có các cửa quan hiểm yếu mà tiêu biểu là Hàm Cốc quan nổi tiếng - điều này được thể hiện rất rõ trong bài “Quá Tần luận” của Giả Nghị.Về nhân Tài
Không giống như các quốc gia phía Đông, các vua của nước Tần hiểu rõ nước mình nhỏ hẹp và không có điều kiện tự nhiên thuận lợi như các quốc gia Sơn Đông nên rất chú trọng vào việc tận dụng nhân tài từ các nước láng giềng như Bách lý Hề, thương Ưởng, Phạm Thư... để phát triển đất nước.Về mặt Hành chính
Sau khi chiếm được các vùng đất rộng lớn ở phía Đông, họ cũng không phân phòng cho quý tộc và vương hầu mà biến thành quận huyện, tiến hành khai hoang, thu thuế nhằm bổ sung vào nguồn lực quốc gia. Nhờ đó họ có thể tạo ra những nguồn lực lớn về tài chính nhằm hỗ trợ cho các cuộc Đông chinh. Sử ký có ghi Ba Thục là kho của trời - Ý chỉ miền Tứ Xuyên - là vùng đất tạo ra nguồn lương thực quan trọng giúp cho nước tình trở nên giàu cóNguồn lực và sức mạnh của các Quốc gia Chiến Quốc
Xét về nguồn lực của các quốc gia, cá nhân tôi đánh giá:Nước Tề
Tề là nước giầu nhất nhờ có muối từ Biển, cư dân đông đúc, Thành Lâm Tri có tới gần 10 vạn hộ là một ví dụ. Tề có quân đội thường trực đông đảo 40-50 vạn. Tuy nhiên lại là quốc gia khó mở rộng lãnh thổ nhất - bởi vì phía Bắc đụng phải nước Yên, nước Triệu, phía Tây giáp nước Ngụy phía Nam thì giáp Sở. Nên không có nhiều cơ hội để mở rộng lãnh thổ. Bằng chứng là việc sau khi cùng Ngụy, Sở tiêu diệt nước Tống, Tề đánh vào Yên, các quốc gia khác đã hợp lực cùng với nước Yên đánh vào nước Tề, giết vua Tề và suýt làm cho nước ta bị tiêu diệt.Sau đó dù Điền Đan có khôi phục lại nước Tề, nhưng lãnh thổ đã bị nước Yên Triệu và nước Sở chiếm nhiều vùng lãnh thổ, Tề chỉ còn rộng 2000 dặm vuông, nước Tề không thể khôi phục lại sức mạnh giống như thời đại của Tề Uy Vương (Thời ấy Tề - Tần mạnh nhất, vua Tề xưng là Đông Đế, Tần xưng là Tây Đế).
Ngụy - Hàn - Yên
Nước Ngụy
Trong ba nước tách ra từ nước Tấn thì nước Ngụy ban đầu là mạnh nhất. vì nằm ở trung tâm, sở hữu các thành trì quan trọng lại có miền Tây Hà rộng lớn mở (là vùng đất Thiểm Bắc). Nhưng sau các thất bại của Nước ngụy trong chiến tranh với Tề (thời kỳ của Bàng quyên và Tôn Tẫn) thì nước Ngụy đã trở nên suy yếu. Đồng thời bị mất vùng đất ở phía Tây sông hoàng Hà nên mất bãi chăn thả gia súc nơi luyện ngựa cho nước Tần.Ngụy cũng phải dời đô từ An ấp về đại lương. Biểu lộ sự suy yếu so với các nước như Tần, Sở. Nước ngụy chỉ còn rộng hơn 1000 dặm vuông . Địa thế của Ngụy cũng không đẹp khi là bãi chiến trường do nằm trung tâm Trung Nguyên, ở giữa trong các quốc gia Thất Hùng.
Nước Hàn
Nước Hàn là nước nhỏ nhất trong các quốc gia thời chiến Quốc. Nước Hàn có diện tích khoảng 900 dặm vuông dù dân cư đông đúc, lại bao quanh Lạc Dương, nhưng nước Hàn luôn luôn là bãi chiến trường, cho các quốc gia khác mượn đường hoặc là nơi cho các quốc gia khác tham chiến. Nước Hàn bất quá chỉ có 10 vạn quân.Nước Yên
Tương tự như nước Hàn, Yên cũng là một quốc gia nhỏ thời kỳ chiến Quốc. Nước này nằm ở phía Bắc trong chiến Quốc thất hùng. Là nơi biên giới hẻo lánh, lại ở lẫn với các bộ lạc người Hồ nên có thể mở rộng lãnh thổ. Nước yên từng chiếm các vùng lãnh thổ của các nước như cô chúc, Liêu Đông. Tuy rộng 2000 dặm vuông,nhưng do dân cư thưa thớt, đông người Hồ, nước nghèo, nên nước Yên chưa bao giờ là một nước lớn thời kỳ chiến Quốc. Nước này thời kỳ đỉnh cao chỉ có tầm khoảng 15 tới 20 vạn quân. Không thể so sánh với các quốc gia như Triệu, Tề, Sở, Tần.Sở - Triệu
Nước Sở
Sở là nước rộng nhất. Đất vuông vạn dặm, dân đông nhất (quân trăm vạn). Tao cũng lạ là sao nước Sở lại không thể trở thành bá chủ chư hầu. Tính ra có nhiều nguyên nhân - kinh tế yếu, thuế ít nên sức nước kém. Quân đông nhưng không thiện chiến (quân Sở không so được với Tần, Triệu về độ thiện chiến). Sở tuy chiếm được nhiều vùng rộng lớn của nước khác, nhưng về cơ bản tiềm lực vẫn chỉ quanh quẩn miền Giang – Hoài. Những vùng đất của Ngô Việt, Trần, Thái... không hoàn toàn phục tùng họ. Đơn cử như Lưu Bang – Bang người đất Bái, vốn là thuộc Sở nhưng dân vùng này không trung thành với nước Sở (Thằng nào đọc Sử ký sẽ rõ)Nước Triệu
Đây là đối trọng quân sự lớn nhất của Tần – nước nước này học theo lối chiến đấu của người Hồ, quân đội mạnh mẽ thiện chiến. Nước Triệu là nước đầu tiên sử dụng cách thức chiến đấu kiểu kỵ binh, đặc biệt Dũng mãnh. (Trước đó trong chiến đấu, quân đội của các chư hầu sử chiến xa). Sơ kỳ của nước Triệu, nước này là nước yếu nhất trong Tam Tấn, lãnh địa nhỏ hẹp. Tuy nhiên càng về sau nước Triệu lại càng mở rộng, chiếm được những vùng đất mênh mông như Hà Sáo, Trung Sơn, Đại bắc... trở thành nước quan trọng nhất trong các nước phía Đông.Vào thời kỳ đỉnh cao nước Triệu có tới năm mươi đến sáu mươi vạn quân là lực lượng quân sự mạnh nhất trong sáu nước Sơn Đông. Tuy nhiên sau trận Trường Bình, quốc lực của Triệu suy yếu trầm trọng và không còn là đối thủ của nước Tần. Triệu có rất nhiều tướng giỏi như Nhạc Nghi, Triệu Xa, Liêm Pha... Có thể coi sự thất bại trong trận Trường Bình là dấu mốc quan trọng dẫn đến việc nước Tần thống nhất Trung Hoa.
(Còn tiếp)
Truyện Môn phiệt Sỹ tộc thời Đông Hán – Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều
Sỹ tộc ở Tây Tấn và phương Nam
Một trong những đặc trưng quan trọng nhất điển hình nhất của giai đoạn Đông hán - Lưỡng Tấn Nam Bắc. Triều chính Nằm trong tay của môn phiệt sĩ tộc. Từ thời Đông hán trở đi vai trò của lực lượng này đã trở nên rất mạnh mẽ. Sau khi nhà tĩnh được thành lập. Nguỵ Văn Đế lập chế độ Cửu phẩm Trung Chính với chín bậc từ thượng thượng cho đến hạ hạ. Những người thuộc giai cấp địa chủ quan lại lớn. Chỉ cần ra làm quan đã có thể làm các chức vụ cao trong triều đình. Họ không cần thông qua thi tuyển. Còn những người trong giai cấp bình dân Hàn môn thì dù cố gắng bao nhiêu cũng không thể lên được các vị trí cao.Bởi vậy có những gia tộc xuất thân cao quý như họ Vương, họ Tạ, họ Tiêu, họ Chu, họ Viên,... Từ thời lưỡng Tấn trở đi đều luôn chiếm những địa vị cao trong triều đình. Dù cho những người này tài năng tầm thường.
Vấn đề sĩ tộc nằm ở chỗ - họ không chỉ là nắm quyền lực lớn mà còn ở khía cạnh - Kiêm tính ruộng đất. Từ thời Đông Hán, vua Quang Vũ đế lên ngôi không chỉ nhờ công mình, mà còn cả cha anh, bạn bè - gọi là tập đoàn Nam Dương. Họ giúp ông ta lên ngôi, thì cũng đồng thời nhận của ông ta rất nhiều quyền lợi (bỏ binh quyền, vui hưởng vinh hoa, phú quý). Nạn kiêm tính ruộng đất càng ngày càng phát triển. Quan lại vơ vét đất cát ruộng vườn, lập điền trang, ổ bảo, xây dựng quân đội riêng. Việc này khiến cho nhà Đông Hán sụp đổ bởi khởi nghĩa nông dân của dân nghèo, bần cùng hóa. Tuy nhiên sang thời Lưỡng Tấn và Lục triều, hiện tượng không giảm đi mà còn mạnh hơn. Nhà nước không có nguồn thu, dân không đóng thuế cho nhà nước, mà nộp tô cho địa chủ sỹ tộc. Quốc gia càng lúc càng yếu mà địa chủ mỗi lúc mỗi giàu. Nhà nước không có cách nào hạn chế được. Dẫn đến kết cục Nam Triều suy vong.
Sỹ tộc ở phương Bắc và Tùy Đường
Ngũ Hồ Thập lục Quốc
Ở Phương Bắc, sau khi người Tấn di chuyển về phía Nam. Các bộ lạc người hồ Hung Nô, Đê, Khương, Tiên Ti, Yết ... đã di chuyển vào Trung Nguyên và thiết lập nên 16 nước. Gọi chung là Thập lục quốc. Bộ lạc man rợ dần dần học cách người hạn quản lý quốc gia, tuy nhiên do họ chỉ là các lãnh chúa thiểu số, chỉ có một hai vị vua đầu còn tạm được, con cái của họ nhanh chóng làm cho quốc gia tiêu vong. Phải cho đến khi nhà nước bắc Ngụy thống nhất phương bắc, mở ra cục diện Nam Bắc Triều thì thì Phương Bắc mới được coi là yên ổn, thịnh vượng. Các vua người tiền ti của Bắc Ngụy ban đầuđều là những người sùng thượng sức mạnh, ham chiến tranh.Bắc Ngụy
Cho đến khi vua Bắc ngụy Hiếu Văn đế lên ngôi, ông tiếp thu phong tục của người Hán, khuôn nó cho đồng bào kiếm ti của mình. Đỉnh cao của việc này là việc đổi họ người hán cho người Tiên Ti, bắt đồng bào mình nói tiếng Hán, bắt người Tiên Ti kết hôn với người Hán cùng đẳng cấp. Ông hỏi Vương Túc, và các quan lại từ Nam Triều đầu hàng, qua đó mô phỏng chế độ mol phiệt sĩ tộc của Nam Triều cho Bắc Triều.https://i.*********/2023/03/23/Bac-Nguy-Hieu-Van-De2c6ef65750b0aaff.jpg
Ông là người Thiết lập nên hệ thống “con vua lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa” cho người phương Bắc. Hệ thống này tồn tại mãi cho tới khi nhà đường được thiết lập. Một bộ phận lớn các quan lại cho tới thời kỳ của đường Huyền tông, vẫn là con cháu của các gia tộc lớn như họ Tiết, họ Bùi, họ Nguyên, họ Thôi, họ Vương...
Nhà Đường
Sau này, nhà đường thiết lập hệ thống quan lại dựa trên thi cử, thì cơ cấu bổ nhiệm dựa trên gia thế, hoặc cha truyền con nối, mới chấm dứt. Do chế độ này là một trong những đặc điểm nổi bật nhất, thậm chí vua chúa còn không thể tham gia vào việc phân định cao thấp của các gia tộc, nên thời đó, gia phả học là một cái học thời thượng. Người ta sẵn sàng ngụy tạo gia phả tổ tiên, để chứng tỏ rằng mình là người có gốc gác cao quý, có cơ hội thăng tiến, làm quan, thậm chí là quan to. Tiêu biểu như nhà Lưu Tống nhận mình là con cháu nhà Hán, họ Tiêu (Tiêu Tề và Tiêu Lương) nhận mình là con cháu Tiêu Hà, nhà Trần cũng nhận mình là con cháu Trần Thực thời Hán.Trở lại thời Tam Quốc
Trở lại câu chuyện thời Tam Quốc, Viên Thiệu – Viên Thuật là con cháu họ Viên (Tứ thế tam công – bốn đời làm tam công). Môn khách họ Viên trải khắp thiên hạ. Vương Doãn là con cháu họ Vương ở Thanh Hà, cũng nhiều đời làm thượng quan. Tào Tháo là cháu nội Tào Đằng – hoạn quan khuynh loát triều chính 3 đời.Bị tuy không phải dòng dõi gần của nhà Hán, cũng là con cháu hoàng tộc. Có thuyết nói Bị là cháu Trung Sơn Tĩnh vương. Có thuyết nói là con cháu Lâm Ấp hầu. Nhưng tựu chung đều là dòng dõi nhà Hán. Nếu không dựa vào cái dòng dõi này, chắc chắn ông ta không thể làm nên nghiệp lớn. Họ Tôn của ba cha con Kiên – Sách – Quyền tuy không phải là thế gia vọng tộc đất Phú Xuân. Nhưng vẫn nhận mình là con cháu Tôn Vũ.
Sửa lần cuối: