Phần 1: Triết học của Mahabharata
1. Giới thiệu sơ lược :Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata), từ Hán-Việt là Ma-ha-bà-la-đa, là một trong hai tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, tác phẩm còn lại là Ramayana.
Văn-hóa cổ Ấn-độ có hai tập Anh-hùng ca; Mahàbhàrata và Ràmàyana. Tập Mahàbhàrata, khi đọc nhấn mạnh vào âm thứ ba (bhà), là nguồn-gốc của Chí-Tôn Ca. Câu-chuyện được truyền-tụng trong nhân-gian bắt đầu khoảng 1400 trước Công-Nguyên.
Nhưng Mahàbhàrata chỉ được san-định thành sách giữa khoảng từ 200 năm trước Công-Nguyên và 200 năm sau sau Công-Nguyên. Toàn-tâp khoảng 5800 trang, dài bằng cả hai tập Iliad và Odysey của Homer cộng lại, và dài gần gấp ba lần cuốn Thánh-kinh Thiên-chúa-Do-thái-giáo.
Vì quan-niệm về thời-gian của người Ấn khá đặc biệt, nên thiên anh hùng ca này không trình bày theo thứ tự lịch-sử, mà theo tầm quan-trọng của vấn-đề. Bởi vậy nó có vẻ lung-tung, khiến mỗi học-giả viết toát-yếu Mahàbhàrata phải rất cẩn-thận để giúp độc-giả dễ-dàng theo dõi.
2. Sơ lược về nội dung của tác phẩm :
Nói về cuộc chiến giữa hai nhóm anh em họ trong cuộc chiến tranh Câu Lư (22 tháng 11, 3067 TCN—10 tháng 12, 3067 TCN? (kết thúc 18 ngày)) và số phận của các hoàng tử Kaurava và Pāṇḍava cùng những hậu nhân của họ.
Tác phẩm này cũng chứa những tài liệu về triết học và sự tôn sùng, chẳng hạn như cuộc thảo luận về bốn "mục đích của cuộc sống", hay còn gọi là puruṣārtha (12.161). Trong số các tác phẩm và những câu chuyện chính trong Mahābhārata là Bhagavad Gita, câu chuyện về nàng Damayanti, câu chuyện về Savitri và Satyavan, một phiên bản rút gọn của Rāmāyaṇa.
Theo truyền thống, tác giả của Mahābhārata thường được cho là Vyāsa. Đã có nhiều nỗ lực để làm sáng tỏ sự lịch sử phát triển và các lớp cấu thành của nó. Phần lớn nội dung của Mahābhārata có lẽ được biên soạn giữa thế kỷ thứ 3 TCN và thế kỷ thứ 3 CN, với những phân đoạn cổ nhất vẫn còn được bảo tồn không sớm hơn năm 400 TCN. Các sự kiện diễn ra trong sử thi có lẽ rơi vào giữa thế kỷ 9 và 8 TCN. Cuốn sử thi này có lẽ đã đạt đến hình thức cuối cùng của nó vào đầu thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 4).
Mahābhārata là bài thiên trường ca nhất được biết đến và đã được mô tả là "bài thơ dài nhất từng được viết". Phiên bản dài nhất của nó bao gồm hơn 100.000 loka hoặc hơn 200.000 câu thơ riêng lẻ (mỗi shloka là 2 câu) và các đoạn văn xuôi dài. Với tổng số khoảng 1.8 triệu chữ, Mahābhārata có độ dài gấp hơn 8 lần Iliad và Odyssey cộng lại, hoặc khoảng bốn lần chiều dài của Rāmāyaṇa.
Học giả W. J. Johnson đã so sánh tầm quan trọng của Mahābhārata trong bối cảnh văn minh thế giới với Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, các tác phẩm của Homeros, kịch Hy Lạp hay Kinh Qur'an.
Trong truyền thống Ấn Độ, đôi khi Mahābhārata được gọi là kinh Vệ-đà thứ năm.
Sử thi vĩ đại Mahabharata đại diện cho nỗ lực của Vệ Đà Bà-la-môn giáo trong việc thích nghi với hoàn cảnh mới, phản ánh qua quá trình "Sanskrit hóa" (sự hòa nhập các tín ngưỡng, thực hành và thể chế Vệ Đà) của các cộng đồng không thuộc Vệ Đà. Do đó, nhiều xu hướng tư tưởng tôn giáo và triết học đa dạng đã được tổng hợp trong tác phẩm này.
![]()
Có thể đọc thêm về bản tóm lược này :
![]()
Tóm lược sử thi Mahabharata
Tác giả : Nguyễn Quỳnh Lời nói đầu: Văn-hóa cổ Ấn-độ có hai tập Anh-hùng ca; Mahàbhàrata và Ràmàyana. Tập Mahàbhàrata, khi đọc nhấn mạnh vào âm thứ ba (bhà), là nguồn-gốc của Chí-Tôn Ca. Câu-ch…nghiencuulichsu.com
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
3. “Mokshadharma”
Các văn bản Proto-Samkhya
Trong quan điểm triết học của mình, sử thi này chứa đựng một phiên bản sơ khai của thuyết Samkhya (niềm tin vào vật chất thực và tính đa dạng của các linh hồn cá nhân), có trước thuyết Samkhya kinh điển của Ishvarakrishna, một triết gia thế kỷ 3. Chương “Mokshadharma” trong Quyển 12 của Mahabharata chứa đầy các văn bản Proto-Samkhya như vậy.
Sử thi đề cập đến bốn trường phái triết học chính:
Các văn bản Proto-Samkhya
Trong quan điểm triết học của mình, sử thi này chứa đựng một phiên bản sơ khai của thuyết Samkhya (niềm tin vào vật chất thực và tính đa dạng của các linh hồn cá nhân), có trước thuyết Samkhya kinh điển của Ishvarakrishna, một triết gia thế kỷ 3. Chương “Mokshadharma” trong Quyển 12 của Mahabharata chứa đầy các văn bản Proto-Samkhya như vậy.
Sử thi đề cập đến bốn trường phái triết học chính:
- Samkhya-Yoga, được Kapila (một hiền triết sống trước thế kỷ 6 TCN) giảng dạy;
- Pancharatra, được Vishnu giảng dạy...
Phần 2: Sự hình thành hệ thống sớm
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
Phần 2: Sự hình thành hệ thống sớm
Lịch sử phong cách kinh văn
Một đặc điểm độc đáo trong sự phát triển tư tưởng Ấn Độ là việc hệ thống hóa mỗi trường phái tư tưởng dưới dạng sutra (các diễn đạt cực kỳ ngắn gọn), nhằm tóm lược các giáo lý của một khoa học hoặc triết học thành một số câu châm ngôn, công thức hoặc quy tắc dễ nhớ.
Từ sutra, ban đầu có nghĩa là “sợi chỉ,” dần dần được dùng để chỉ các diễn đạt ngắn gọn như vậy. Một tác phẩm lớn chứa tập hợp các sutra cũng được gọi là sutra.
Hiểu các sutra đòi hỏi sự hỗ trợ của...
Phần 3 : Các kinh văn và triết học Ấn Độ cổ đại
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
Phần 3 : Các kinh văn và triết học Ấn Độ cổ đại
1. Các kinh văn Purva-mimamsa-sutras và chú giải của Shabara
Purva-mimamsa (“Phản ánh Đầu tiên”), hay Karma-mimamsa (“Nghiên cứu [Hành động] Nghi lễ”), là một hệ thống nghiên cứu về bản chất của các mệnh lệnh trong kinh Vệ Đà. Mặc dù mục đích chính của hệ thống này là điều tra các mệnh lệnh Vệ Đà, nhưng công việc này cũng dẫn đến sự phát triển các nguyên tắc giải thích kinh văn và các lý thuyết về ý nghĩa cũng như thuyết chú giải (giải thích phê bình).
Jaimini, người soạn các kinh văn...
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
3. Kinh Samkhya-karika
Quan hệ với Chính Thống Giáo
Tác phẩm Samkhya-karika (“Các câu kệ về Samkhya”) của Ishvarakrishna, xuất hiện vào khoảng thế kỷ 2 CN, là tài liệu Samkhya cổ nhất còn tồn tại. Ishvarakrishna tự miêu tả mình là người truyền đạt các giáo lý cốt lõi của Kapila, được truyền từ Asuri và sau đó từ Asuri đến Panchashika. Ông cũng nhắc đến Shashtitantra (“Học thuyết 60 quan niệm”), những nguyên lý chính của học thuyết này được ông khẳng định đã giải thích trong các câu kệ.
Samkhya trong Charaka—cơ bản giống với hệ thống được gán...
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
5. Kinh Vaisheshika-sutra
Kinh Vaisheshika-sutra được viết bởi triết gia Kanada, sống vào khoảng thế kỷ 2–4 CN. Hệ thống này được đặt tên theo khái niệm "tính đặc thù tối thượng" (vishesha), nhấn mạnh tính đa nguyên trong siêu hình học.
Cấu trúc và nội dung
Kinh Vaisheshika-sutra gồm 10 chương, mỗi chương có hai phần. Chương 1 trình bày mục đích của tác phẩm: giải thích về dharma, được định nghĩa là những gì mang lại sự thịnh vượng và lợi ích tối thượng cho con người. Tiếp theo là danh mục các phạm trù tồn tại được công nhận...
Phần 4 : Khởi đầu triết học Phật giáo Đại thừa
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
Phần 4 : Khởi đầu triết học Phật giáo Đại thừa
1. Khởi đầu triết học Phật giáo Đại thừa.
Đóng góp của phái Mahasangikas
Khi phái Mahasangikas ("Trường phái Đại Chúng Bộ") tách khỏi phái Trưởng Lão (Theravadins) vào khoảng năm 400 TCN, các mầm mống của Phật giáo Đại thừa đã bắt đầu hình thành. Phái Mahasangikas chấp nhận các nhà sư và tín đồ chưa đạt tới trạng thái A-la-hán (arhat), tức là những người chưa đạt được sự hoàn hảo. Họ thần thánh hóa Đức Phật, giảng dạy học thuyết về sự trống rỗng của các yếu tố tồn tại, phân biệt giữa thực tại thế tục và siêu...
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
3. Mảnh vỡ triết học từ phái Ajivikas và Charvakas
Phái Ajivikas
Phái Ajivikas, xuất hiện đồng thời với Phật giáo, là một phái tu khổ hạnh có quan điểm phi chính thống. Phái này gắn liền với Makkhali Gosala, người phủ nhận cả tội lỗi (adharma) lẫn tự do của con người trong việc định hình số phận. Ông là một nhà quyết định luận, tin rằng mọi trạng thái thay đổi đều do số phận, môi trường, và bản chất tự nhiên của chính sự vật.
Phái Charvakas
Phái Charvakas, hay còn gọi là Lokayata, là một trong những trường phái triết học duy vật cổ đại. Phái này bác bỏ tất cả các thực...
Phái Ajivikas
Phái Ajivikas, xuất hiện đồng thời với Phật giáo, là một phái tu khổ hạnh có quan điểm phi chính thống. Phái này gắn liền với Makkhali Gosala, người phủ nhận cả tội lỗi (adharma) lẫn tự do của con người trong việc định hình số phận. Ông là một nhà quyết định luận, tin rằng mọi trạng thái thay đổi đều do số phận, môi trường, và bản chất tự nhiên của chính sự vật.
Phái Charvakas
Phái Charvakas, hay còn gọi là Lokayata, là một trong những trường phái triết học duy vật cổ đại. Phái này bác bỏ tất cả các thực...
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
6. Nyaya-Vaisheshika
1. Trường phái cổ đại
Mặc dù ngay từ thời các bình luận gia như Prashastapada (thế kỷ thứ 5 CN) và Uddyotakara (thế kỷ thứ 7 CN), các tác giả của hai trường phái Nyaya và Vaisheshika đã sử dụng các học thuyết của nhau và sự kết hợp của hai trường phái này đã dần hình thành, nhưng chúng vẫn tiếp tục có các tác giả và các dòng bình luận khác nhau. Tuy nhiên, vào khoảng thế kỷ thứ 10 CN, đã xuất hiện một số văn bản nhằm kết hợp hai triết lý này một cách thành công hơn. Một số văn bản nổi bật trong số này bao gồm: Nyayasara của Bhasarvajna (viết khoảng năm...
1. Trường phái cổ đại
Mặc dù ngay từ thời các bình luận gia như Prashastapada (thế kỷ thứ 5 CN) và Uddyotakara (thế kỷ thứ 7 CN), các tác giả của hai trường phái Nyaya và Vaisheshika đã sử dụng các học thuyết của nhau và sự kết hợp của hai trường phái này đã dần hình thành, nhưng chúng vẫn tiếp tục có các tác giả và các dòng bình luận khác nhau. Tuy nhiên, vào khoảng thế kỷ thứ 10 CN, đã xuất hiện một số văn bản nhằm kết hợp hai triết lý này một cách thành công hơn. Một số văn bản nổi bật trong số này bao gồm: Nyayasara của Bhasarvajna (viết khoảng năm...
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
7. Samkhya và Yoga
Các văn bản và chú giải cho đến Vachaspati và "Samkhya-sutras"
Có ba chú giải về Samkhya-karika: của Raja, thường được nhắc đến nhưng không còn tồn tại; của Gaudapada (thế kỷ 7), với chú giải phụ Chandrika của Narayanatirtha; và Tattva-kaumudi của Vachaspati (thế kỷ 9). Samkhya-sutras là một tác phẩm muộn hơn (c. thế kỷ 14) mà Aniruddha (thế kỷ 15) viết một vritti và Vijnanabhikshu (thế kỷ 16) viết Samkhya-pravachana-bhashya (“Chú giải về Học thuyết Samkhya”). Trong các tác phẩm độc lập, có thể nhắc đến...
Các văn bản và chú giải cho đến Vachaspati và "Samkhya-sutras"
Có ba chú giải về Samkhya-karika: của Raja, thường được nhắc đến nhưng không còn tồn tại; của Gaudapada (thế kỷ 7), với chú giải phụ Chandrika của Narayanatirtha; và Tattva-kaumudi của Vachaspati (thế kỷ 9). Samkhya-sutras là một tác phẩm muộn hơn (c. thế kỷ 14) mà Aniruddha (thế kỷ 15) viết một vritti và Vijnanabhikshu (thế kỷ 16) viết Samkhya-pravachana-bhashya (“Chú giải về Học thuyết Samkhya”). Trong các tác phẩm độc lập, có thể nhắc đến...
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
8. Vedanta
Các mảnh vỡ từ Mandukya-karika cho đến Shankara
Không có chú giải nào về Vedanta-sutras còn tồn tại từ thời kỳ trước Shankara, mặc dù cả Shankara và Ramanuja đều tham chiếu đến các vritti của Bodhayana và Upavarsha (hai người này có thể thực sự là cùng một người). Tuy nhiên, có những người giải thích độc lập về các kinh điển trước Shankara, ba trong số họ là những người quan trọng: Bhartrihari, Mandana (cả hai đã được đề cập trước đó) và Gaudapada. Shankara đã gọi Gaudapada là thầy của thầy mình là Govinda, ca ngợi ông vì đã phục hồi giáo lý advaita (phi nhị...
Các mảnh vỡ từ Mandukya-karika cho đến Shankara
Không có chú giải nào về Vedanta-sutras còn tồn tại từ thời kỳ trước Shankara, mặc dù cả Shankara và Ramanuja đều tham chiếu đến các vritti của Bodhayana và Upavarsha (hai người này có thể thực sự là cùng một người). Tuy nhiên, có những người giải thích độc lập về các kinh điển trước Shankara, ba trong số họ là những người quan trọng: Bhartrihari, Mandana (cả hai đã được đề cập trước đó) và Gaudapada. Shankara đã gọi Gaudapada là thầy của thầy mình là Govinda, ca ngợi ông vì đã phục hồi giáo lý advaita (phi nhị...
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
9. Khái niệm về bhedabheda
Triết lý về sự siêu việt và sự hiện hữu (bhedabheda) khẳng định cả sự đồng nhất và sự khác biệt giữa thế giới và cá thể hữu hạn, một mặt, và brahman, mặt khác. Thế giới và các cá thể hữu hạn là thực và đồng thời vừa khác biệt vừa không khác biệt với brahman.
Trong số những người giải thích Vedanta-sutras trước Shankara, Bhartriprapancha đã bảo vệ thuyết bhedabheda, và Bhaskara (khoảng thế kỷ 9) đã theo sát ông. Chú giải của Bhartriprapancha không còn tồn tại; nguồn duy nhất được biết đến là tham chiếu của Shankara về ông trong chú giải của mình về...
Triết lý về sự siêu việt và sự hiện hữu (bhedabheda) khẳng định cả sự đồng nhất và sự khác biệt giữa thế giới và cá thể hữu hạn, một mặt, và brahman, mặt khác. Thế giới và các cá thể hữu hạn là thực và đồng thời vừa khác biệt vừa không khác biệt với brahman.
Trong số những người giải thích Vedanta-sutras trước Shankara, Bhartriprapancha đã bảo vệ thuyết bhedabheda, và Bhaskara (khoảng thế kỷ 9) đã theo sát ông. Chú giải của Bhartriprapancha không còn tồn tại; nguồn duy nhất được biết đến là tham chiếu của Shankara về ông trong chú giải của mình về...
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
10. Các trường phái Vaishnava
Các nhà triết học chính của Vaishnavism thời trung cổ đã được đề cập ở trên. Tuy nhiên, Vaishnavism có một lịch sử dài, có thể truy về việc thờ cúng Vishnu trong Rigveda, khái niệm Bhakti trong các sử thi, và tín ngưỡng Vasudeva từ trước công nguyên. Trong số hai Kinh điển Vaishnava chính, hay agamas, Pancharatra (“Liên quan đến Thời kỳ Năm Đêm”) và Vaikhanasa (“Liên quan đến Nhà Tu hay Khổ Hạnh”) là quan trọng nhất. Mặc dù các triết gia Vaishnava cho rằng các tác phẩm Pancharatra có nguồn gốc từ Vệ Đà, các nhà tuyệt đối như Shankara đã từ chối...
Các nhà triết học chính của Vaishnavism thời trung cổ đã được đề cập ở trên. Tuy nhiên, Vaishnavism có một lịch sử dài, có thể truy về việc thờ cúng Vishnu trong Rigveda, khái niệm Bhakti trong các sử thi, và tín ngưỡng Vasudeva từ trước công nguyên. Trong số hai Kinh điển Vaishnava chính, hay agamas, Pancharatra (“Liên quan đến Thời kỳ Năm Đêm”) và Vaikhanasa (“Liên quan đến Nhà Tu hay Khổ Hạnh”) là quan trọng nhất. Mặc dù các triết gia Vaishnava cho rằng các tác phẩm Pancharatra có nguồn gốc từ Vệ Đà, các nhà tuyệt đối như Shankara đã từ chối...
Phần 5: Triết học Ấn Độ và Pakistan thế kỷ 19 và 20
Đạo lý Tóm lược triết học Ấn Độ
Phần 5: Triết học Ấn Độ và Pakistan thế kỷ 19 và 20
Trong thế kỷ 19, Ấn Độ không có những thành tựu triết học đáng chú ý, nhưng đây là giai đoạn của các phong trào cải cách xã hội và tôn giáo lớn. Các trường đại học mới thành lập đã giới thiệu các tư tưởng phương Tây đến các trí thức Ấn Độ, đặc biệt là các triết lý kinh nghiệm, vị lợi và agnostic ở Anh, và John Stuart Mill, Jeremy Bentham, và Herbert Spencer trở thành những tư tưởng gia có ảnh hưởng nhất trong các trường đại học Ấn Độ vào cuối thế kỷ. Những ý tưởng theo hướng phương Tây này đã tạo ra một quan điểm thế...
Sửa lần cuối: