• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Có Hình [Tổng Hợp]: Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam

Topic này sẽ tổng hợp các bài viết nhỏ lẻ, ngắn, tùy hứng do t đọc đc ở đâu, đọc đến đâu thì up lên đây đến đó.

6 Sự kiện đặt nền móng cho Chiến tranh Việt Nam (Nam -Bắc)

Cuộc xung đột ở Việt Nam bắt nguồn từ phong trào giành độc lập chống lại sự cai trị của thực dân Pháp và phát triển thành một cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh.

Chiến tranh Việt Nam (1955-1975) diễn ra giữa miền Bắc Việt Nam cộng sản, được Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn, và miền Nam Việt Nam, được Hoa Kỳ hỗ trợ. Cuộc xung đột đẫm máu này có nguồn gốc từ sự cai trị của thực dân Pháp và một phong trào độc lập do lãnh đạo cộng sản Hồ Chí Minh dẫn đầu.

Việt Nam trở thành chiến trường trong Chiến tranh Lạnh khi Hoa Kỳ và Liên Xô tranh giành quyền thống trị thế giới. Đến khi chiến tranh kết thúc, miền Bắc và miền Nam Việt Nam đã được thống nhất, nhưng với cái giá rất đắt. Dưới đây là sáu sự kiện dẫn đến Chiến tranh Việt Nam.


1. Sự sụp đổ của Đông Dương thuộc Pháp và sự trỗi dậy của Hồ Chí Minh

Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp vào năm 1877 với sự thành lập Đông Dương thuộc Pháp, bao gồm Tonkin, An Nam, Cochin China và Campuchia. (Lào được thêm vào năm 1893.) Pháp mất quyền kiểm soát thuộc địa của mình trong thời gian ngắn trong Thế chiến II khi quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam.

Khi Nhật Bản và Pháp tranh giành Việt Nam, một phong trào độc lập đã hình thành dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng được truyền cảm hứng từ Cách mạng Bolshevik của Lenin. Ông đã thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Việt Minh, vào tháng 5 năm 1941.

Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập cho Việt Nam khỏi Pháp vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, chỉ vài giờ sau khi Nhật Bản đầu hàng trong Thế chiến II. Khi Pháp từ chối kế hoạch của ông, Việt Minh đã sử dụng chiến tranh du kích để chiến đấu vì một Việt Nam độc lập.

Bạn có biết không? Hồ Chí Minh đã sử dụng Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ làm mẫu cho Tuyên ngôn Độc lập của mình, viết: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng: Đấng Tạo Hóa đã ban cho chúng ta những quyền bất khả xâm phạm, cuộc sống, tự do và hạnh phúc!”


2. Trận Điện Biên Phủ

Cuộc xung đột giữa Pháp và Việt Minh lên đến đỉnh điểm tại Trận Điện Biên Phủ quyết định, khi, sau bốn tháng bao vây, Pháp thua trước Việt Minh dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, đánh dấu sự kết thúc của sự cai trị của Pháp ở Việt Nam. Câu hỏi ai sẽ cai trị Việt Nam và như thế nào đã thu hút sự quan tâm của các siêu cường thế giới, những người đang theo dõi tình hình ở Việt Nam với sự lo lắng ngày càng tăng.


3. Hiệp định Geneva năm 1954 chia cắt Việt Nam

1954 Geneva Accords

CÁC NHÀ NGOẠI GIAO TỪ HOA KỲ, LIÊN XÔ, CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG QUỐC, VƯƠNG QUỐC ANH, BẮC VÀ NAM HÀN, VÀ PHÁP CŨNG NHƯ CÁC ĐẠI DIỆN TỪ VIẾT MINH (BẮC VIỆT NAM), NHÀ NƯỚC VIỆT NAM (Miền Nam Việt Nam), CAMPUCHIA VÀ LÀO TRONG PHIÊN HỌP TẠI HỘI NGHỊ GENEVA THÁNG 7 NĂM 1954. HIỆP ĐỊNH GENEVA SẼ GIẢI QUYẾT LIÊN MINH ĐÔNG DƯƠNG PHÁP.

Hiệp định Geneva được ký kết vào tháng 7 năm 1954 và chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc Việt Nam sẽ do chính phủ cộng sản của Hồ Chí Minh cai trị và miền Nam Việt Nam sẽ do hoàng đế Bảo Đại lãnh đạo. Một cuộc bầu cử được lên lịch trong hai năm để thống nhất Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ, lo sợ rằng một cuộc bầu cử quốc gia sẽ dẫn đến sự cai trị của cộng sản, đã đảm bảo rằng nó không bao giờ diễn ra.

“Sự chia cắt ‘tạm thời’ của đất nước tại vĩ tuyến thứ mười bảy thành hai quốc gia đối lập về ý thức hệ có nghĩa là cuộc xung đột dân sự ở Việt Nam sẽ va chạm toàn diện với sự cạnh tranh Đông-Tây,” giáo sư Lien-Hang T. Nguyen, Giáo sư Lịch sử Hoa Kỳ và Đông Á tại Đại học Columbia cho biết.


4. Chiến tranh Lạnh

Việt Nam bị chia cắt trong Chiến tranh Lạnh khi căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đang ở mức cao nhất mọi thời đại. Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, và vào tháng 1 năm 1950, Trung Quốc cùng với Liên Xô chính thức công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cộng sản.

Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ thực hành chính sách ngăn chặn. Học thuyết Truman của Tổng thống Harry S. Truman cam kết hỗ trợ chính trị, quân sự và kinh tế cho các quốc gia dân chủ đối mặt với các mối đe dọa từ lực lượng cộng sản. Người kế nhiệm ông, Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đưa ra Thuyết Domino rằng một chiến thắng của cộng sản ở Việt Nam sẽ tạo ra hiệu ứng domino ở Đông Nam Á... và do đó phải ngăn chặn bằng mọi giá.

“Chiến tranh Việt Nam vừa là một cuộc chiến để giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa đế quốc châu Âu trong không gian hậu thuộc địa mới, một cuộc chiến giữa chủ nghĩa Marx-Lenin và Chủ nghĩa Tư bản-Dân chủ, và một cuộc chiến giữa các phe phái Việt Nam,” Nguyễn nói.


5. Sự lật đổ của Ngô Đình Diệm
Ngo Dinh Diem

Ngô Đình Diệm


Hoàng đế Bảo Đại được kế nhiệm bởi nhà dân tộc Công giáo Ngô Đình Diệm. Lập trường chống cộng mạnh mẽ của ông được người Mỹ yêu thích, những người đã giúp ông lên nắm quyền. Nhưng sự ưu đãi của Diệm đối với thiểu số Công giáo đã dẫn đến các cuộc biểu tình trên khắp miền Nam Việt Nam. Vào tháng 5 năm 1963, tám người biểu tình Phật giáo đã bị quan chức chính phủ giết hại ở Huế.

Để đáp lại, nhà sư Thích Quảng Đức đã tự thiêu giữa một giao lộ đông đúc ở Sài Gòn. Các nhà sư khác bắt đầu tự thiêu trong cái gọi là “khủng hoảng Phật giáo.” Hoa Kỳ mất niềm tin vào khả năng lãnh đạo của Diệm.

Tháng 11 đó, Hoa Kỳ ủng hộ một cuộc đảo chính quân sự trong đó Diệm và anh trai, Ngô Đình Nhu, bị sát hại. (Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy sẽ bị ám sát chưa đầy ba tuần sau đó.) Cuộc đảo chính được theo sau bởi một loạt các chính phủ kế nhiệm hỗn loạn ở miền Nam Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1965.


6. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ

Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, còn được gọi là sự kiện U.S.S. Maddox, đánh dấu sự tham gia chính thức của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam.

“Vào mùa hè năm 1964, chính quyền Johnson đang lập kế hoạch bí mật cho việc mở rộng sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Các quan chức xác định rằng bất kỳ hành động rộng lớn nào như vậy đều nên có sự ủng hộ của quốc hội, và sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã cung cấp cơ hội để đạt được sự ủy quyền này,” Fredrik Logevall, Giáo sư Fredrik D. Belfer về Các vấn đề Quốc tế tại Trường Chính phủ John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard cho biết.

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1964, tàu U.S.S. Maddox đã gặp ba tàu phóng lôi do Liên Xô chế tạo của miền Bắc Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ. Maddox đã bắn những gì nó mô tả là phát cảnh cáo và bị đáp trả bằng ngư lôi và súng máy. Vào ngày 4 tháng 8, tàu khu trục U.S.S. Turner Joy và U.S.S. Maddox báo cáo rằng họ đã bị phục kích, mặc dù tài khoản của Turner Joy kể từ đó đã bị các nhà sử học đặt câu hỏi.
 
Sửa lần cuối:
Viet Minh kiểm soát miền Bắc năm 1954

Viet Minh chính thức tiếp quản Hà Nội và kiểm soát miền Bắc Việt Nam.


Việt Minh, tên đầy đủ là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh (Liên minh Độc lập Việt Nam), là một tổ chức mặt trận cộng sản được Hồ Chí Minh thành lập vào năm 1941 nhằm tổ chức kháng chiến chống lại ách đô hộ của Pháp và lực lượng Nhật Bản chiếm đóng.

Sau khi kết thúc sự chiếm đóng của Nhật vào năm 1945, Pháp đã cố gắng tái áp đặt ách đô hộ thuộc địa. Viet Minh đã phát động một cuộc chiến du kích dài và đẫm máu chống lại lực lượng thuộc địa của Pháp trong cuộc chiến được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Cuối cùng, Viet Minh, dưới sự lãnh đạo của Tướng Võ Nguyên Giáp, đã đánh bại quyết định lực lượng Pháp tại trận Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954. Vào ngày 1 tháng 8, hiệp định ngừng bắn chấm dứt chiến tranh có hiệu lực. Viet Minh chiến thắng đã diễu hành vào Hà Nội trong khi Pháp chuẩn bị rút quân.

Theo các điều khoản của hiệp định ký tại Hội nghị Genève vào tháng 7, Việt Nam được chia tạm thời thành hai phần gần như bằng nhau.

Hai phần này sẽ được tách biệt bởi một Khu vực Phi quân sự (DMZ) chạy dọc theo vĩ tuyến 17.

Phần phía Bắc sẽ được cai trị bởi Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, được Hồ Chí Minh tuyên bố, và phần phía Nam sẽ được cai trị bởi Nhà nước Việt Nam không cộng sản cho đến năm 1956, thời điểm hai khu vực sẽ được thống nhất sau các cuộc bầu cử được giám sát quốc tế.

Ngô Đình Diệm, người đã trở thành thủ tướng của Nhà nước Việt Nam vào tháng 6, là một người Công giáo và rất chống cộng sản. Diệm không thích Hiệp định Genève và bắt đầu củng cố quyền lực của mình ở miền Nam.

Đến giữa năm 1955, Diệm đã kiểm soát hiệu quả phần lớn miền Nam Việt Nam, và vào tháng 7 cùng năm, ông tuyên bố từ chối tổ chức các cuộc bầu cử theo quy định của Genève. Thông báo này dẫn đến sự gia tăng cuộc nổi dậy ở miền Nam và cuối cùng dẫn đến

Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, khi các đơn vị quân đội chính quy của Bắc Việt được gửi vào miền Nam và lực lượng Mỹ đến nơi.

Việt Nam không được thống nhất cho đến tháng 4 năm 1975, khi quân đội Bắc Việt chiếm được Sài Gòn.
 
Sửa lần cuối:

Sự cố Vịnh Bắc Bộ đã lôi kéo Mỹ vào chiến tranh Việt Nam như thế nào (1964)

Một cuộc giao tranh thực sự và một cuộc giao tranh giả đã dẫn đến việc Hoa Kỳ tham gia sâu hơn vào cuộc chiến Việt Nam.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Pháp đã tái chiếm các thuộc địa cũ ở Đông Nam Á của mình, nhưng lại bị lực lượng của lãnh đạo Cộng sản Hồ Chí Minh đẩy ra lần nữa. Vào năm 1954, khi xung đột dần kết thúc, các cường quốc thế giới đã đạt được thỏa thuận tạm thời chia Việt Nam thành hai miền, với tất cả những người ủng hộ Hồ Chí Minh vào miền Bắc và tất cả những người ủng hộ Pháp vào miền Nam. Các cuộc bầu cử dự kiến sẽ thống nhất đất nước trong vài năm tới, nhưng Hoa Kỳ đã phản đối vì lo ngại rằng Hồ Chí Minh sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống. Thay vào đó, Mỹ đã hỗ trợ chính phủ tham nhũng và độc tài của Ngô Đình Diệm.

Miền Nam Việt Nam "về cơ bản là sự sáng tạo của Hoa Kỳ," Bộ Quốc phòng sẽ thừa nhận sau này trong các Tài liệu Pentagon. Trong vài năm, một cuộc nổi dậy đã bùng phát chống lại Diệm, được sự hỗ trợ của lực lượng Hồ ở miền Bắc, những người đứng đầu các cuộc ám sát các lãnh đạo làng không theo cộng sản.

Vai trò bí mật của Mỹ trong việc leo thang chiến tranh

Dưới các tổng thống Harry S. Truman, Dwight D. Eisenhower, John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson, Hoa Kỳ đã cung cấp viện trợ kinh tế và vũ khí cho Pháp - và sau đó là miền Nam Việt Nam - để chống lại các lực lượng nổi dậy cộng sản. Mỹ cũng gửi ngày càng nhiều cố vấn quân sự, một số trong số họ tham gia vào các cuộc tấn công mặc dù ostensibly chỉ ở đó để tự vệ.

Trong một hoạt động bí mật như vậy, Hoa Kỳ đã huấn luyện và chỉ huy các thủy thủ miền Nam Việt Nam để tấn công các trạm radar, cầu và các mục tiêu khác dọc theo bờ biển miền Bắc Việt Nam. Trong khi đó, các tàu chiến của Mỹ như Maddox thực hiện các nhiệm vụ gián điệp điện tử để truyền đạt thông tin tình báo cho miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, các lực lượng nổi dậy tiếp tục chiếm ưu thế, cả trước và sau khi các quan chức Mỹ chấp thuận một cuộc đảo chính trong đó Diệm bị giết.

Maddox bị tàu ngầm miền Bắc Việt Nam truy đuổi

Lúc này, sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam vẫn chủ yếu ở hậu trường. Nhưng vào sáng sớm ngày 31 tháng 7 năm 1964, các tàu tuần tra được Mỹ hỗ trợ đã bắn phá hai đảo miền Bắc Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ, sau đó tàu Maddox đã đến khu vực. Khi nó đang tuần tra vào ngày 2 tháng 8, nó đã đối mặt với ba tàu ngầm do Liên Xô chế tạo của miền Bắc Việt Nam, những tàu này đã ra ngoài để đuổi nó đi. Maddox đã bắn trước, phát ra những gì các cơ quan chức năng Mỹ mô tả là các phát súng cảnh báo. Không bị ngăn cản, ba chiếc tàu tiếp tục tiến đến và mở súng máy và phóng torpedo của riêng mình. Với sự giúp đỡ của các máy bay F-8 Crusader được phái từ một tàu sân bay gần đó, Maddox đã làm hư hại nghiêm trọng ít nhất một trong các tàu miền Bắc Việt Nam trong khi hoàn toàn không bị tổn hại, ngoại trừ một viên đạn duy nhất đã găm vào cấu trúc của nó.

Ngày hôm sau, khu trục hạm Turner Joy của Mỹ được cử đến để tăng cường cho Maddox, và các cuộc tấn công được Mỹ hỗ trợ đã xảy ra đối với hai vị trí phòng thủ miền Bắc Việt Nam bổ sung. Sau đó, vào ngày 4 tháng 8, Maddox và Turner Joy báo cáo rằng họ đã bị phục kích, với các tàu địch bắn 22 quả torpedo vào họ. Đáp lại, Tổng thống Johnson đã ra lệnh không kích các căn cứ tàu của miền Bắc Việt Nam và một kho chứa dầu.

Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ được thông qua tại Hạ viện và Thượng viện

“Cuộc tấn công bằng khủng bố đối với những người dân yên bình của miền Nam Việt Nam hiện đã được gia tăng bằng cuộc tấn công công khai trên biển đối với Hoa Kỳ,” ông đã nói trong một bài phát biểu truyền hình vào tối hôm đó. Ông cũng yêu cầu một nghị quyết quốc hội, được gọi là Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, mà vào ngày 7 tháng 8 đã được thông qua một cách nhất trí tại Hạ viện và với chỉ hai phiếu chống tại Thượng viện, về cơ bản trao cho ông quyền phát động chiến tranh ở Đông Nam Á theo ý ông.

Trong những ngày bận rộn này, chính quyền Johnson khẳng định rằng các khu trục hạm đã thực hiện các cuộc tuần tra thông thường ở vùng biển quốc tế. Tuy nhiên, thực tế, các khu trục hạm đang thực hiện một nhiệm vụ gián điệp ở vùng biển mà miền Bắc Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Chính quyền Johnson cũng mô tả hai cuộc tấn công là không bị khiêu khích; họ không bao giờ công bố các cuộc tấn công bí mật được Mỹ hỗ trợ đang diễn ra.

Các báo cáo nghi ngờ về cuộc tấn công thứ hai được cho là đã xảy ra

Một vấn đề khác:
cuộc tấn công thứ hai gần như chắc chắn không xảy ra. Thay vào đó, được cho là các thành viên thủy thủ của Maddox đã nhầm các tín hiệu sonar của chính họ trên bánh lái với torpedo của miền Bắc Việt Nam. Trong sự nhầm lẫn, Maddox thậm chí đã suýt bắn vào Turner Joy. Tuy nhiên, khi các quan chức tình báo Mỹ trình bày bằng chứng cho các nhà hoạch định chính sách, họ “cố ý” bỏ qua hầu hết các thông tin liên lạc quan trọng, theo tài liệu của Cơ quan An ninh Quốc gia được giải mật vào năm 2005.

“Khối lượng báo cáo überwältigend, nếu được sử dụng, sẽ kể câu chuyện rằng không có cuộc tấn công nào xảy ra,” một nhà sử học NSA đã viết. “Vì vậy, một nỗ lực có ý thức đã được thực hiện để chứng minh rằng một cuộc tấn công đã xảy ra.” Hải quân cũng nói rằng giờ đây “rõ ràng là lực lượng hải quân miền Bắc Việt Nam không tấn công Maddox và Turner Joy vào đêm đó.”

Trong khi đó, Johnson tự mình bày tỏ nghi ngờ về vụ việc Vịnh Bắc Bộ, được báo cáo đã nói với một quan chức Bộ Ngoại giao rằng “những thủy thủ ngốc nghếch đó chỉ đang bắn vào cá bay!” Ông cũng đã đặt câu hỏi về việc có nên ở lại Việt Nam hay không. “Một người có thể chiến đấu nếu anh ta có thể thấy ánh sáng ở đâu đó phía trước,” ông đã nói với một thượng nghị sĩ vào tháng 3 năm 1965. “Nhưng không có ánh sáng nào ở Việt Nam, không một chút nào.” Tuy nhiên, ngay cả khi ông nói vậy, ông đã cam kết các đơn vị chiến đấu trên mặt đất đầu tiên và khởi động một chiến dịch ném bom lớn.

Hoa Kỳ sẽ không rút khỏi Việt Nam cho đến năm 1973, thời điểm mà một Quốc hội đầy thất vọng đã bỏ phiếu để bãi bỏ cùng một Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ mà họ đã ủng hộ một cách áp đảo chỉ vài năm trước.
 
Sửa lần cuối:
Sự kết thúc của Chiến tranh Việt Nam dẫn đến cuộc
khủng hoảng người tị nạn như thế nào (Sau 1975)


Làm thế nào sự kết thúc của Chiến tranh Việt Nam dẫn đến cuộc khủng hoảng người tị nạn

Sự sụp đổ của Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975 đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh, nhưng cũng đồng thời mở đầu cho một trong những cuộc khủng hoảng người tị nạn lớn nhất và kéo dài nhất trong lịch sử.

Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi các lực lượng cộng sản Bắc Việt tiến gần đến thủ đô miền Nam Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức các nhân viên Mỹ và vài nghìn quan chức quân đội và ngoại giao miền Nam Việt Nam. Các máy quay tin tức truyền hình đã phát sóng những hình ảnh khủng khiếp của cuộc sơ tán hỗn loạn, bao gồm đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng vây quanh cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, sắp được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh bởi các cộng sản chiến thắng.

Sự sụp đổ nhanh chóng của Sài Gòn vào năm 1975 đã đánh dấu sự kết thúc của can thiệp quân sự thất bại của Mỹ ở Đông Nam Á, nhưng chỉ mới đánh dấu sự bắt đầu của những gì sẽ trở thành một trong những cuộc khủng hoảng người tị nạn lớn nhất và kéo dài nhất trong lịch sử.

Trong hai thập kỷ tiếp theo—from 1975 đến 1995—hơn ba triệu người đã bỏ trốn khỏi Việt Nam, Lào và Campuchia. Hàng nghìn người đã chết trên biển, nạn nhân của cướp biển hoặc tàu thuyền tạm bợ, quá đông người. Những người may mắn đã đến các trại tị nạn ở Thái Lan, Malaysia hoặc Philippines, và hơn 2,5 triệu người tị nạn cuối cùng đã được định cư khắp nơi trên thế giới, trong đó có hơn một triệu người ở Hoa Kỳ.


Những người còn lại đối mặt với tra tấn và "tái giáo dục"

Fall of Saigon

CÔNG DÂN MIỀN NAM CỐ GẮNG BỎ TƯỜNG TƯỜNG CỦA ĐẠI SỨ QUÁN MỸ TRONG NỖ LỰC RÚT KHỎI SÀI GÒN
VÀ TĂNG CƯỜNG QUÂN ĐỘI BẮC. NGÀY SAU 30 THÁNG 4 NĂM 1975 SÀI GÒN THUỘC VỀ MIỀN BẮC.


Trong những tháng sau sự sụp đổ của Sài Gòn, Tổng thống Mỹ Gerald Ford và Quốc hội đã phê duyệt việc sơ tán và định cư ở Hoa Kỳ của khoảng 140.000 người tị nạn từ miền Nam Việt Nam và Campuchia. Nhưng còn hàng trăm nghìn người khác, bao gồm các cựu thành viên của quân đội miền Nam Việt Nam và gia đình họ, phải đối mặt với tra tấn và trả thù từ chính quyền Bắc Việt.

“Cảnh tượng phổ biến vào cuối chiến tranh là thấy các binh sĩ miền Nam Việt Nam đốt bỏ quân phục của họ, đảm bảo rằng họ không có bất kỳ liên hệ nào với quân đội nữa,” Phương Trần Nguyễn, giáo sư lịch sử tại Đại học California State University, Monterey Bay, và tác giả của Becoming Refugee American: The Politics of Rescue in Little Saigon, cho biết.

Các trí thức miền Nam Việt Nam và những kẻ thù tiềm tàng của cách mạng đã bị tập hợp và gửi đến các trại "tái giáo dục", thực chất là các trại lao động cưỡng bức được thiết kế để làm suy yếu ý chí của người miền Nam Việt Nam và tuyên truyền cho họ các tư tưởng cộng sản. Nhiều cư dân của Sài Gòn, thủ đô cũ của miền Nam Việt Nam, đã bị buộc phải di chuyển ra vùng nông thôn để lao động trên các trang trại tập thể. Ở Campuchia lân cận, Khmer Đỏ đã nắm quyền và bắt đầu một chiến dịch tàn bạo với việc giam giữ và xử án hàng loạt các kẻ thù của mình.


Những người "tị nạn bằng thuyền" đối mặt với sự tiếp đón thù địch

vietnamese-refugees-boat-people-gettyimages-72103473.jpg

'THUYỀN NHÂN' RỜI KHỎI VIỆC BẰNG BIỂN NAM TRUNG QUỐC ĐƯỢC BÁC SĨ THẾ GIỚI MEDECINS DU MONDE CỨU NĂM NĂM 1982.

Khi tình hình chính trị và kinh tế ở Việt Nam, Lào và Campuchia xấu đi, dòng người tị nạn rời khỏi khu vực trở thành một cơn lũ. Những gia đình tuyệt vọng đã đóng gói đồ đạc của họ trong một chiếc vali duy nhất và bỏ trốn khỏi nhà “bằng bất cứ phương tiện nào có sẵn,” Long Bui, giáo sư nghiên cứu quốc tế tại Đại học California Irvine và tác giả của Returns of War: South Vietnam and the Price of Refugee Memory, cho biết.

“Một số người đã đi bộ qua rừng qua Lào và vào Thái Lan, nhưng chủ yếu họ chạy trốn bằng đường biển đến những nơi như Singapore và Hồng Kông,” Bui nói. “Họ thường bị cướp biển Malaysia và Thái Lan tấn công, những người đã cưỡng hiếp phụ nữ và cướp bất kỳ vàng bạc hoặc tiền bạc mà họ có. Đó là lý do tại sao điều đó rất khủng khiếp.”

Những “người tị nạn bằng thuyền,” như những người tị nạn này được gọi, không được chào đón hoặc thậm chí được công nhận là người tị nạn bởi hầu hết các quốc gia trong khu vực. Không một quốc gia nào ở Đông Nam Á ký kết Công ước về người tị nạn của Liên Hợp Quốc, ví dụ, và một số quốc gia công khai thù địch với hàng chục nghìn người Việt Nam và Campuchia đang đe dọa làm cạn kiệt tài nguyên hạn chế của họ. Đến năm 1979, khi có hơn 50.000 người tị nạn đến bằng thuyền mỗi tháng, các quốc gia như Malaysia và Singapore bắt đầu đẩy những chiếc thuyền đầy người tị nạn trở lại biển.

“Người ta ước tính rằng từ 25.000 đến 50.000 người tị nạn bằng thuyền đã chết trên biển,” Nguyễn nói. “Họ đã ở ngoài khơi hàng ngày mà không có gần như bất kỳ thực phẩm hoặc nước nào, và nhiều phụ nữ và trẻ em không biết bơi.”

Cuộc sống trong các trại tị nạn

Vietnamese refugee camp

MỘT SỐ NGƯỜI Tị nạn Việt Nam, trong đó có GIA ĐÌNH NÀY ĐƯỢC XUẤT HIỆN TẠI TRẠI TỊ NẠN HONG KONG, TRỞ LẠI VỀ VIỆT NAM THEO CHƯƠNG TRÌNH Hồi hương TUYỆT VỜI DO VĂN PHÒNG CAO CẤP LIÊN HIỆP QUỐC TỔ CHỨC.


Sau một hội nghị khẩn cấp của Liên Hợp Quốc vào năm 1979 để giải quyết cuộc khủng hoảng người tị nạn, các thỏa thuận đã được ký kết để an toàn cho các người tị nạn ở những nơi như Malaysia, Philippines và Indonesia, và các quy trình đã được thực hiện để tăng tốc việc định cư người tị nạn ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Úc, Pháp và Canada. Từ tháng 7 năm 1979 đến tháng 7 năm 1982, hơn 620.000 người tị nạn đã được định cư vĩnh viễn ở hơn 20 quốc gia, nhưng các gia đình thường phải chờ đợi nhiều năm trong các trại tị nạn.

Trại tị nạn Pulau Bidong ở Malaysia là đại diện cho điều kiện mà nhiều người tị nạn phải đối mặt. Với diện tích chỉ 1 kilômét vuông, trại này được thiết kế để chứa 4.500 người, nhưng đã tăng lên 40.000 cư dân vào tháng 6 năm 1979, trở thành nơi đông dân nhất thế giới. Các tổ chức từ thiện và các tổ chức phi chính phủ đã tổ chức các chương trình quyên góp quần áo và đồ chơi cho người tị nạn, nhưng điều kiện đông đúc và vệ sinh kém luôn là những thách thức.

Hầu hết các người tị nạn có thể mong đợi ở lại các trại từ vài tháng đến nhiều năm trước khi được lên lịch định cư. Khi ngày đến gần để rời đi đến cuộc sống mới của họ, họ sẽ được học tiếng Anh và làm quen với một số phong tục của các quốc gia mới. Một số trại đã hoạt động để phục vụ dòng người tị nạn liên tục trong suốt những năm 1980 và đến giữa những năm 1990.

“Một số trại ở Philippines không đóng cửa cho đến đầu những năm 2000,” Bui cho biết, “điều đó có nghĩa là nhiều thế hệ đã được sinh ra trong các trại tị nạn.”

Đến năm 2005, ví dụ, những người tị nạn cuối cùng trong số 250.000 người được ghi nhận đã đến Malaysia từ Việt Nam cuối cùng đã được định cư sau khoảng 30 năm kể từ khi Sài Gòn sụp đổ.

Sự tiếp đón người tị nạn ở Hoa Kỳ

Vietnamese refugees

GIA ĐÌNH HỌ LƯƠNG QUA DI TRÚ TẠI SÂN BAY QUỐC TẾ TÂN SƠN NHẤT KHI RỜI VIỆT NAM ĐẾN MỸ.

Người tị nạn từ Đông Nam Á đã được định cư ở Hoa Kỳ theo từng đợt. Đợt đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của đợt sơ tán 140.000 người của Tổng thống Ford. Những người tị nạn này, hầu hết đều có học vấn và nói được một số tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ, những người mong muốn giải tỏa một phần sự mặc cảm về việc quân đội đột ngột rút khỏi miền Nam Việt Nam.

Đợt người tị nạn thứ hai, bắt đầu đến Hoa Kỳ vào năm 1978, nhận được sự tiếp đón lạnh lùng hơn. Đây là những người được gọi là “người tị nạn bằng thuyền,” thường nghèo hơn và ít được giáo dục hơn với nhiều người đàn ông độc thân. Do trải qua chấn thương trong việc trốn khỏi quê hương bị chiến tranh tàn phá và sống sót qua các chuyến vượt biển và trại tị nạn, nhiều người tị nạn trong đợt hai gặp khó khăn hơn trong việc hòa nhập vào cuộc sống ở Mỹ. Để làm trầm trọng thêm tình hình, sự ủng hộ của công chúng Mỹ đối với người tị nạn đã giảm sút vào năm 1978 khi nền kinh tế rơi vào suy thoái.

“Phần lớn người Mỹ không muốn người Việt ở đây,” Bui cho biết. “Người tị nạn là một sự nhắc nhở rõ ràng về một cuộc chiến đã mất và được coi là gánh nặng kinh tế. Đó không phải là một khí hậu chào đón.”

Từ năm 1979 đến 1999, thêm 500.000 người tị nạn đã đến như một phần của Chương trình Định cư Có trật tự của Liên Hợp Quốc, cho phép người tị nạn di cư trực tiếp từ Việt Nam đến Hoa Kỳ.
Nhiều người tị nạn này đã trải qua nhiều năm làm tù nhân chính trị và ở trong các trại tái giáo dục, những trải nghiệm chấn thương mà họ cố gắng để lại phía sau khi bắt đầu lại cuộc sống của họ ở một đất nước đôi khi thù địch.

“Tôi sinh ra ở Mỹ, nhưng trải nghiệm tị nạn của cha mẹ tôi vẫn hình thành cuộc sống của tôi,” Bui nói. “Tôi đã học ở 16 trường khác nhau từ lớp K đến lớp 12. Chúng tôi không bao giờ thực sự định cư. Chúng tôi vẫn mang theo các vấn đề kinh tế và nghèo đói mà chúng tôi có được từ chiến tranh. Câu chuyện của tôi là câu chuyện của thế hệ thứ hai nhưng vẫn nối tiếp từ lịch sử người tị nạn.”

Hậu quả lâu dài của chiến tranh

Thế giới không chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng người tị nạn quy mô lớn sau sự kết thúc đột ngột của Chiến tranh Việt Nam.

Cuộc khủng hoảng buộc Liên Hợp Quốc và các quốc gia thành viên như Hoa Kỳ phải xác định rõ ai đủ điều kiện trở thành người tị nạn và thiết lập các chính sách và quy trình cấp quy chế tị nạn cho những người trốn chạy bạo lực và đàn áp.

Nhưng đối với các nhà sử học như Nguyễn, dường như các bài học thực sự từ Việt Nam chưa bao giờ được học đầy đủ.

“Hoa Kỳ không xem xét đủ việc di cư và di tản của người tị nạn là một phần của tất cả các can thiệp chính sách đối ngoại của chúng ta,” Nguyễn nói. “Bất kỳ loại chiến tranh nào cũng sẽ dẫn đến điều đó. Chúng ta cần chuẩn bị để xử lý cuộc khủng hoảng nhân đạo mà không thể tránh khỏi xảy ra sau thành phần quân sự.”
 
Sửa lần cuối:
2 lần nhờ Trung Quốc.

Lần 1, TQ viện trợ Việt Minh đánh Pháp, nếu không có Trung Cộng hỗ trợ thì chắc Pháp đã thắng.

Lần 2, có Trung Quốc bảo kê, Mỹ không dám tiến quân ra Bắc, nhờ thế mà có thể đánh trường kỳ đến khi Mỹ rút.
 
2 lần nhờ Trung Quốc.

Lần 1, TQ viện trợ Việt Minh đánh Pháp, nếu không có Trung Cộng hỗ trợ thì chắc Pháp đã thắng.

Lần 2, có Trung Quốc bảo kê, Mỹ không dám tiến quân ra Bắc, nhờ thế mà có thể đánh trường kỳ đến khi Mỹ rút.
Nếu đc thì trích nguồn cho mn tiện theo dõi và t tiện biên bài
 
Thảm sát Mỹ Lai (1968)

Thảm sát Mỹ Lai là một trong những sự kiện tàn bạo nhất xảy ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Vào ngày 16 tháng 3 năm 1968, một đại đội lính Mỹ đã tàn sát phần lớn người dân—phụ nữ, trẻ em và người già—trong làng Mỹ Lai. Hơn 500 người đã bị giết hại trong thảm sát Mỹ Lai, bao gồm những cô gái trẻ và phụ nữ bị cưỡng hiếp và hành hạ trước khi bị giết. Các sĩ quan quân đội Mỹ đã che giấu cuộc tàn sát này trong một năm trước khi nó được báo chí Mỹ đưa tin, gây ra cơn giận dữ toàn cầu. Sự tàn bạo của thảm sát Mỹ Lai và việc che giấu chính thức đã làm dấy lên phong trào chống chiến tranh và làm gia tăng sự chia rẽ ở Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh Việt Nam.

Đại đội Charlie

Làng Mỹ Lai nhỏ bé nằm ở tỉnh Quảng Ngãi, được cho là một thành trì của Mặt trận Giải phóng Miền Nam (NLF) hay Việt Cộng (VC) trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tỉnh Quảng Ngãi vì thế thường xuyên là mục tiêu của các cuộc không kích của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, và toàn bộ khu vực bị rải chất độc da cam, một loại thuốc diệt cỏ chết người.

Vào tháng 3 năm 1968, Đại đội Charlie—thuộc Lữ đoàn Bộ binh 11 của Sư đoàn Americal—nhận được thông tin rằng các du kích VC đã kiểm soát làng Sơn Mỹ lân cận. Đại đội Charlie được gửi đến khu vực này vào ngày 16 tháng 3 để thực hiện một nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt.

Lúc đó, tinh thần của các binh sĩ Mỹ trên mặt đất đang giảm sút, đặc biệt là sau cuộc tấn công Tết do quân Bắc Việt dẫn đầu, được phát động vào tháng 1 năm 1968. Đại đội Charlie đã mất khoảng 28 thành viên vì tử vong hoặc bị thương và chỉ còn hơn 100 người.

William Calley

Các chỉ huy quân đội đã cảnh báo các binh sĩ của Đại đội Charlie rằng bất cứ ai được tìm thấy trong khu vực Sơn Mỹ đều có thể được coi là VC hoặc những kẻ đồng tình với VC, và ra lệnh cho họ phá hủy làng này.

Khi đến nơi ngay sau bình minh, các binh sĩ—dưới sự chỉ huy của Trung úy William Calley—không tìm thấy Việt Cộng. Thay vào đó, họ gặp một làng yên tĩnh chủ yếu là phụ nữ, trẻ em và người già đang chuẩn bị bữa sáng của họ.

Người dân trong làng bị tập hợp thành nhóm khi các binh sĩ kiểm tra các túp lều của họ. Mặc dù chỉ tìm thấy một vài vũ khí, Calley đã ra lệnh cho quân của mình bắt đầu bắn người dân trong làng.

Bắt đầu thảm sát Mỹ Lai

Một số lính không đồng ý với lệnh của Calley, nhưng chỉ trong vài giây, thảm sát đã bắt đầu, với chính Calley bắn nhiều đàn ông, phụ nữ và trẻ em.

Những người mẹ đang bảo vệ con cái của họ bị bắn, và khi trẻ em của họ cố gắng bỏ chạy, chúng cũng bị tàn sát. Các túp lều bị đốt cháy, và bất cứ ai bên trong cố gắng trốn thoát đều bị bắn chết.

“Tôi thấy họ bắn một khẩu M79 (súng phóng lựu) vào một nhóm người vẫn còn sống. Nhưng chủ yếu là dùng súng máy. Họ bắn phụ nữ và trẻ em như bất kỳ ai khác,” Sỹ quan Michael Bernhardt, một lính có mặt tại hiện trường, đã nói với một phóng viên.

“Chúng tôi không gặp phải sự kháng cự nào và tôi chỉ thấy ba khẩu vũ khí bị bắt. Chúng tôi không có thương vong. Nó giống như bất kỳ làng Việt Nam nào khác—các ông già, phụ nữ và trẻ em. Thực tế, tôi không nhớ thấy một người đàn ông ở độ tuổi quân dịch nào trong toàn bộ khu vực, chết hay sống,” Bernhardt cho biết.

Ngoài việc giết những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em không vũ trang, các binh sĩ còn tàn sát vô số gia súc, cưỡng hiếp một số lượng phụ nữ không xác định và đốt cháy làng xuống đất.

Calley được báo cáo đã kéo hàng chục người, bao gồm trẻ nhỏ, vào một cái rãnh trước khi xử án họ bằng súng máy. Không có viên đạn nào bắn vào lính của Đại đội Charlie tại Mỹ Lai.

Hugh Thompson

Thảm sát Mỹ Lai được cho là chỉ kết thúc sau khi Trung úy Hugh Thompson, một phi công trực thăng quân đội thực hiện nhiệm vụ trinh sát, hạ cánh máy bay của mình giữa các binh sĩ và những người dân đang rút lui và đe dọa sẽ nổ súng nếu họ tiếp tục tấn công.

“Chúng tôi liên tục bay qua lại… và không lâu sau chúng tôi bắt đầu nhận thấy số lượng xác chết lớn ở khắp mọi nơi. Ở đâu chúng tôi cũng thấy xác chết. Đây là trẻ sơ sinh, trẻ hai, ba, bốn, năm tuổi, phụ nữ, những ông già rất già, không có người đàn ông ở độ tuổi quân dịch nào cả,” Thompson cho biết tại một hội nghị về Mỹ Lai tại Đại học Tulane năm 1994.

Thompson và đội bay của ông đã đưa hàng chục người sống sót đi điều trị y tế. Vào năm 1998, Thompson và hai thành viên khác trong đội bay của ông nhận được Huân chương Chiến công của Quân đội, giải thưởng cao nhất của quân đội Mỹ dành cho sự dũng cảm không liên quan đến tiếp xúc trực tiếp với kẻ thù.

Cuộc điều tra về Mỹ Lai

Khi thảm sát Mỹ Lai kết thúc, 504 người đã chết. Trong số các nạn nhân có 182 phụ nữ—17 trong số đó đang mang thai—và 173 trẻ em, bao gồm 56 trẻ sơ sinh.

Biết rằng tin tức về thảm sát sẽ gây ra một vụ bê bối, các sĩ quan cấp cao hơn của Đại đội Charlie và Lữ đoàn 11 ngay lập tức cố gắng làm giảm mức độ nghiêm trọng của cuộc tàn sát. Dù vậy, quân đội Mỹ đã bắt đầu một cuộc điều tra nội bộ về sự việc.

Colin Powell

Một trong những nhà điều tra nội bộ của quân đội Mỹ về thảm sát Mỹ Lai là Đại tá Colin Powell, người sau này trở thành Ngoại trưởng dưới thời Tổng thống George W. Bush.

Theo báo cáo của Powell, “dù có thể có những trường hợp cá biệt về sự ngược đãi đối với dân thường và tù binh, điều này không phản ánh thái độ chung trong toàn bộ sư đoàn.”

Về các cáo buộc liên quan đến tội ác của các binh sĩ Mỹ, Powell cho biết, “Điều trái ngược trực tiếp với hình ảnh này là thực tế rằng quan hệ giữa các binh sĩ Sư đoàn Americal và người dân Việt Nam là rất tốt,” một tuyên bố mà nhiều nhà phê bình đã chỉ trích là “rửa tay gác kiếm” và cáo buộc Powell tham gia vào việc che giấu thảm sát Mỹ Lai.

Việc che giấu thảm sát Mỹ Lai

Việc che giấu thảm sát Mỹ Lai tiếp tục cho đến khi Ron Ridenhour, một binh sĩ thuộc Lữ đoàn 11 đã nghe các báo cáo về thảm sát nhưng không tham gia, bắt đầu chiến dịch đưa sự kiện ra ánh sáng.

Sau khi viết thư cho Tổng thống Richard M. Nixon, Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao, Tham mưu trưởng Liên quân và một số nghị sĩ—mà không nhận được phản hồi—Ridenhour cuối cùng đã cho phỏng vấn với nhà báo điều tra Seymour Hersh, người đã công bố câu chuyện vào tháng 11 năm 1969.

Xét xử Mỹ Lai

Giữa sự phản đối quốc tế và các cuộc biểu tình phản chiến sau các tiết lộ của Ridenhour, quân đội Mỹ đã ra lệnh điều tra đặc biệt về thảm sát Mỹ Lai và các nỗ lực che giấu sau đó.

Cuộc điều tra, do Trung tướng William Peers dẫn đầu, đã công bố báo cáo vào tháng 3 năm 1970 và khuyến nghị rằng không ít hơn 28 sĩ quan nên bị truy tố vì liên quan đến việc che giấu thảm sát. Phiên tòa Mỹ Lai bắt đầu vào ngày 17 tháng 11 năm 1970.

Bạn có biết không? Hugh Thompson, phi công trực thăng đã ngăn chặn thảm sát Mỹ Lai, sau đó nói với chương trình tin tức "60 Minutes" rằng ông đã bị xã hội xa lánh và nhận các đe dọa giết người khi trở về từ Việt Nam. Nhưng vào năm 1998, Thompson đã tham dự một buổi lễ tưởng niệm tại Mỹ Lai vào kỷ niệm 30 năm của thảm sát.

Quân đội sau đó chỉ buộc tội 14 người, bao gồm Calley, Đại úy Ernest Medina và Đại tá Oran Henderson, với các tội danh liên quan đến các sự kiện tại Mỹ Lai. Tất cả đều được tuyên bố trắng án ngoại trừ Calley, người bị kết tội giết người có chủ ý vì đã ra lệnh bắn, mặc dù ông tuyên bố rằng ông chỉ đang thực hiện lệnh từ chỉ huy của mình, Đại úy Medina.

Vào tháng 3 năm 1971, Calley bị tuyên án tù chung thân vì vai trò của mình trong việc chỉ đạo các cuộc giết chóc tại Mỹ Lai. Nhiều người xem Calley như một vật tế thần, và án của ông đã được giảm xuống 20 năm và sau đó còn 10 năm; ông được ân xá vào năm 1974.

Các cuộc điều tra sau này đã chỉ ra rằng cuộc tàn sát tại Mỹ Lai không phải là sự kiện đơn lẻ. Những tội ác khác, chẳng hạn như một cuộc tàn sát tương tự tại làng Mỹ Khe, ít được biết đến hơn. Một chiến dịch quân sự tai tiếng mang tên Speedy Express đã giết hàng nghìn dân thường Việt Nam ở Đồng bằng sông Cửu Long, khiến chỉ huy chiến dịch, Thiếu tướng Julian Ewell, được đặt biệt danh là “Kẻ đồ tể của Đồng bằng.”

Tác động của thảm sát Mỹ Lai

Vào đầu những năm 1970, nỗ lực chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam đang giảm dần, khi chính quyền Nixon tiếp tục chính sách “Việt Nam hóa”, bao gồm việc rút quân và chuyển giao quyền kiểm soát các hoạt động trên mặt đất cho quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Trong số các quân nhân Mỹ còn lại ở Việt Nam, tinh thần thấp, và sự tức giận và thất vọng gia tăng. Việc sử dụng ma túy và rượu gia tăng trong số các binh sĩ, và một báo cáo chính thức vào năm 1971 ước tính rằng một phần ba hoặc nhiều hơn trong số các quân nhân Mỹ đã bị nghiện.

Những tiết lộ về thảm sát Mỹ Lai đã làm tinh thần giảm sút thêm, khi các binh sĩ đặt câu hỏi về những tội ác khác mà cấp trên của họ có thể đang che giấu. Ở quê nhà tại Mỹ, sự tàn bạo của thảm sát Mỹ Lai và các nỗ lực của các sĩ quan cấp cao hơn để che giấu nó đã làm gia tăng cảm giác chống chiến tranh và làm tăng sự cay đắng đối với sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Việt Nam.

Nguồn :

Eyewitness accounts of the My Lai massacre; story by Seymour Hersh Nov. 20, 1969. Cleveland Plain Dealer.
The Heroes of My Lai. Transcript of 1994 Tulane University My Lai Conference.
Was My Lai just one of many massacres in Vietnam War? BBC News.
The Massacre at My Lai, by Seymour Hersh. The New Yorker.
The Scene of the Crime, by Seymour Hersh. The New Yorker.
Four things you didn’t know about Colin Powell. Los Angeles Times.


Clip :

 
Cuộc tấn công của Việt Cộng vào Đại sứ quán Mỹ (1968)

Vào ngày này năm 1968, trong khuôn khổ cuộc Tổng tiến công Tết, một nhóm du kích Việt Cộng đã tấn công Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Các binh sĩ đã chiếm đóng đại sứ quán và giữ nó trong sáu giờ cho đến khi một lực lượng tấn công của lính nhảy dù Mỹ hạ cánh bằng trực thăng lên mái của tòa nhà và đẩy lùi Việt Cộng.

Cuộc Tổng tiến công Tết được lên kế hoạch như một cuộc tấn công lớn và đồng loạt vào các thành phố lớn và các tỉnh lỵ của miền Nam Việt Nam. Nó được dự định diễn ra trong dịp Tết, lễ hội Tết Nguyên Đán của người Việt, vốn là thời điểm thường có sự giảm bớt chiến sự.

Vào tháng 12 năm 1967, sau một cuộc tấn công vào căn cứ Thủy quân lục chiến Mỹ tại Khe Sanh, 50.000 lính Mỹ đã được gửi đến để bảo vệ khu vực này, làm suy yếu các vị trí của Mỹ ở những nơi khác. Phản ứng của Mỹ đã góp phần vào chiến lược của Việt Cộng nhằm mở đường cho cuộc Tổng tiến công Tết, trong đó lực lượng cộng sản đã tấn công Sài Gòn, Huế (thủ đô triều Nguyễn) và hơn 100 khu vực đô thị khác.

Thời điểm và quy mô của các cuộc tấn công đã làm cho các lực lượng miền Nam Việt Nam và Mỹ bất ngờ, mặc dù họ nhanh chóng hồi phục và chiếm lại các khu vực bị chiếm đóng. Về mặt quân sự, cuộc Tổng tiến công Tết là một thảm họa đối với cộng sản, khi họ chịu tổn thất nặng nề.

Tuy nhiên, mặc dù cuộc tấn công là một thất bại quân sự nặng nề, nhưng các lực lượng cộng sản đã giành được một chiến thắng tâm lý lớn, điều này cuối cùng giúp họ giành chiến thắng trong cuộc chiến. Những hình ảnh rõ nét về thương vong của Mỹ trong cuộc tấn công đã làm tăng cảm giác phản chiến trong công chúng Mỹ, những người đã mệt mỏi với cuộc xung đột kéo dài (các lực lượng chiến đấu Mỹ đã có mặt ở Việt Nam từ năm 1965; Mỹ đã cử cố vấn quân sự đầu tiên vào năm 1961).

Công chúng đã thất vọng vì những báo cáo quá lạc quan về tiến triển của cuộc chiến và không hài lòng với cách xử lý của Tổng thống Lyndon Johnson.

Johnson, thất vọng với sự thiếu khả năng tìm ra giải pháp ở Việt Nam, đã thông báo vào ngày 31 tháng 3 năm 1968 rằng ông sẽ không tìm kiếm hay chấp nhận đề cử của đảng mình cho cuộc bầu cử lại. Tướng William Westmoreland, chỉ huy các lực lượng Mỹ tại Việt Nam, đã yêu cầu thêm 206.000 quân để tiêu diệt các lực lượng đối phương đang suy yếu. Johnson đã từ chối yêu cầu của Westmoreland và thay thế ông bằng Tướng Creighton Abrams.

Vào tháng 5 năm 1968, Mỹ và Bắc Việt bắt đầu đàm phán hòa bình tại Paris và đạt được thỏa thuận chính thức vào tháng 1 năm 1973. Các cuộc chiến giữa Bắc và Nam tiếp tục ở Việt Nam trước khi cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Sài Gòn thất thủ trước cộng sản và những người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam.


Clip :

 
Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968)

Cuộc Tổng tiến công Tết năm 1968 là một loạt các cuộc tấn công phối hợp của Bắc Việt vào hơn 100 thành phố và điểm đồn trú ở miền Nam Việt Nam.

Mục đích của cuộc tấn công là kích động nổi dậy trong dân cư miền Nam Việt Nam và khuyến khích Mỹ giảm bớt sự can thiệp vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Mặc dù lực lượng Mỹ và miền Nam Việt Nam đã quản lý để giữ vững phòng tuyến, nhưng tin tức về cuộc tấn công quy mô lớn đã khiến công chúng Mỹ sốc và làm giảm sự ủng hộ cho nỗ lực chiến tranh. Mặc dù chịu tổn thất nặng nề, Bắc Việt đã đạt được một chiến thắng chiến lược với cuộc Tổng tiến công Tết, vì các cuộc tấn công đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc chiến tranh Việt Nam và sự bắt đầu của quá trình rút quân chậm và đau đớn của Mỹ khỏi khu vực.


Cuộc Tổng tiến công Tết là gì?

Lễ hội Tết, là lễ hội quan trọng nhất trong lịch Việt Nam, diễn ra vào dịp Tết Nguyên Đán. Trong những năm trước, lễ hội này thường là thời điểm của một lệnh ngừng bắn không chính thức trong cuộc chiến tranh Việt Nam giữa miền Nam Việt Nam và miền Bắc Việt Nam (cùng với các đồng minh cộng sản của họ ở miền Nam, Việt Cộng).

Tuy nhiên, vào đầu năm 1968, chỉ huy quân đội Bắc Việt là Tướng Võ Nguyên Giáp đã chọn ngày 31 tháng 1 làm dịp cho một cuộc tấn công phối hợp bất ngờ nhằm phá vỡ tình trạng bế tắc ở Việt Nam. Giáp, phối hợp với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tin rằng các cuộc tấn công sẽ khiến lực lượng Quân đội Việt Nam Cộng hòa (ARVN) sụp đổ và gây ra sự bất mãn và nổi dậy trong dân cư miền Nam Việt Nam.

Hơn nữa, Giáp tin rằng liên minh giữa miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ là không ổn định—ông hy vọng cuộc tấn công sẽ tạo ra vết rạn cuối cùng giữa họ và thuyết phục các nhà lãnh đạo Mỹ từ bỏ sự bảo vệ miền Nam Việt Nam.


Bạn có biết?

Vào tháng 2 năm 1968, sau cuộc Tổng tiến công Tết, nhà báo truyền hình nổi tiếng Walter Cronkite, người đã từng là một quan sát viên ôn hòa và cân bằng về tiến trình của cuộc chiến, tuyên bố rằng “có vẻ như chắc chắn hơn bao giờ hết rằng kinh nghiệm đẫm máu ở Việt Nam sẽ kết thúc trong một tình trạng bế tắc.” Tổng thống Johnson được cho là đã nói với một phụ tá, “Nếu tôi đã mất Cronkite, tôi đã mất nước Mỹ trung dung.”


Khe Sanh bị tấn công

Để chuẩn bị cho cuộc tấn công, Giáp và quân đội của ông trong Quân đội Nhân dân Việt Nam (PAVN) đã tiến hành một loạt các cuộc tấn công vào mùa thu năm 1967 vào các đồn quân Mỹ cô lập ở vùng cao nguyên miền Trung Việt Nam và dọc theo biên giới Lào và Campuchia.

Vào ngày 21 tháng 1 năm 1968, lực lượng PAVN bắt đầu một cuộc pháo kích lớn vào đồn quân Mỹ tại Khe Sanh, nằm trên con đường chính từ miền Bắc miền Nam Việt Nam vào Lào. Trong khi Tổng thống Lyndon B. Johnson và Tướng William Westmoreland tập trung vào việc phòng thủ Khe Sanh, lực lượng 70.000 của Giáp sẵn sàng bắt đầu mục tiêu thực sự của họ: cuộc Tổng tiến công Tết.


Cuộc Tổng tiến công Tết bắt đầu

Vào sáng sớm ngày 30 tháng 1 năm 1968, lực lượng Việt Cộng đã tấn công 13 thành phố ở miền Trung miền Nam Việt Nam, ngay khi nhiều gia đình bắt đầu lễ hội Tết Nguyên Đán.

Hai mươi bốn giờ sau, lực lượng PAVN và Việt Cộng đã tấn công nhiều mục tiêu khác trên toàn miền Nam Việt Nam, bao gồm các thành phố, thị trấn, các cơ quan chính phủ và các căn cứ quân sự của Mỹ hoặc ARVN trên toàn miền Nam Việt Nam, tổng cộng hơn 120 cuộc tấn công.

Trong một cuộc tấn công đặc biệt táo bạo vào Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, một trung đội Việt Cộng đã vào được sân của khuôn viên trước khi lực lượng Mỹ phá hủy nó. Cuộc tấn công táo bạo vào Đại sứ quán Mỹ, và sự thành công ban đầu của nó, đã làm sửng sốt các quan sát viên Mỹ và quốc tế, những người đã thấy những hình ảnh của cuộc tàn sát được phát trên truyền hình khi nó đang xảy ra.

Mặc dù Giáp đã thành công trong việc gây bất ngờ, nhưng lực lượng của ông đã bị phân tán quá mỏng trong cuộc tấn công đầy tham vọng này, và lực lượng Mỹ và ARVN đã quản lý để chống lại hầu hết các cuộc tấn công và gây tổn thất nặng nề cho Việt Cộng.


Trận chiến Huế

Cuộc chiến đặc biệt dữ dội đã diễn ra ở thành phố Huế, nằm trên sông Hương cách biên giới giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam khoảng 50 dặm.

Trận chiến Huế đã kéo dài hơn ba tuần sau khi lực lượng PAVN và Việt Cộng đột nhập vào thành phố vào ngày 31 tháng 1, dễ dàng áp đảo các lực lượng chính phủ ở đó và chiếm quyền kiểm soát của thành cổ thành phố.

Ngay từ đầu cuộc chiếm đóng Huế, các binh sĩ Việt Cộng đã tiến hành các cuộc lục soát từ nhà này sang nhà khác, bắt giữ các công chức, lãnh đạo tôn giáo, giáo viên và các dân thường khác có liên quan đến lực lượng Mỹ hoặc chế độ miền Nam Việt Nam. Họ đã xử án những người được gọi là phản cách mạng và chôn xác họ trong các ngôi mộ tập thể.

Lực lượng Mỹ và ARVN đã phát hiện bằng chứng về cuộc tàn sát sau khi họ tái chiếm thành phố vào ngày 26 tháng 2. Ngoài hơn 2.800 thi thể, còn có thêm 3.000 cư dân mất tích, và lực lượng chiếm đóng đã phá hủy nhiều đền chùa, cung điện và các di tích vĩ đại của thành phố.

Cuộc chiến khốc liệt nhất ở Huế diễn ra tại thành cổ cổ kính, nơi mà quân Bắc Việt đã chiến đấu quyết liệt để giữ vững trước hỏa lực vượt trội của Mỹ. Trong những cảnh tàn sát được quay phim bởi nhiều nhóm truyền hình có mặt tại hiện trường, gần 150 lính Thủy quân lục chiến Mỹ đã bị giết trong trận chiến Huế, cùng với khoảng 400 quân đội miền Nam Việt Nam.

Về phía Bắc Việt, ước tính có khoảng 5.000 binh sĩ bị giết, hầu hết do các cuộc tấn công của không quân và pháo binh Mỹ.

“Những gì tôi thấy có thể là những trận đánh trên mặt đất dữ dội nhất kéo dài nhiều ngày trong bất kỳ thời kỳ nào của cuộc chiến,” Howard Prince, một đại úy quân đội Mỹ, sau đó đã nói với NPR.

“Chúng tôi không biết kẻ thù ở đâu, thậm chí không biết hướng nào,” Mike Downs, một đại úy Thủy quân lục chiến, đã nói với NPR.

Tác động của cuộc Tổng tiến công Tết

Mặc dù chịu tổn thất nặng nề và không thành công trong việc khơi dậy sự nổi dậy rộng rãi trong dân cư miền Nam Việt Nam, cuộc Tổng tiến công Tết đã chứng tỏ là một thành công chiến lược đối với Bắc Việt.

Trước cuộc Tết, Westmoreland và các đại diện khác của chính quyền Johnson đã tuyên bố rằng chiến tranh sắp kết thúc; giờ đây, rõ ràng là một cuộc đấu tranh dài vẫn còn ở phía trước, làm lung lay sự tự tin của họ vào khả năng thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Westmoreland đã yêu cầu thêm hơn 200.000 quân để thực hiện một cuộc phản công hiệu quả, một sự leo thang mà nhiều người Mỹ coi là hành động tuyệt vọng.

“Bạn đã có những báo cáo lạc quan không thể tin nổi từ Tướng William Westmoreland, người là chỉ huy Mỹ ở Việt Nam,” Mark Bowden, tác giả của cuốn sách Hue 1968, đã nói với NPR. “[Ông ấy] đảm bảo với công chúng Mỹ rằng kết thúc đã gần kề, rằng kẻ thù thực sự chỉ có khả năng thực hiện những cuộc phục kích nhỏ ở những vùng xa xôi của đất nước.”

Phong trào phản chiến gia tăng

Khi cảm giác phản chiến và các cuộc biểu tình chống chiến tranh ở quê nhà ngày càng gia tăng, một số cố vấn của Johnson trong Nhà Trắng đã ủng hộ việc rút quân khỏi Việt Nam (bao gồm cả Clark Clifford, người sẽ trở thành Bộ trưởng Quốc phòng) giờ đây đã tranh luận về việc giảm bớt sự can thiệp của Mỹ.

Vào ngày 31 tháng 3, Tổng thống Johnson trong tình trạng kiệt quệ đã tuyên bố rằng ông sẽ hạn chế ném bom miền Bắc Việt Nam chỉ ở khu vực phía nam vĩ tuyến 20 (do đó bỏ qua 90% lãnh thổ do cộng sản kiểm soát) và kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Đồng thời, Johnson tuyên bố ông sẽ không tái tranh cử vào tháng 11 năm đó.

Mặc dù các cuộc đàm phán hòa bình sẽ kéo dài thêm năm năm nữa—trong thời gian đó nhiều lính Mỹ bị giết hơn so với những năm trước của cuộc xung đột—quyết định của Johnson ngừng leo thang sau cuộc Tổng tiến công Tết đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam.


Nguồn :​

Military Victory But Political Defeat: The Tet Offensive 50 Years Later. NPR.
U.S. Involvement in the Vietnam War: The Tet Offensive, 1968. U.S. Department of State, Office of the Historian.
Jan 30, 1968 CE: Tet Offensive. National Geographic.
Tet Offensive at Fifty. Office of the Director of National Intelligence.
 
Top