Bản thân tao bỗ bã, nên là cái đầu tiên phải nói, là không nên mong đợi cái sự lịch sự không cần thiết. Ở đây thẳng nhưng thật. Đạo của mỗi người khác nhau. Học dịch là để hiểu đạo, k có cái nào đúng tuyệt đối và cũng không có cái nào sai hoàn toàn. T k nhận là quân tử, cũng chẳng phải tiểu nhân. T tin nhân quả nên hành động theo nhân quả, k thẹn với bản thân tao là được.
I. MỞ ĐẦU VỀ DỊCH
Dịch là gì, có nhiều kiến giải khác nhau. Theo các nguồn định nghĩa từ google, đây là một trong ngũ kinh của tàu, kinh thư, kinh thi, kinh lễ, kinh dịch, kinh xuân thu. Nó là 5 cuốn kinh điển của nho giáo mà bất kỳ sĩ tử nào ngày xưa đi thi cũng phải nằm làu.
Vậy Dịch ở đây là gì. Dịch chỉ sự biến đổi, vạn vật đều do biến đổi mới thành hình. Khoa học hiện đại chứng minh, vật chất được tạo nên từ những phân tử chuyển động không ngừng, đây chính là hàm ý vạn vật luân chuyển tuần hoàn mà cổ nhân đã tìm ra trước cả khoa học hàng nghìn năm.
Chữ Dịch này, có ba cảnh giới sâu xa là Giản Dịch, Biến Dịch, và Bất Dịch. Giản là thuần nhất, bản nguyên, vạn vật dù khác nhau ở hình thái, hiện tượng, nhưng bản chất không hề thay đổi. Biến dịch là cái có sau khi Giản dịch hình thành, một bản chất, bản nguyên thì có muôn vạn biến hoá, và cuối cùng là Bất Dịch, bất ở đây là không, tức là khi mọi biến hoá đều xảy ra, đến một mức độ nào đấy, sự vật sẽ không tiến hoá nữa, mà sẽ quá độ về chất, tạo thành một bản chất mới, khi đó, nó lại quay về Giản Dịch.
Kinh Dịch là một cuốn sách nói nó dễ thì nó dễ, nói nó cả đời không hiểu thấu thì cả đời không hiểu thấu được. 64 quẻ bao hàm toàn bộ vạn vật, nhân sinh. Vậy nên nó được gọi là Thiên Thư 64 chữ.
Học dịch để làm gì : Học dịch, là để hiểu về bản chất, quy luật tuần hoàn của sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Khi hiểu dịch rõ ràng là như thế nào, cái có được từ dịch là định hướng bản ngã ra sao, chống lại quy luật hay thuận theo quy luật. Dự đoán học, chỉ là một khía cạnh vô cùng nhỏ của Dịch.
Tại sao Dịch lại áp dụng trong dự đoán học: Dự đoán, về bản chất là chính là nắm rõ quy luật của sự vật, hiện tượng để suy ra những kết quả tiếp theo theo mối quan hệ nhân quả. Vạn vật đều Dịch, biến nên trong vạn vật đều có dịch. Trong tháng năm, ngày giờ có dịch. Trong cành cây, hoa cỏ cũng có dịch. Mượn cái sự dịch trong vạn vật mà hiểu ra bản chất của mọi sự vật, hiện tượng, hiểu được bản chất rồi thì quy tắc sẽ tự khắc thấu triệt.
II. LỊCH SỬ CỦA DỊCH
Dịch xuất phát từ khi nào, không ai trả lời rõ được. Cho đến ngày nay, sử gia vẫn đang tìm câu trả lời. Theo huyền sử tàu, Dịch bắt nguồn từ Phục Hy. Phục Hy là một trong tam hoàng của huyền sử tàu, phục hy, nữ oa , thần nông. Về mặt huyền sử, nó là ghi chép truyền miệng nên không ai kiểm chứng xác đáng. Tuy nhiên, có thể lập luận rằng, Phục Hy, có thể coi là một trưởng bộ lạc của cổ đại, qua quan sát sự thay đổi của thiên tượng, thời tiết và chu kỳ biến đổi trong một năm, điều ảnh hưởng rất lớn đến mùa màng, khí hậu, trồng trọt cuae con người mà nhận ra quy luật biến đổi. Kết hợp thêm những quy tắc số học cổ đại của tàu là Hà Lạc mà hình thành nên 8 quẻ tiên thiên bát quái. Sau phục hy , đến thời văn vương, sự thay đổi, quy luật của dịch trên mặt đất được tìm hiểu, và hình thành nên hậu thiên bát quái. Đến thời khổng tử, lão truyền bá thêm nho đạo của lão vào dịch qua hào từ, thế nên mới có chu dịch như ngày nay.
Dịch thời nhà Hạ gọi là Liên Sơn, khởi phát từ quẻ cấn, tượng là dãy núi cao, đã thất truyền. Dịch thời nhà Thương gọi là Quy Tàng, khởi phát từ quẻ khôn, tức là đất. Rùa là vật có ẩn chứa cả hải khí và sơn khí. Người cổ đại đào được rất nhiều mai rùa trong lòng núi, tuy nhiên do không có khoa học thực nghiệm để chứng minh những biến đổi địa chất, nên cho rằng đó là thiên tượng, từ đó mai rùa thường được coi là vật cần thiết để hạ quẻ. Tuy nhiên, môn dịch này cũng đã thất truyền. Cái dịch mà chúng ta biết ngày nay là Chu Dịch, bắt nguồn từ Văn Vương nhà Chu, khởi phát từ quẻ càn, tức là trời. Đây là môn dịch được coi hoàn chỉnh nhất.
Về các phương pháp của Dịch với dự đoán học. Thời Xuân Thu, Khổng Tử sử dụng cỏ thi để đoán dịch, đây là thời kỳ sơ khai của dịch với dự đoán, chưa hình thành nên các trường phái. Đến thời Tống, khi thiên văn, lý số thịnh hành, Thiệu Khang Tiết đưa ra Mai Hoa Dịch khi nhìn hoa mai rơi, dựa trên tượng số cũng như số Hà Lạc để hạ quẻ, các khái niệm Thể Dụng, Hỗ Biến là của Mai Hoa Dịch. Tuy nhiên, nhược điểm của Mai Hoa Dịch là chỉ có một hào động, một quẻ chỉ biến ra được 6 quẻ khác nên về mặt dự đoán, nó quá ít biến và dựa trên tượng là nhiều, không có cơ sở lý luận rõ ràng. Đến thời nhà Thanh, khi cơ sở lý luận thực tiễn rõ ràng, phương pháp chủ yếu là đoán quẻ lục hào, dựa trên sáu hào của một quẻ, an vào lục thân, lục thú, địa chi, thần sát. Một quẻ có thể có cả 6 hào cùng động, tạo nên 36 biến nên hệ thống lý luận dự đoán phong phú hơn. Dịch, áp dụng trong dự đoán, ở đây t dạy là lục hào.
Mục lục dạy
1. Cơ sở lý luận
- Thế nào là âm dương, thái cực
- Tứ tượng, ngũ hành học thuyết
- Hà Lạc, Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái. Tượng quẻ của Bát Quái.
2. Lục hào dự trắc
2.1 Cơ bản về lục hào
- Ngũ hành nạp âm, hỗn thiên giáp tý cục
- Nhật kiến, nguyệt kiến
- Lục thân chủ sự
- Lục thú chủ sự
- Thần sát chủ sự
- Ngũ hành chủ sự
- Hào vị chủ sự
- Địa chi lục hợp - tam hợp - tam hình - lục xung - lục hại - hợp hoá
2.2 Biến hoá và dự đoán
- Dụng thần, nguyên thần, kỵ thần, cừu thần, phi thần
- Thế nào là động, minh động, ám động, độc phát, độc tĩnh.
- Phản ngâm, phục ngâm, du hồn, quy hồn
- Cách sơn hoá hào, khắc sứ phùng sinh
- 12 trạng thái trường sinh.
- Ứng kỳ, thời gian phát sinh sự việc
- Nghiệm lý.
Sơ lược có vậy. Đây mới là góc độ dự đoán, còn về góc độ dự đoán được để hoá giải, sẽ yêu cầu học qua những thứ t nói trên mới học được cách hoá giải.
Viết đã dài, do t cũng bận công việc nên 1 tuần chỉ có thể dạy trong 2 post, thắc mắc thì t sẽ đọc sau, yên tâm là t đọc hết. Ai thực sự nghiêm túc với môn này thì để lại vodka cho t. Việc t dạy là tự tâm, kiến thức là của vũ trụ, nên có trách nhiệm hay k là ở chúng m.
I. MỞ ĐẦU VỀ DỊCH
Dịch là gì, có nhiều kiến giải khác nhau. Theo các nguồn định nghĩa từ google, đây là một trong ngũ kinh của tàu, kinh thư, kinh thi, kinh lễ, kinh dịch, kinh xuân thu. Nó là 5 cuốn kinh điển của nho giáo mà bất kỳ sĩ tử nào ngày xưa đi thi cũng phải nằm làu.
Vậy Dịch ở đây là gì. Dịch chỉ sự biến đổi, vạn vật đều do biến đổi mới thành hình. Khoa học hiện đại chứng minh, vật chất được tạo nên từ những phân tử chuyển động không ngừng, đây chính là hàm ý vạn vật luân chuyển tuần hoàn mà cổ nhân đã tìm ra trước cả khoa học hàng nghìn năm.
Chữ Dịch này, có ba cảnh giới sâu xa là Giản Dịch, Biến Dịch, và Bất Dịch. Giản là thuần nhất, bản nguyên, vạn vật dù khác nhau ở hình thái, hiện tượng, nhưng bản chất không hề thay đổi. Biến dịch là cái có sau khi Giản dịch hình thành, một bản chất, bản nguyên thì có muôn vạn biến hoá, và cuối cùng là Bất Dịch, bất ở đây là không, tức là khi mọi biến hoá đều xảy ra, đến một mức độ nào đấy, sự vật sẽ không tiến hoá nữa, mà sẽ quá độ về chất, tạo thành một bản chất mới, khi đó, nó lại quay về Giản Dịch.
Kinh Dịch là một cuốn sách nói nó dễ thì nó dễ, nói nó cả đời không hiểu thấu thì cả đời không hiểu thấu được. 64 quẻ bao hàm toàn bộ vạn vật, nhân sinh. Vậy nên nó được gọi là Thiên Thư 64 chữ.
Học dịch để làm gì : Học dịch, là để hiểu về bản chất, quy luật tuần hoàn của sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Khi hiểu dịch rõ ràng là như thế nào, cái có được từ dịch là định hướng bản ngã ra sao, chống lại quy luật hay thuận theo quy luật. Dự đoán học, chỉ là một khía cạnh vô cùng nhỏ của Dịch.
Tại sao Dịch lại áp dụng trong dự đoán học: Dự đoán, về bản chất là chính là nắm rõ quy luật của sự vật, hiện tượng để suy ra những kết quả tiếp theo theo mối quan hệ nhân quả. Vạn vật đều Dịch, biến nên trong vạn vật đều có dịch. Trong tháng năm, ngày giờ có dịch. Trong cành cây, hoa cỏ cũng có dịch. Mượn cái sự dịch trong vạn vật mà hiểu ra bản chất của mọi sự vật, hiện tượng, hiểu được bản chất rồi thì quy tắc sẽ tự khắc thấu triệt.
II. LỊCH SỬ CỦA DỊCH
Dịch xuất phát từ khi nào, không ai trả lời rõ được. Cho đến ngày nay, sử gia vẫn đang tìm câu trả lời. Theo huyền sử tàu, Dịch bắt nguồn từ Phục Hy. Phục Hy là một trong tam hoàng của huyền sử tàu, phục hy, nữ oa , thần nông. Về mặt huyền sử, nó là ghi chép truyền miệng nên không ai kiểm chứng xác đáng. Tuy nhiên, có thể lập luận rằng, Phục Hy, có thể coi là một trưởng bộ lạc của cổ đại, qua quan sát sự thay đổi của thiên tượng, thời tiết và chu kỳ biến đổi trong một năm, điều ảnh hưởng rất lớn đến mùa màng, khí hậu, trồng trọt cuae con người mà nhận ra quy luật biến đổi. Kết hợp thêm những quy tắc số học cổ đại của tàu là Hà Lạc mà hình thành nên 8 quẻ tiên thiên bát quái. Sau phục hy , đến thời văn vương, sự thay đổi, quy luật của dịch trên mặt đất được tìm hiểu, và hình thành nên hậu thiên bát quái. Đến thời khổng tử, lão truyền bá thêm nho đạo của lão vào dịch qua hào từ, thế nên mới có chu dịch như ngày nay.
Dịch thời nhà Hạ gọi là Liên Sơn, khởi phát từ quẻ cấn, tượng là dãy núi cao, đã thất truyền. Dịch thời nhà Thương gọi là Quy Tàng, khởi phát từ quẻ khôn, tức là đất. Rùa là vật có ẩn chứa cả hải khí và sơn khí. Người cổ đại đào được rất nhiều mai rùa trong lòng núi, tuy nhiên do không có khoa học thực nghiệm để chứng minh những biến đổi địa chất, nên cho rằng đó là thiên tượng, từ đó mai rùa thường được coi là vật cần thiết để hạ quẻ. Tuy nhiên, môn dịch này cũng đã thất truyền. Cái dịch mà chúng ta biết ngày nay là Chu Dịch, bắt nguồn từ Văn Vương nhà Chu, khởi phát từ quẻ càn, tức là trời. Đây là môn dịch được coi hoàn chỉnh nhất.
Về các phương pháp của Dịch với dự đoán học. Thời Xuân Thu, Khổng Tử sử dụng cỏ thi để đoán dịch, đây là thời kỳ sơ khai của dịch với dự đoán, chưa hình thành nên các trường phái. Đến thời Tống, khi thiên văn, lý số thịnh hành, Thiệu Khang Tiết đưa ra Mai Hoa Dịch khi nhìn hoa mai rơi, dựa trên tượng số cũng như số Hà Lạc để hạ quẻ, các khái niệm Thể Dụng, Hỗ Biến là của Mai Hoa Dịch. Tuy nhiên, nhược điểm của Mai Hoa Dịch là chỉ có một hào động, một quẻ chỉ biến ra được 6 quẻ khác nên về mặt dự đoán, nó quá ít biến và dựa trên tượng là nhiều, không có cơ sở lý luận rõ ràng. Đến thời nhà Thanh, khi cơ sở lý luận thực tiễn rõ ràng, phương pháp chủ yếu là đoán quẻ lục hào, dựa trên sáu hào của một quẻ, an vào lục thân, lục thú, địa chi, thần sát. Một quẻ có thể có cả 6 hào cùng động, tạo nên 36 biến nên hệ thống lý luận dự đoán phong phú hơn. Dịch, áp dụng trong dự đoán, ở đây t dạy là lục hào.
Mục lục dạy
1. Cơ sở lý luận
- Thế nào là âm dương, thái cực
- Tứ tượng, ngũ hành học thuyết
- Hà Lạc, Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái. Tượng quẻ của Bát Quái.
2. Lục hào dự trắc
2.1 Cơ bản về lục hào
- Ngũ hành nạp âm, hỗn thiên giáp tý cục
- Nhật kiến, nguyệt kiến
- Lục thân chủ sự
- Lục thú chủ sự
- Thần sát chủ sự
- Ngũ hành chủ sự
- Hào vị chủ sự
- Địa chi lục hợp - tam hợp - tam hình - lục xung - lục hại - hợp hoá
2.2 Biến hoá và dự đoán
- Dụng thần, nguyên thần, kỵ thần, cừu thần, phi thần
- Thế nào là động, minh động, ám động, độc phát, độc tĩnh.
- Phản ngâm, phục ngâm, du hồn, quy hồn
- Cách sơn hoá hào, khắc sứ phùng sinh
- 12 trạng thái trường sinh.
- Ứng kỳ, thời gian phát sinh sự việc
- Nghiệm lý.
Sơ lược có vậy. Đây mới là góc độ dự đoán, còn về góc độ dự đoán được để hoá giải, sẽ yêu cầu học qua những thứ t nói trên mới học được cách hoá giải.
Viết đã dài, do t cũng bận công việc nên 1 tuần chỉ có thể dạy trong 2 post, thắc mắc thì t sẽ đọc sau, yên tâm là t đọc hết. Ai thực sự nghiêm túc với môn này thì để lại vodka cho t. Việc t dạy là tự tâm, kiến thức là của vũ trụ, nên có trách nhiệm hay k là ở chúng m.