• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Topic về kinh dịch. Nghiêm túc cho ai muốn tìm hiểu sâu bộ môn này để ứng dụng vào cuộc sống.

Bản thân tao bỗ bã, nên là cái đầu tiên phải nói, là không nên mong đợi cái sự lịch sự không cần thiết. Ở đây thẳng nhưng thật. Đạo của mỗi người khác nhau. Học dịch là để hiểu đạo, k có cái nào đúng tuyệt đối và cũng không có cái nào sai hoàn toàn. T k nhận là quân tử, cũng chẳng phải tiểu nhân. T tin nhân quả nên hành động theo nhân quả, k thẹn với bản thân tao là được.

I. MỞ ĐẦU VỀ DỊCH
Dịch là gì, có nhiều kiến giải khác nhau. Theo các nguồn định nghĩa từ google, đây là một trong ngũ kinh của tàu, kinh thư, kinh thi, kinh lễ, kinh dịch, kinh xuân thu. Nó là 5 cuốn kinh điển của nho giáo mà bất kỳ sĩ tử nào ngày xưa đi thi cũng phải nằm làu.
Vậy Dịch ở đây là gì. Dịch chỉ sự biến đổi, vạn vật đều do biến đổi mới thành hình. Khoa học hiện đại chứng minh, vật chất được tạo nên từ những phân tử chuyển động không ngừng, đây chính là hàm ý vạn vật luân chuyển tuần hoàn mà cổ nhân đã tìm ra trước cả khoa học hàng nghìn năm.
Chữ Dịch này, có ba cảnh giới sâu xa là Giản Dịch, Biến Dịch, và Bất Dịch. Giản là thuần nhất, bản nguyên, vạn vật dù khác nhau ở hình thái, hiện tượng, nhưng bản chất không hề thay đổi. Biến dịch là cái có sau khi Giản dịch hình thành, một bản chất, bản nguyên thì có muôn vạn biến hoá, và cuối cùng là Bất Dịch, bất ở đây là không, tức là khi mọi biến hoá đều xảy ra, đến một mức độ nào đấy, sự vật sẽ không tiến hoá nữa, mà sẽ quá độ về chất, tạo thành một bản chất mới, khi đó, nó lại quay về Giản Dịch.
Kinh Dịch là một cuốn sách nói nó dễ thì nó dễ, nói nó cả đời không hiểu thấu thì cả đời không hiểu thấu được. 64 quẻ bao hàm toàn bộ vạn vật, nhân sinh. Vậy nên nó được gọi là Thiên Thư 64 chữ.

Học dịch để làm gì : Học dịch, là để hiểu về bản chất, quy luật tuần hoàn của sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Khi hiểu dịch rõ ràng là như thế nào, cái có được từ dịch là định hướng bản ngã ra sao, chống lại quy luật hay thuận theo quy luật. Dự đoán học, chỉ là một khía cạnh vô cùng nhỏ của Dịch.

Tại sao Dịch lại áp dụng trong dự đoán học: Dự đoán, về bản chất là chính là nắm rõ quy luật của sự vật, hiện tượng để suy ra những kết quả tiếp theo theo mối quan hệ nhân quả. Vạn vật đều Dịch, biến nên trong vạn vật đều có dịch. Trong tháng năm, ngày giờ có dịch. Trong cành cây, hoa cỏ cũng có dịch. Mượn cái sự dịch trong vạn vật mà hiểu ra bản chất của mọi sự vật, hiện tượng, hiểu được bản chất rồi thì quy tắc sẽ tự khắc thấu triệt.

II. LỊCH SỬ CỦA DỊCH

Dịch xuất phát từ khi nào, không ai trả lời rõ được. Cho đến ngày nay, sử gia vẫn đang tìm câu trả lời. Theo huyền sử tàu, Dịch bắt nguồn từ Phục Hy. Phục Hy là một trong tam hoàng của huyền sử tàu, phục hy, nữ oa , thần nông. Về mặt huyền sử, nó là ghi chép truyền miệng nên không ai kiểm chứng xác đáng. Tuy nhiên, có thể lập luận rằng, Phục Hy, có thể coi là một trưởng bộ lạc của cổ đại, qua quan sát sự thay đổi của thiên tượng, thời tiết và chu kỳ biến đổi trong một năm, điều ảnh hưởng rất lớn đến mùa màng, khí hậu, trồng trọt cuae con người mà nhận ra quy luật biến đổi. Kết hợp thêm những quy tắc số học cổ đại của tàu là Hà Lạc mà hình thành nên 8 quẻ tiên thiên bát quái. Sau phục hy , đến thời văn vương, sự thay đổi, quy luật của dịch trên mặt đất được tìm hiểu, và hình thành nên hậu thiên bát quái. Đến thời khổng tử, lão truyền bá thêm nho đạo của lão vào dịch qua hào từ, thế nên mới có chu dịch như ngày nay.
Dịch thời nhà Hạ gọi là Liên Sơn, khởi phát từ quẻ cấn, tượng là dãy núi cao, đã thất truyền. Dịch thời nhà Thương gọi là Quy Tàng, khởi phát từ quẻ khôn, tức là đất. Rùa là vật có ẩn chứa cả hải khí và sơn khí. Người cổ đại đào được rất nhiều mai rùa trong lòng núi, tuy nhiên do không có khoa học thực nghiệm để chứng minh những biến đổi địa chất, nên cho rằng đó là thiên tượng, từ đó mai rùa thường được coi là vật cần thiết để hạ quẻ. Tuy nhiên, môn dịch này cũng đã thất truyền. Cái dịch mà chúng ta biết ngày nay là Chu Dịch, bắt nguồn từ Văn Vương nhà Chu, khởi phát từ quẻ càn, tức là trời. Đây là môn dịch được coi hoàn chỉnh nhất.

Về các phương pháp của Dịch với dự đoán học. Thời Xuân Thu, Khổng Tử sử dụng cỏ thi để đoán dịch, đây là thời kỳ sơ khai của dịch với dự đoán, chưa hình thành nên các trường phái. Đến thời Tống, khi thiên văn, lý số thịnh hành, Thiệu Khang Tiết đưa ra Mai Hoa Dịch khi nhìn hoa mai rơi, dựa trên tượng số cũng như số Hà Lạc để hạ quẻ, các khái niệm Thể Dụng, Hỗ Biến là của Mai Hoa Dịch. Tuy nhiên, nhược điểm của Mai Hoa Dịch là chỉ có một hào động, một quẻ chỉ biến ra được 6 quẻ khác nên về mặt dự đoán, nó quá ít biến và dựa trên tượng là nhiều, không có cơ sở lý luận rõ ràng. Đến thời nhà Thanh, khi cơ sở lý luận thực tiễn rõ ràng, phương pháp chủ yếu là đoán quẻ lục hào, dựa trên sáu hào của một quẻ, an vào lục thân, lục thú, địa chi, thần sát. Một quẻ có thể có cả 6 hào cùng động, tạo nên 36 biến nên hệ thống lý luận dự đoán phong phú hơn. Dịch, áp dụng trong dự đoán, ở đây t dạy là lục hào.

Mục lục dạy
1. Cơ sở lý luận
- Thế nào là âm dương, thái cực
- Tứ tượng, ngũ hành học thuyết
- Hà Lạc, Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái. Tượng quẻ của Bát Quái.
2. Lục hào dự trắc
2.1 Cơ bản về lục hào
- Ngũ hành nạp âm, hỗn thiên giáp tý cục
- Nhật kiến, nguyệt kiến
- Lục thân chủ sự
- Lục thú chủ sự
- Thần sát chủ sự
- Ngũ hành chủ sự
- Hào vị chủ sự
- Địa chi lục hợp - tam hợp - tam hình - lục xung - lục hại - hợp hoá
2.2 Biến hoá và dự đoán
- Dụng thần, nguyên thần, kỵ thần, cừu thần, phi thần
- Thế nào là động, minh động, ám động, độc phát, độc tĩnh.
- Phản ngâm, phục ngâm, du hồn, quy hồn
- Cách sơn hoá hào, khắc sứ phùng sinh
- 12 trạng thái trường sinh.
- Ứng kỳ, thời gian phát sinh sự việc
- Nghiệm lý.

Sơ lược có vậy. Đây mới là góc độ dự đoán, còn về góc độ dự đoán được để hoá giải, sẽ yêu cầu học qua những thứ t nói trên mới học được cách hoá giải.

Viết đã dài, do t cũng bận công việc nên 1 tuần chỉ có thể dạy trong 2 post, thắc mắc thì t sẽ đọc sau, yên tâm là t đọc hết. Ai thực sự nghiêm túc với môn này thì để lại vodka cho t. Việc t dạy là tự tâm, kiến thức là của vũ trụ, nên có trách nhiệm hay k là ở chúng m.
 
Ra bài tiếp đi m, vodka cho m :)) t nghĩ cái này sẽ giúp ích nhiều vào cuộc sống
 
Mà m theo bộ môn này đến level nào r? M đã học hết toàn bộ kiến thức bộ môn này chưa :v
T k nhận đã học sâu, hay học hết, vì học là cả đời, nhưng t đã dùng nó để giúp đời giúp ng, đôi khi cả bản thân t. Level thì t chắc nhiều ng k biết tao, vài ng lâu lâu ở trong giới thì biết thôi, giờ đội trẻ mới thì chắc cũng k biết t tại t nghỉ xem được 2 năm rồi. t sống lowkey, nhưng 2019 thì t bị ban hết từ trong ra ngoài ở cái nhóm dẩm kinh dịch hội của sơn vũ và đỗ vượng trong khi t k gạ ai ib trước 1 đồng phí, c nó tưởng t đá bát cơm c nó :))
Tối nay muộn muộn t dạy bài 1
 
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN

Trước khi đi vào phần này, lớp học có yêu cầu học liệu. Các mày lên google download quyển tăng san bốc dịch về. Có PDF free, cũng là để tăng tính tự giác cho các mày. Tuy nhiên, đây là học liệu, ko phải sách giáo khoa vì trong này viết rất nhiều lỗi và sạn. Nên để tham khảo. Bản thân những cái t dạy là đúc kết từ nhiều sách, và kinh nghiệm của t nữa. Nên cuốn đó là học liệu cho các ví dụ cụ thể, dựa theo sườn của t thiết kế cho, tránh đọc sách sai dẫn tẩu hoả nhập ma, sai gốc.
Oke sơ lược đủ rồi
BÀI 1: HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
Vũ trụ, trước kia hình thành là một thể hỗn độn. Trong rất nhiều truyện cổ tích, hay truyền thuyết cũng đã đề cập đến vấn đề này. Như truyện bàn cổ khai thiên lập địa ở tàu, hay các tôn giáo cũng có đề cập như đạo phật, đạo thiên chúa. Điều này cho thấy nhận thức rõ ràng của người xưa về sự hỗn độn, hỗn mang rồi mới hình thành quy tắc. Khoa học hiện đại cũng đã đưa ra luận điểm về việc vũ trụ hình thành dựa trên thuyết big bang, sau đó mới sinh ra proton (+) và electron (-), cấu nên các nguyên tử và phân tử rồi thành vạn vật. Từ đó, học thuyết âm dương được nhận thức theo rất nhiều hình thức khác nhau.

Học thuyết Âm Dương được đưa ra với hai luận điểm.
- Vạn vật đều được chia thành Âm và Dương, hai thứ này luôn luôn có quá trình đối lập, nhưng lại vừa hỗ trợ nhau.
- Nguyên lý vật cực tất phản : Khi một trạng thái đạt đến cực thịnh mà không có gì để chế ngự, nó sẽ biến thành trạng thái ngược lại. Nhìn vào đồ hình xoáy âm dương, sẽ hiểu tại sao hai phần đen và trắng, ở góc đỉnh mỗi phần lại tồn tại một chấm trắng và đen. Nguyên lý vật cực tất phản hiện hữu trong mọi vật, cái gì tốt quá thì chưa chắc là tốt, cái gì xấu quá thì chưa chắc đã là xấu, vì chúng luôn biến đổi
=> Học thuyết âm dương, mô tả hai trạng thái bản nguyên nhất của sự vật, hiện tượng, luôn tồn tại song song và đối nghịch nhau, thế nhưng, trong quá trình đối nghịch đó, chúng nó có quá trình tương hỗ và chuyển hoá thành trạng thái ngược lại. Thế nên, cái mà cổ nhân luôn muốn hướng tới chính là đạt được sự cân bằng, hoà hợp của hai trạng thái này. Tuy nhiên, điều này gần như không thể mà chỉ là giảm thiểu sự biến đổi đến mức nhỏ nhất, khiến cho quá trình biến đổi chậm lại, và tiệm cận tới cân bằng hoàn hảo.

Nguyên lý vật cực tất phản áp dụng ở một cách thực tế hơn, đấy chính là việc chọn trang sức phong thuỷ, vật phẩm cải mệnh. Xưa nay nhiều người cứ nghĩ mệnh thuỷ thì bổ thuỷ, mệnh kim thì kiến kim mà không hề hiểu rõ lợi bất cập hại. Trong bản thân mỗi người, luôn tồn tại âm dương ngũ hành, tuy nhiên trọng số của mỗi người lại khác nhau, không ai giống ai cả. Có người mệnh kim nhưng là khuyết kim, có người mệnh kim nhưng lại là dư kim. Việc chọn trang sức phong thuỷ, mục đích chính là hướng tới sự cân bằng, hoà hợp chứ không phải để hỗ trợ một phần nào đó của bản thân.

Do đó, bộ môn Bát Tự được sinh ra. T sẽ k nói sâu về bộ môn này. Âm Dương, Ngũ Hành của con người được tính toán dựa trên tất cả các thông tin về người đó, năm tháng ngày giờ. Đây là cái tiên thiên. Về Ngũ Hành, t sẽ giảng kỹ ở bài sau.

Chuyện vợ chồng hợp hay không hợp tuổi, hoặc chồng kim vợ mộc , làm kim khắc mộc, chồng khắc vợ, cái đấy là cái xạo loz của mấy ông thầy lý số trước năm 75 ở trong nam. Thời đó, sách vở hiếm nên đa phần cũng toàn sách lậu của các thầy tàu về. Những sách lậu đấy vô hình chung, tạo nên một nền tảng ý thức hệ vô cùng phiến diện, khiến cho bao gia đình , bao đôi trai gái dang dở vì cái định kiến tuổi tác đấy.
Vợ chồng hợp nhau hay không, tất cả là do duyên, thế giới không phải do đấng sáng tạo nào tạo ra, mà hình thành nên bởi nhân và quả. Nhân , quả nối với nhau bởi chữ duyên. Cũng như trạng thái hỗn độn là nhân, sinh ra thái cực là quả. Khổ ải không phải do ai ban cho, không phải tại số, mà là khổ ải do bản thân, tự bản thân tạo nên nhân quả. Nhân Quả, cũng như hai trạng thái lưỡng cực, luôn biến đổi tuần hoàn, Nhân của việc này là quả của việc khác, quả của việc khác lại là nhân của một việc khác nữa. Những vòng tuần hoàn này nối với nhau như những mắt xích, dệt nên tấm lưới bao phủ cả thế giới này. Nhân tốt, duyên sẽ dẫn đến quả tốt, nhân tệ, duyên sẽ dẫn đến quả tệ. Do đó, trước khi hành động bất kỳ điều gì, hãy suy nghĩ về nhân quả của nó, và nếu nó xảy ra, thì là tốt hay là xấu với bản thân.

Âm dương tồn tại trong vạn vật: nóng lạnh, sáng tối, đàn ông đàn bà, cứng mềm, ... Bất kỳ cặp phạm trù đối lập nào cũng là âm dương.

Phục hy, đã lấy vạch để biểu thị hai trạng thái này, tương tự như mã nhị phân là 0 và 1, nó gọi là "hào". Hào dương gồm một vạch (-), hào âm gồm hai vạch (--). Do đó số lẻ , tượng trưng cho dương, số chẵn, tượng trưng cho âm. Đây là lý do tại sao bàn thờ thì số nén nhang nên thắp là số lẻ. Gia tiên là thuộc về âm, số nén nhang lẻ là dương, mục đích chính là tạo sự hoà hợp cân bằng.

Về quá trình biến đổi Âm Dương này như thế nào, bài sau sẽ học. Nó gọi là Tứ Tượng.

Có câu hỏi nào khó, cứ thắc mắc luôn ở đây. Bài 1 hết.
 
E
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN

Trước khi đi vào phần này, lớp học có yêu cầu học liệu. Các mày lên google download quyển tăng san bốc dịch về. Có PDF free, cũng là để tăng tính tự giác cho các mày. Tuy nhiên, đây là học liệu, ko phải sách giáo khoa vì trong này viết rất nhiều lỗi và sạn. Nên để tham khảo. Bản thân những cái t dạy là đúc kết từ nhiều sách, và kinh nghiệm của t nữa. Nên cuốn đó là học liệu cho các ví dụ cụ thể, dựa theo sườn của t thiết kế cho, tránh đọc sách sai dẫn tẩu hoả nhập ma, sai gốc.
Oke sơ lược đủ rồi
BÀI 1: HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
Vũ trụ, trước kia hình thành là một thể hỗn độn. Trong rất nhiều truyện cổ tích, hay truyền thuyết cũng đã đề cập đến vấn đề này. Như truyện bàn cổ khai thiên lập địa ở tàu, hay các tôn giáo cũng có đề cập như đạo phật, đạo thiên chúa. Điều này cho thấy nhận thức rõ ràng của người xưa về sự hỗn độn, hỗn mang rồi mới hình thành quy tắc. Khoa học hiện đại cũng đã đưa ra luận điểm về việc vũ trụ hình thành dựa trên thuyết big bang, sau đó mới sinh ra proton (+) và electron (-), cấu nên các nguyên tử và phân tử rồi thành vạn vật. Từ đó, học thuyết âm dương được nhận thức theo rất nhiều hình thức khác nhau.

Học thuyết Âm Dương được đưa ra với hai luận điểm.
- Vạn vật đều được chia thành Âm và Dương, hai thứ này luôn luôn có quá trình đối lập, nhưng lại vừa hỗ trợ nhau.
- Nguyên lý vật cực tất phản : Khi một trạng thái đạt đến cực thịnh mà không có gì để chế ngự, nó sẽ biến thành trạng thái ngược lại. Nhìn vào đồ hình xoáy âm dương, sẽ hiểu tại sao hai phần đen và trắng, ở góc đỉnh mỗi phần lại tồn tại một chấm trắng và đen. Nguyên lý vật cực tất phản hiện hữu trong mọi vật, cái gì tốt quá thì chưa chắc là tốt, cái gì xấu quá thì chưa chắc đã là xấu, vì chúng luôn biến đổi
=> Học thuyết âm dương, mô tả hai trạng thái bản nguyên nhất của sự vật, hiện tượng, luôn tồn tại song song và đối nghịch nhau, thế nhưng, trong quá trình đối nghịch đó, chúng nó có quá trình tương hỗ và chuyển hoá thành trạng thái ngược lại. Thế nên, cái mà cổ nhân luôn muốn hướng tới chính là đạt được sự cân bằng, hoà hợp của hai trạng thái này. Tuy nhiên, điều này gần như không thể mà chỉ là giảm thiểu sự biến đổi đến mức nhỏ nhất, khiến cho quá trình biến đổi chậm lại, và tiệm cận tới cân bằng hoàn hảo.

Nguyên lý vật cực tất phản áp dụng ở một cách thực tế hơn, đấy chính là việc chọn trang sức phong thuỷ, vật phẩm cải mệnh. Xưa nay nhiều người cứ nghĩ mệnh thuỷ thì bổ thuỷ, mệnh kim thì kiến kim mà không hề hiểu rõ lợi bất cập hại. Trong bản thân mỗi người, luôn tồn tại âm dương ngũ hành, tuy nhiên trọng số của mỗi người lại khác nhau, không ai giống ai cả. Có người mệnh kim nhưng là khuyết kim, có người mệnh kim nhưng lại là dư kim. Việc chọn trang sức phong thuỷ, mục đích chính là hướng tới sự cân bằng, hoà hợp chứ không phải để hỗ trợ một phần nào đó của bản thân.

Do đó, bộ môn Bát Tự được sinh ra. T sẽ k nói sâu về bộ môn này. Âm Dương, Ngũ Hành của con người được tính toán dựa trên tất cả các thông tin về người đó, năm tháng ngày giờ. Đây là cái tiên thiên. Về Ngũ Hành, t sẽ giảng kỹ ở bài sau.

Chuyện vợ chồng hợp hay không hợp tuổi, hoặc chồng kim vợ mộc , làm kim khắc mộc, chồng khắc vợ, cái đấy là cái xạo loz của mấy ông thầy lý số trước năm 75 ở trong nam. Thời đó, sách vở hiếm nên đa phần cũng toàn sách lậu của các thầy tàu về. Những sách lậu đấy vô hình chung, tạo nên một nền tảng ý thức hệ vô cùng phiến diện, khiến cho bao gia đình , bao đôi trai gái dang dở vì cái định kiến tuổi tác đấy.
Vợ chồng hợp nhau hay không, tất cả là do duyên, thế giới không phải do đấng sáng tạo nào tạo ra, mà hình thành nên bởi nhân và quả. Nhân , quả nối với nhau bởi chữ duyên. Cũng như trạng thái hỗn độn là nhân, sinh ra thái cực là quả. Khổ ải không phải do ai ban cho, không phải tại số, mà là khổ ải do bản thân, tự bản thân tạo nên nhân quả. Nhân Quả, cũng như hai trạng thái lưỡng cực, luôn biến đổi tuần hoàn, Nhân của việc này là quả của việc khác, quả của việc khác lại là nhân của một việc khác nữa. Những vòng tuần hoàn này nối với nhau như những mắt xích, dệt nên tấm lưới bao phủ cả thế giới này. Nhân tốt, duyên sẽ dẫn đến quả tốt, nhân tệ, duyên sẽ dẫn đến quả tệ. Do đó, trước khi hành động bất kỳ điều gì, hãy suy nghĩ về nhân quả của nó, và nếu nó xảy ra, thì là tốt hay là xấu với bản thân.

Âm dương tồn tại trong vạn vật: nóng lạnh, sáng tối, đàn ông đàn bà, cứng mềm, ... Bất kỳ cặp phạm trù đối lập nào cũng là âm dương.

Phục hy, đã lấy vạch để biểu thị hai trạng thái này, tương tự như mã nhị phân là 0 và 1, nó gọi là "hào". Hào dương gồm một vạch (-), hào âm gồm hai vạch (--). Do đó số lẻ , tượng trưng cho dương, số chẵn, tượng trưng cho âm. Đây là lý do tại sao bàn thờ thì số nén nhang nên thắp là số lẻ. Gia tiên là thuộc về âm, số nén nhang lẻ là dương, mục đích chính là tạo sự hoà hợp cân bằng.

Về quá trình biến đổi Âm Dương này như thế nào, bài sau sẽ học. Nó gọi là Tứ Tượng.

Có câu hỏi nào khó, cứ thắc mắc luôn ở đây. Bài 1 hết.
E có thắc mắc về khắc của ngũ hành, nhưng mà chắc đợi bác ra bài sau sẽ có nhiều thông tin hơn
 
Ủng hộ thớt. Từ phần I MỞ ĐẦU VỀ DỊCH đến hết phần II (ko kể tiểu mục bên dưới) là m copy ở đâu hay tự tổng hợp và biên soạn lại vậy?
 
Bác có sách hay tài liệu gì thì nhắn để ae rảnh tham khảo luôn. Xong cũng dễ nắm bắt đc những gì bác truyền đạt hơn
 
Ủng hộ thớt. Từ phần I MỞ ĐẦU VỀ DỊCH đến hết phần II (ko kể tiểu mục bên dưới) là m copy ở đâu hay tự tổng hợp và biên soạn lại vậy?
T tự tổng hợp thôi, phong cách t dạy là k sách giáo khoa, hiểu đâu nói đó :))
 
Phụ lục:
Về sách vở, các mày có thể tìm 2 cuốn chu dịch với dự đoán học của thiệu vĩ hoa và tăng san bốc dịch của dạ hạc lão nhân. Về quyển chu dịch và dự đoán, quyển này giải thích dễ hiểu, cơ bản với người học dịch. Tuy nhiên lý luận dịch của thiệu vĩ hoa bị ảnh hưởng bởi lão phối quá nhiều về cách luận của bát tự tứ trụ vào, nên sẽ bị sai lệch căn nguyên của dịch. Về cuốn tăng san bốc dịch, cuốn đó là nền tảng của việc chiêm bốc và học lục hào. Tuy nhiên lão dã hạc viết rất nhiều sạn, và hơi gây khó hiểu cũng như sai nhiều tiểu tiết. Do đó, đọc 2 cuốn này để tham khảo, không phải để coi như làm sách giáo khoa.
Cuốn chu dịch của nguyễn hiến lê thì nó ở phạm trù khác, không thuộc về dự đoán học mà nó thuộc về góc độ "đạo" nhiều hơn. Nhân sinh, triết lý trong cuốn đó nặng hơn nên nếu muốn cảm ngộ về đạo nhiều thì có thể đọc cuốn đó. Ở đây, dự đoán học là một khía cạnh nhỏ của dịch. Dịch chứa trong vạn vật, nên vạn vật đều có thể ứng dụng Dịch. Kinh doanh, quân sự, lý thuyết đông y, ... đều có thể áp dụng dịch lý vào.

T lười ném link sách nên chúng m tự giác google search tài liệu nha. Free hết, pdf rất nhiều. Ra hiệu sách thì hai cuốn đó cũng bán đầy ra :))
 
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN

Trước khi đi vào phần này, lớp học có yêu cầu học liệu. Các mày lên google download quyển tăng san bốc dịch về. Có PDF free, cũng là để tăng tính tự giác cho các mày. Tuy nhiên, đây là học liệu, ko phải sách giáo khoa vì trong này viết rất nhiều lỗi và sạn. Nên để tham khảo. Bản thân những cái t dạy là đúc kết từ nhiều sách, và kinh nghiệm của t nữa. Nên cuốn đó là học liệu cho các ví dụ cụ thể, dựa theo sườn của t thiết kế cho, tránh đọc sách sai dẫn tẩu hoả nhập ma, sai gốc.
Oke sơ lược đủ rồi
BÀI 1: HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
Vũ trụ, trước kia hình thành là một thể hỗn độn. Trong rất nhiều truyện cổ tích, hay truyền thuyết cũng đã đề cập đến vấn đề này. Như truyện bàn cổ khai thiên lập địa ở tàu, hay các tôn giáo cũng có đề cập như đạo phật, đạo thiên chúa. Điều này cho thấy nhận thức rõ ràng của người xưa về sự hỗn độn, hỗn mang rồi mới hình thành quy tắc. Khoa học hiện đại cũng đã đưa ra luận điểm về việc vũ trụ hình thành dựa trên thuyết big bang, sau đó mới sinh ra proton (+) và electron (-), cấu nên các nguyên tử và phân tử rồi thành vạn vật. Từ đó, học thuyết âm dương được nhận thức theo rất nhiều hình thức khác nhau.

Học thuyết Âm Dương được đưa ra với hai luận điểm.
- Vạn vật đều được chia thành Âm và Dương, hai thứ này luôn luôn có quá trình đối lập, nhưng lại vừa hỗ trợ nhau.
- Nguyên lý vật cực tất phản : Khi một trạng thái đạt đến cực thịnh mà không có gì để chế ngự, nó sẽ biến thành trạng thái ngược lại. Nhìn vào đồ hình xoáy âm dương, sẽ hiểu tại sao hai phần đen và trắng, ở góc đỉnh mỗi phần lại tồn tại một chấm trắng và đen. Nguyên lý vật cực tất phản hiện hữu trong mọi vật, cái gì tốt quá thì chưa chắc là tốt, cái gì xấu quá thì chưa chắc đã là xấu, vì chúng luôn biến đổi
=> Học thuyết âm dương, mô tả hai trạng thái bản nguyên nhất của sự vật, hiện tượng, luôn tồn tại song song và đối nghịch nhau, thế nhưng, trong quá trình đối nghịch đó, chúng nó có quá trình tương hỗ và chuyển hoá thành trạng thái ngược lại. Thế nên, cái mà cổ nhân luôn muốn hướng tới chính là đạt được sự cân bằng, hoà hợp của hai trạng thái này. Tuy nhiên, điều này gần như không thể mà chỉ là giảm thiểu sự biến đổi đến mức nhỏ nhất, khiến cho quá trình biến đổi chậm lại, và tiệm cận tới cân bằng hoàn hảo.

Nguyên lý vật cực tất phản áp dụng ở một cách thực tế hơn, đấy chính là việc chọn trang sức phong thuỷ, vật phẩm cải mệnh. Xưa nay nhiều người cứ nghĩ mệnh thuỷ thì bổ thuỷ, mệnh kim thì kiến kim mà không hề hiểu rõ lợi bất cập hại. Trong bản thân mỗi người, luôn tồn tại âm dương ngũ hành, tuy nhiên trọng số của mỗi người lại khác nhau, không ai giống ai cả. Có người mệnh kim nhưng là khuyết kim, có người mệnh kim nhưng lại là dư kim. Việc chọn trang sức phong thuỷ, mục đích chính là hướng tới sự cân bằng, hoà hợp chứ không phải để hỗ trợ một phần nào đó của bản thân.

Do đó, bộ môn Bát Tự được sinh ra. T sẽ k nói sâu về bộ môn này. Âm Dương, Ngũ Hành của con người được tính toán dựa trên tất cả các thông tin về người đó, năm tháng ngày giờ. Đây là cái tiên thiên. Về Ngũ Hành, t sẽ giảng kỹ ở bài sau.

Chuyện vợ chồng hợp hay không hợp tuổi, hoặc chồng kim vợ mộc , làm kim khắc mộc, chồng khắc vợ, cái đấy là cái xạo loz của mấy ông thầy lý số trước năm 75 ở trong nam. Thời đó, sách vở hiếm nên đa phần cũng toàn sách lậu của các thầy tàu về. Những sách lậu đấy vô hình chung, tạo nên một nền tảng ý thức hệ vô cùng phiến diện, khiến cho bao gia đình , bao đôi trai gái dang dở vì cái định kiến tuổi tác đấy.
Vợ chồng hợp nhau hay không, tất cả là do duyên, thế giới không phải do đấng sáng tạo nào tạo ra, mà hình thành nên bởi nhân và quả. Nhân , quả nối với nhau bởi chữ duyên. Cũng như trạng thái hỗn độn là nhân, sinh ra thái cực là quả. Khổ ải không phải do ai ban cho, không phải tại số, mà là khổ ải do bản thân, tự bản thân tạo nên nhân quả. Nhân Quả, cũng như hai trạng thái lưỡng cực, luôn biến đổi tuần hoàn, Nhân của việc này là quả của việc khác, quả của việc khác lại là nhân của một việc khác nữa. Những vòng tuần hoàn này nối với nhau như những mắt xích, dệt nên tấm lưới bao phủ cả thế giới này. Nhân tốt, duyên sẽ dẫn đến quả tốt, nhân tệ, duyên sẽ dẫn đến quả tệ. Do đó, trước khi hành động bất kỳ điều gì, hãy suy nghĩ về nhân quả của nó, và nếu nó xảy ra, thì là tốt hay là xấu với bản thân.

Âm dương tồn tại trong vạn vật: nóng lạnh, sáng tối, đàn ông đàn bà, cứng mềm, ... Bất kỳ cặp phạm trù đối lập nào cũng là âm dương.

Phục hy, đã lấy vạch để biểu thị hai trạng thái này, tương tự như mã nhị phân là 0 và 1, nó gọi là "hào". Hào dương gồm một vạch (-), hào âm gồm hai vạch (--). Do đó số lẻ , tượng trưng cho dương, số chẵn, tượng trưng cho âm. Đây là lý do tại sao bàn thờ thì số nén nhang nên thắp là số lẻ. Gia tiên là thuộc về âm, số nén nhang lẻ là dương, mục đích chính là tạo sự hoà hợp cân bằng.

Về quá trình biến đổi Âm Dương này như thế nào, bài sau sẽ học. Nó gọi là Tứ Tượng.

Có câu hỏi nào khó, cứ thắc mắc luôn ở đây. Bài 1 hết.
Âm dương thì dễ hiểu và dễ giải thích (nhưng vẫn không phải kín kẽ đâu).
Nhưng ngũ hành thì có quá nhiều thắc mắc và không thấy ai giải thích thuyết phục cả. M có thể giải thích không?
Ngoài ra thì t thấy giả sử KD đúng nhưng lại chưa thấy ai đủ năng lực thực để chứng minh là KD đúng cả, toàn "truyền thuyết" hơn là người thật việc thật.
 
A16E2EB0-B3EA-4232-B9BF-CC0AD09ACD7B.pngÂm dương thì dễ hiểu và dễ giải thích (nhưng vẫn không phải kín kẽ đâu).
Nhưng ngũ hành thì có quá nhiều thắc mắc và không thấy ai giải thích thuyết phục cả. M có thể giải thích không?
Ngoài ra thì t thấy giả sử KD đúng nhưng lại chưa thấy ai đủ năng lực thực để chứng minh là KD đúng cả, toàn "truyền thuyết" hơn là người thật việc thật.
Mỗi người có một quan điểm luận và cách thức luận khác nhau. Nếu m đọc thì m hiểu đấy là biến dịch như t viết ở đầu. Mục đích t dạy cũng là đưa ra con đường để các m hiểu về bản nguyên, giản dịch. Nếu nghiêm túc thì sách vở sẽ cung cấp rất nhiều cách luận.
Về người thật việc thật, t cũng k ngại public. Tuy nhiên thì t chia sẻ bằng tâm t, phi lợi nhuận. Ai có vấn đề riêng tư thì có thể hộp t trên này, còn thắc mắc thì cứ ở post này là được. T k để lại số zalo đâu.
Kiến giải về ngũ hành, bài sau t sẽ dạy đầy đủ
 
Top