• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý XAMVN Originals | Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra - Mạnh nhất): Nguồn gốc, giáo lý, Bản chất và Vị trí của Tâm, Ma trận của Như Lai 🕉️ (P1/2)

Giới thiệu

Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) là một cuốn sách hướng dẫn toàn diện của Phật giáo Đại thừa, đưa người đọc đến với sự giác ngộ tâm linh theo con đường được mô tả trong những giáo lý cao cấp nhất của Đức Phật Thích Ca.
Nó trình bày đầy đủ chi tiết những hiểu biết, thực tập và những cạm bẫy mà các vị Bồ Tát nhiệt thành phải ý thức rõ khi bước đi trên con đường này. Bởi vì tính thực tế và triệt để của nó, đây thường là văn bản quan trọng đầu tiên mà các nhà sư Thiền tông (Chan/Zen) mới xuất gia được yêu cầu học tập ở Trung Quốc thời Trung cổ và đầu Cận đại. Kinh này ít được biết đến ở phương Tây hơn các kinh Đại thừa khác bởi nó rất khó hiểu nếu không có một vị thầy giỏi, chỉ có các bản dịch chưa hoàn thiện và không đạt tiêu chuẩn của bộ kinh sang các ngôn ngữ phương Tây lưu hành cho đến hiện nay, tính xác thực của nó gây nhiều tranh cãi, và nó rất dài và thiếu hình ảnh lôi cuốn như trong các kinh Đại thừa dài khác, chẳng hạn như Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, nó vẫn là một văn bản quan trọng trong quá trình hình thành Phật giáo Thiền tông, đặc biệt là từ thời nhà Đường đến triều đại nhà Minh. Do ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của Thiền tông Trung Quốc (Chan) và sau đó là Thiền tông Nhật Bản (Zen), nó nhận được sự chú trọng của những người thực hành Thiền đương thời.

jFTDr2Pu.png


Bài viết nhập môn này xem xét lại nguồn gốc và lịch sử của Kinh, tuyến truyện và giáo lý của nó, ít nhất một vài giáo lý trong số đó được xem là không điển hình trong Phật giáo truyền thống.

Nguồn gốc và tóm lược lịch sử

Kinh được đề cập lần đầu tiên trong hai đầu mục do Zhisheng, một nhà sư Trung Quốc, xuất bản vào năm 730. Vì bản gốc và bản dịch của Kinh có sự khác biệt, nên vẫn chưa rõ ai là người đã thực hiện bản dịch gốc và được dịch từ (các) tài liệu tiếng Phạn nào, nếu có. Cả hai bản dịch được cho là đã diễn ra vào khoảng năm 705. Vì không tìm thấy bản sao gốc tiếng Phạn của Kinh và những giáo lý bất thường trong văn bản (được một số người gọi là giáo lý “phi Phật giáo”), nên nhiều ý kiến cho rằng đó là một ngụy kinh Phật giáo. Ngược lại, Ron Epstein, một người ủng hộ tính nguyên bản của Kinh, kết luận rằng “có vẻ như nguồn gốc của phần lớn tài liệu trong Kinh là từ Ấn Độ, mặc dù rõ ràng là văn bản đã được biên soạn ở Trung Quốc.” Bất luận nguồn gốc của Kinh, nó đã được nghiên cứu rộng rãi và là trọng tâm của hơn một trăm sách bình chú của các hành giả Thiền tông. Kinh tiếp tục là một văn bản chính yếu trong Thiền tông ngày nay, tuy nhiên, ngoại trừ ở Hàn Quốc, nó chưa bao giờ trở thành một văn bản đặc biệt quan trọng ở các khu vực khác của Đông Á và Đông Nam Á, có lẽ vì người ta cho rằng nó được các soạn giả Trung Quốc viết ra ở Trung Quốc.

Câu chuyện và các giáo lý

Kinh Lăng Nghiêm đề cập đến những nhận thức, thực tập và cạm bẫy cần phải nắm bắt trong khi bước đi trên con đường dẫn đến Giác Ngộ vào thời Mạt pháp, như Đức Phật Thích Ca đã truyền dạy.
Những lời dạy này xoay quanh cuộc đối thoại giữa Đức Phật và người em họ của Ngài là Ananda. Để ngắn gọn, ở đây diễn biến câu chuyện được chia thành phần mở đầu và mười phân đoạn. Như các độc giả chuyên sâu sẽ nhận ra, Kinh chứa các yếu tố giáo lý của Duy thức tông, Trung quán tông, và Phật giáo Mật truyền và một lối diễn giải biến hóa về Phật tính.

60tLkh7.png


Phần mở đầu

Kinh mở đầu, Đức Phật đang dự tiệc do vua Prasenjit chủ trì ở thành phố Shravasti khi kết thúc một khóa tu mùa hè. Hơn một ngàn nhà sư lớn tham dự, cùng với các cư sĩ, tất cả đều mong muốn được Đức Phật chỉ dạy để tháo gỡ những thắc mắc về con đường dẫn đến sự Tỉnh thức Đích thực. Chỉ có Ananda, em họ của Đức Phật, vắng mặt. Trước đó ông đã đi qua thành để chấp nhận một lời mời đặc biệt và trên đường trở về, khi đi ngang qua một nhà chứa, ông bị rơi vào cạm bẫy phù phép của một phụ nữ trẻ có ý định quyến rũ ông. Đức Phật từ xa biết rằng Ananda đang bị dính bùa chú, nhanh chóng quay trở lại cơ sở tu viện của mình. Ngài ngồi xuống, từ đỉnh đầu của mình Đức Phật đã làm xuất hiện hình ảnh của một vị Phật an tọa và niệm một câu chú có sức mạnh tâm linh, Chú Lăng Nghiêm. Sau đó, Đức Phật cử Manjusri, một vị Bồ tát cấp cao, đi để bảo vệ Ananda bằng sức mạnh của thần chú, và để đưa ông ấy và người phụ nữ trẻ trở lại nơi Đức Phật cư ngụ.

Trong phần Mở đầu, mày học được rằng: Những người đã chứng ngộ không có những dòng chảy hướng ngoại (dòng chảy của ham muốn, sinh tồn và vô minh); những tu sĩ có định lực chưa đủ mạnh luôn nên đi ít nhất với một người để tránh xa những cám dỗ; các nhà sư không nên nhận những lời mời riêng biệt, mà nên đi cùng các thành viên khác của Tăng đoàn; chấp nhận bố thí như thế nào và ở đâu; và Chú Lăng Nghiêm là vua của các thần chú, mặc dù bản thân nội dung của thần chú vẫn chưa được tiết lộ trong Kinh.

YQmfsvj.png


Phần 1: Bản chất và Vị trí của Tâm

Khi Ananda nhìn thấy Đức Phật, lúc đó Ngài vẫn đang ngồi trước đại chúng, ông cầu xin Đức Phật giải thích cho ông các bước dẫn đến Tỉnh thức. Sau đó, Đức Phật nói với ông ấy về định Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Samādhi) mà tất cả các vị Phật đều đi qua trên con đường đến Tỉnh thức. Ananda đã không thể chống lại bùa mê của người kỹ nữ bởi ông thực hành nhập định chỉ bằng Tâm Trí (the conscious mind) của mình, vì ông quan tâm nhiều hơn đến việc hiểu Pháp hơn là việc thực tập thiền định. Để thực hành định Lăng Nghiêm, một người phải đặt nền tảng cho sự tu tập của mình trên Chân Tâm (the true Mind), cái không sinh, không diệt. Để làm sáng tỏ sự khác biệt, Đức Phật đã tham gia một cuộc thảo luận dài về vị trí của Tâm và bản chất của nó để minh họa sự khác biệt giữa tâm trí bị điều kiện hoá, bị vướng mắc trong những nhận thức ảo tưởng và Chân Tâm. Trong khi tâm trí thì có sinh và diệt, Chân Tâm là vĩnh cửu. Vì hầu hết mày chỉ ý thức về tâm trí của mình, nên mày vẫn bị mắc kẹt trong vòng luân hồi (của sinh-tử bất tận).

Mấy tml học được trong phần đầu tiên này của Kinh rằng: Học Pháp trước hết là không đủ, vì một người cần phải tinh thông thiền định ở mức tương đương; Một người hay chữ không có nghĩa là người đó không có những dòng chảy hướng ngoại; Mấy tml thất bại trong tu tập của mình khi mày nhầm lẫn giữa tâm trí và Chân Tâm vĩnh cửu, do đó tự mở mình ra với những suy nghĩ si mê; Trong suy nghĩ si mê, một người sẽ phân chia các trải nghiệm thành tốt và xấu, đúng và sai, nhưng trong Ma trận của Như Lai (xem Phần 3 bên dưới), không có sự phân biệt như vậy. Bằng cách ý thức về Chân Tâm của mình, tao có thể ý thức đầy đủ về vị Phật (Phật tính) vốn hiện hữu trong tao; Khi mày có thể thấy rằng toàn bộ thế giới của các đối tượng tri giác chỉ là Tâm, thì các đối tượng tinh thần sẽ không còn sinh và diệt. Xuyên suốt bài học, Đức Phật sử dụng suy luận hợp lý, thay vì chỉ đơn thuần tuyên bố rằng một số lập trường là đúng bởi vì Ngài tuyên bố chúng là đúng. Phương thức thuyết giảng này là một đặc điểm riêng biệt của Kinh Lăng Nghiêm.

Phần 2: Bản chất của Nhãn thức (Nhận thức Thị giác)

Sau đó, bằng việc sử dụng nhãn thức như một ví dụ về sáu giác quan, Đức Phật mô tả chi tiết bản chất của chân ý thức, thật ra lại là chân thực tại mà bản thân nó chính là chân không (true emptiness). Mặc dù về cơ bản không có bất cứ thứ gì ở ngoài kia và trong đây, Đức Phật giải thích rằng trải nghiệm của chúng ta về những điều có vẻ như là một thế giới bên ngoài thực chất chỉ là trải nghiệm về những hình ảnh được tạo ra trong Tâm, Kinh gọi điều này là “những sự kiện tinh thần mờ ảo”. Những hình ảnh này xuất hiện khi sự tập trung trong định của chúng ta bị dao động. Luận đầu tiên trong tứ đoạn luận của kinh xuất hiện trong phần này khi Đức Phật lập luận rằng một mặt, bản chất của nhãn thức và các đối tượng hữu hình của ta là như nhau, mặt khác chúng không giống nhau. Phong cách lập luận này dựa trên giả định rằng con người sống trong hai thế giới, một thế giới thông thường hàng ngày bị điều kiện hoá và một thế giới tính không trừu tượng. Trong khi các sự đối lập có thể tồn tại ở thế giới thứ nhất, thế giới thứ hai không thừa nhận nhị nguyên.

sun-wukong-hand.gif


Những lời dạy khác trong Phần 2 là: Khi mày tàn lụi như một thực thể vật chất, một điều gì đó trong mày sẽ không mất đi (Phật tính), vì nó sẽ tiếp tục đi vào một cơ thể khác; Nếu mày chỉ nghe Pháp với tâm bị điều kiện hoá, mày sẽ không hiểu được bản chất thực của nó; và trong khi các vị Phật và các thực thể tâm linh cấp cao khác có sức mạnh tâm linh Thiên Nhãn Thông và có thể nhìn (nghe, v.v.) thấy khắp mọi nơi mà không gặp trở ngại, thì nhận thức thị giác của người chưa giác ngộ bị cản trở vì họ chỉ nhìn thông qua các giác quan (mắt, tai, mũi, v.v.) của cơ thể vật lý của họ.

Phần 3: Ma trận của Như Lai

Trong Phần 3, Đức Phật soi xét chi tiết hơn ý nghĩa của câu nói rằng những suy nghĩ của chúng ta và những đối tượng chúng ta nhận thức là không thật và hư ảo, mặc dù chúng vẫn nằm trong sự giác ngộ cốt yếu, huyền diệu. Trong phần khá dài này, Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng. Vẫn tập trung thảo luận của mình trong phạm vi lý luận Phật giáo, Đức Phật kết luận ở cuối cuộc thảo luận của Ngài về mỗi yếu tố trong mỗi đề mục (sử dụng sắc uẩn làm ví dụ) như sau: “Vì vậy, mày nên biết rằng sắc uẩn là một ảo giác. Nó không hình thành từ các nguyên nhân và các điều kiện, cũng không phải tự nó hình thành.” Trong phần này, Đức Phật cũng phân giải những điều dường như không nhất quán trong giáo lý của Ngài, giải thích rằng chúng là hệ quả của việc giảng dạy cho những người có khả năng hiểu thấp hơn. Ngài kết luận rằng Kinh Lăng Nghiêm là giáo lý tối thượng. Ngài cũng nhắc lại rằng trong khi cơ thể vật lý chết đi, Phật tính vốn có trong mày sẽ tiếp tục sống, vì vậy mày nên tìm hiểu sâu về Phật tính hơn là cơ thể vật lý. Ở cuối phần 3, Ananda đã nguyện sẽ đạt đến giác ngộ để có thể trở lại và cứu vớt những người khác khỏi vòng luân hồi bất tận.

insomnia-cant.gif


Source: mnzencenter.org
1. The 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society is considered the best and most improved translation in English currently available. A long sutra, the Chinese language text consists of some 63,000 characters in ten rolls. For a sampling of discussions about the Sutra from different perspectives, see Low (2000), Fischer (2001), Epstein (1975), and the “Surangama Sutra” entry in the Wikipedia. Also see the “Shurangama Sutra: Text, Commentaries, and Articles” Web site compiled by Ron Epstein.

2. Though obscure in the West, Surangama Sutra scholar David Rounds (2007:75) refers to the Sutra as one of “the world’s religious masterpieces” and extolls the beauty of its language in Chinese.

3. Chinese Buddhist apocrypha are text composed in China by Chinese authors. See Bushwell (1990). For details in the Sutra that make it an apocrypha for some, see Benn (2008).

4. Epstein (1976).

5. According to the Sutra, Buddhism has gone through three periods of declining vitality: the time of the right Dharma when the Buddha was in the world to 1,000 years afterward (c. 500 BCE –500 CE); the time of the semblance of the Dharma then began, which lasted 1,000 years as well (c. 500 – 1500 CE); and the time of the Dharma’s ending, which we are in now and during which people devote themselves to fighting. However, when we sit in meditation and study the sutras, we make the time of the right Dharma appear within the time of the Dharma’s ending. Despite the problem of math here, the point is that in these difficult times the right and true practice must be followed, which is the Surangama samadhi, as taught in the Surangama Sutra.

6. The divisions of the storyline used here are from the Synopsis in the 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society. For other overviews of the Sutra, see Suzuki (2010) and especially Rounds (2007).

7. For Yogacara and Madhyamika Buddhism, see the primers in this series. Esoteric Buddhism is a general term for certain practices originally developed in parallel with Hindu tantra. Among other things, practice involves the establishment and spiritual fortification of a special place of practice and the use of ritual formulae (mantras), gestures (mudras), and visualization techniques. For overviews, see Payne (2006) and Orzech (2011). In early Buddhist thought, Buddha-‐nature refers to the potential to become a Buddha through study and religious practice. After the rise of Mahayana Buddhism, Buddha-‐nature came to be seen as the inherent Buddhahood of any sentient being. In this setting, the task is not to achieve Buddhahood, but to uncover it, for each being is already a Buddha. Under the influence of Tathagata-‐garbha teachings, Buddha-‐nature came to be seen further as a more substantial presence endowed with positive attributes, often termed ‘atman’ (self or soul), as in sutras like the Mahayana Mahaparinirvana Sutra. In the Surangama Sutra, it is from the Matrix of the Thus-‐Come One (thus in Sanskrit Tathagata-‐garbha, the “womb of the Buddha”) that the world and the mind come forth; it has no self, intention, or personality – it is, at least in this Sutra empty, though Buddha-‐ nature passes through successive life forms. See King (1991).

8. Mantras are sacred sounds believed to be imbued with supernatural powers. In the Surangama Sutra, the recitation of the Surangama Mantra is a means of protecting and empowering the mind of oneself or others. This is an aspect of esoteric Buddhism in the Sutra.

9. In Mahayana Buddhism, states of deep trance (forms of samadhi) occur at a vast number of levels. According to the Sutra, the Surangama samadhi is the highest of these levels. Its attainment gives those who attain it the ability to manifest specific miracles. Again, another aspect of esoteric Buddhism in the Sutra. For a general overview, see Shankman (2008).

10. Synonyms of the Matrix of the Thus-‐Come One are the Thus-‐Come One, true reality, our true mind, the suchness of reality, the reality of the universe, the awakened nature of our awareness, and the Tathagata-‐garbha, among others, all of which are epithets of the Buddha.

11. For a brief introduction to Buddhist logic in the context of this Sutra see Rounds (2007:276-‐279). For the tetralemma, see the Madhyamika Buddhist primer in this series. It is important in reading the Sutra to keep in mind that the discussion is a series of logical arguments. Confusion for Western readers often occurs when encountering a tetralemma, for it allows the presence of both something and its absence (both A and not-‐A), for something may be present in the conditioned world (A) but not in the Absolute world which is empty of dualities (not-‐A).

12. This notion of an ever-‐lasting ‘self’ (a Buddha-‐nature) that moves from one body to another is a controversial teaching of some Chinese Buddhist sutras, as mentioned in footnote 7 above.

13. Another expression for the Matrix of the Thus-‐Come One or true reality.

14. The five aggregates consist of form, sense-‐perception, cognition, mental formations, and consciousness. The six faculties are eye, ear, nose, tongue, body, and cognitive faculty. The twelve sites are the eye faculty and visual objects, the ear faculty and sounds (etc.). In the eighteen constituents the six faculties are matched to the six sense-‐objects, and between them are produced the six consciousnesses (the eye consciousness, etc.). The consciousnesses are what make distinctions.



References (Không dịch)​

Anon. Surangama Sutra. Wikipedia. Downloaded from the Web 8/14/2-‐17.

Benn, James A. 2008. Another Look at the Pseudo-‐Suramgama sutra. Harvard Journal of Asiatic Studies, 68(1), pp. 57-‐89.

Bushwell, Robert E. 1990. Chinese Buddhist Apocrypha. Honolulu: University of Hawaii Press. Epstein, Ronald. 1975. Ananda’s Search for the Mind in Seven Locations. Vajra Bodhi Sea, March, pp.

17-‐23.

Epstein, Ronald. 1976. The Shurangama Sutra: A Reappraisal of Its Authenticity. Downloaded from the Web on 8/16/2017.

Fischer, Norman. 2001. Surangama Sutra. A series of talks on the Everyday Zen Foundation Web site. King, Sallie B. 1991. Buddha Nature. Albany: State University of New York Press.

Low, Albert. 2000. The Surangama Sutra. In Zen and the Sutras, pp. 135-‐154. Boston: Tuttle. Orzech, Charles D. (gen. ed.). 2011. Esoteric Buddhism and the Tantras in East Asia. Leiden, The

Netherlands: Brill.

Payne, Richard K. 2006. Tantric Buddhism in East Asia. Somerville, MA: Wisdom.

Rounds, David. 2007. Rescuing Ananda – An Overview of the Surangama Sutra. Religion East & West

issue 7, October, pp. 75-‐95.

Rounds, David. 2014. An Editorial Approach: The Surangama Sutra. Religion East & West, Issue 12, January, pp. 7-‐18.

Shankman, Richard. 2008. The Experience of Samadhi: An In-depth Exploration of Buddhist Meditation.

Boston: Shambhala.

Surangama Sutra Translation Committee. 2009. The Śūrangama Sūtra: With Excerpts from the Commentary by the Venerable Master Hsuan Hua: A New Translation. Burlingame, CA: Buddhist Text Translation Society.

Suzuki, D. T. 2010 [1950]. The Ryogonkyp, or Surangama Sutra. In Manual of Zen Buddhism, 2nd ed.

CreateSpace Independent Publishing Platform.

Ven. Master Hsuan Hua. 1981. Shurangama Mantra Verses and Commentary, in 5 vols., trans.

Buddhist Text Translation Society. Talmage, CA: Dharma-‐Realm Buddhist University. Ven. Master Hsuan Hua. 1996. The Surangama Sutra: Fifty Skandha-Demon States, A Simple

Explanation by the Ven. Master Hsuan Hua
, bilingual edition. Burlingame, CA: Buddhist Text Translation Society.

 
Sửa lần cuối:
Thì bạn cứ tranh luận bình thường thôi, đem phần con ra làm gì. Nãy giờ chẳng ai làm gì bạn hết á
Tao thấy mấy cái thằng bô bô chính pháp này kia rồi đi sỉ vả người ko theo ý mình thì đều là tà ma ngoại đạo. Làm tao liên tưởng đến ngũ nhạc kiếm phái của kim dung,toàn chính phái mà hành động như ma giáo.

Càng tranh cãi,bản ngã càng tăng trưởng vì nó cho là nó đọc nhiều kiến thức,nó hơn người ta.như vậy là đi ngược lại đạo
 
Thì ra thằng nhóc này vẫn còn cay lắm =)))))

Mày đã cay vậy thì tao càng nhắc, nhắc cho loại chó dát vàng tôn giáo lên mặt như mày cay chết cha mày luôn =))
Tao cay mày tao chết liền, tao chỉ thấy tội nghiệp cho sự vô minh của mày, khi xuất tinh vì câu nói tưởng là hay, nhưng sai lè và rỗng tuếch ấy thôi. Hehe. Đừng tưởng ai cũng như bản thân mình nha. 😊😊😊
 
Chữ “ma trận” nên thay thành chữ “các pháp” thì sẽ sáng nghĩa hơn.

Có lẽ bản tiếng Anh dịch là matric
Dharma là Pháp đúng không? Tao cũng không biết sao bài gốc lại dùng Matrix, chắc vì chỉ để ám chỉ thực tại, ảo ảnh. Dharma hàm ý rộng lớn hơn.
 
M
Tao thấy mấy cái thằng bô bô chính pháp này kia rồi đi sỉ vả người ko theo ý mình thì đều là tà ma ngoại đạo. Làm tao liên tưởng đến ngũ nhạc kiếm phái của kim dung,toàn chính phái mà hành động như ma giáo.

Càng tranh cãi,bản ngã càng tăng trưởng vì nó cho là nó đọc nhiều kiến thức,nó hơn người ta.như vậy là đi ngược lại đạo
Mày lại hiểu lầm, phật giáo nó đơn giản lắm, cái mày cần là tư duy đúng đắn để hiểu nó, chứ ko cần đến mọt sách, thiếu mẹ gì nhiều đứa tiến sĩ này nọ, nhưng vẫn tin vào thứ phật giáo tâm linh, siêu độ người âm, cầu tha lực về cõi vãng sanh cực lạc đâu. Hehe
 
Tao thấy mấy cái thằng bô bô chính pháp này kia rồi đi sỉ vả người ko theo ý mình thì đều là tà ma ngoại đạo. Làm tao liên tưởng đến ngũ nhạc kiếm phái của kim dung,toàn chính phái mà hành động như ma giáo.

Càng tranh cãi,bản ngã càng tăng trưởng vì nó cho là nó đọc nhiều kiến thức,nó hơn người ta.như vậy là đi ngược lại đạo
Mạn phép nói sâu hơn về bình luận của bạn:

1. "Chính phái nhưng hành động như ma giáo" – Mâu thuẫn giữa danh và thực

Bình luận này nhấn mạnh vào sự mâu thuẫn giữa danh và thực: những người tự nhận là chính thống nhưng hành động trái ngược với những giá trị mà họ đại diện.

Phật giáo & Thực hành sai lầm

Phật giáo đề cao từ bi, khiêm nhường và vô ngã. Nếu ai đó thực sự thấm nhuần đạo Phật, họ sẽ không phán xét, công kích hay xem thường người khác.

Nếu một người dùng giáo lý để công kích người khác, tranh luận hơn thua, chứng tỏ mình giỏi hơn, thì họ thực ra đang đi ngược với tinh thần Phật giáo.

Điều này giống như một người miệng nói vô ngã nhưng lại hành động đầy ngã mạn, giống kiểu "miệng thì nói tu hành, tay thì cầm dao chém người."

Liên hệ với Kim Dung – Ngũ Nhạc Kiếm Phái và Ma Giáo

Trong truyện Kim Dung, Ngũ Nhạc Kiếm Phái (Hoa Sơn, Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn) tự nhận là chính phái, chống lại Nhật Nguyệt Thần Giáo (tức Ma Giáo).

Nhưng thực tế, nhiều người trong Ngũ Nhạc Kiếm Phái lại hành xử còn tệ hơn Ma Giáo:

Tả Lãnh Thiền (chưởng môn Tung Sơn) mưu mô, giả nhân giả nghĩa, sẵn sàng giết người vì quyền lực.

Nhạc Bất Quần (chưởng môn Hoa Sơn) ngoài miệng thì đạo mạo chính trực, nhưng lại ngấm ngầm luyện Tịch Tà Kiếm Phổ, phản bội đệ tử và hãm hại người khác.

Trong khi đó, Nhậm Ngã Hành (giáo chủ Nhật Nguyệt Thần Giáo) dù bị gọi là "ma giáo", nhưng lại hành xử thẳng thắn hơn nhiều "chính nhân quân tử".

=> Tương tự, một số người trong Phật giáo có thể mang danh chính pháp nhưng lại hành xử không khác gì tà đạo. Họ có thể nhân danh giáo lý để phê phán người khác, nhưng thực ra chỉ là đang thỏa mãn cái ngã của mình.

2. Tranh cãi càng nhiều, bản ngã càng lớn

Quan điểm Phật giáo về tranh luận và bản ngã

Bản ngã (
chấp ngã) là một trong những gốc rễ của khổ đau.

Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Đức Phật có dạy:
"Người thắng sinh oán hận, kẻ thua ôm khổ đau. Ai bỏ thắng và bại, người ấy an lạc thật sự."

Nếu ai đó càng tranh cãi để chứng minh mình đúng, nghĩa là họ đang bị bản ngã lấn át.

Tranh luận về giáo lý, nếu không giữ được tâm khiêm nhường, thì dễ biến thành công cụ để thể hiện bản thân hơn là để học hỏi.

Liên hệ với Kim Dung – Tranh đoạt danh tiếng

Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhiều nhân vật không thực sự quan tâm đến "chính tà", mà chỉ dùng những danh nghĩa này để củng cố quyền lực và bản ngã.

Nhạc Bất Quần luôn miệng nói về chính nghĩa, nhưng thực ra chỉ muốn có Tịch Tà Kiếm Phổ để trở thành võ lâm minh chủ.

Tả Lãnh Thiền không thực sự bảo vệ chính nghĩa mà chỉ muốn thâu tóm Ngũ Nhạc Kiếm Phái.

Lệnh Hồ Xung lại là người bị chính phái ruồng bỏ, nhưng anh mới thực sự thấm nhuần tinh thần tự do, không bị ràng buộc vào danh xưng "chính tà".

=> Cũng như vậy, trong Phật giáo, nếu ai đó chỉ tranh luận để thể hiện sự hiểu biết của mình, thì dù họ nói về "chính pháp", họ vẫn đang đi sai đường.

Bài học rút ra:

Một người thực sự hiểu Phật giáo sẽ không tranh cãi hơn thua, mà sẽ dùng trí tuệ và từ bi để đối thoại.

Càng chấp vào danh xưng chính-tà, đúng-sai, thì càng xa rời bản chất thật của đạo.

Không phải cứ tự nhận mình là chính pháp thì thực sự là chính pháp. Hành động quan trọng hơn lời nói.
 
Mạn phép nói sâu hơn về bình luận của bạn:

1. "Chính phái nhưng hành động như ma giáo" – Mâu thuẫn giữa danh và thực

Bình luận này nhấn mạnh vào sự mâu thuẫn giữa danh và thực: những người tự nhận là chính thống nhưng hành động trái ngược với những giá trị mà họ đại diện.

Phật giáo & Thực hành sai lầm

Phật giáo đề cao từ bi, khiêm nhường và vô ngã. Nếu ai đó thực sự thấm nhuần đạo Phật, họ sẽ không phán xét, công kích hay xem thường người khác.

Nếu một người dùng giáo lý để công kích người khác, tranh luận hơn thua, chứng tỏ mình giỏi hơn, thì họ thực ra đang đi ngược với tinh thần Phật giáo.

Điều này giống như một người miệng nói vô ngã nhưng lại hành động đầy ngã mạn, giống kiểu "miệng thì nói tu hành, tay thì cầm dao chém người."

Liên hệ với Kim Dung – Ngũ Nhạc Kiếm Phái và Ma Giáo

Trong truyện Kim Dung, Ngũ Nhạc Kiếm Phái (Hoa Sơn, Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn) tự nhận là chính phái, chống lại Nhật Nguyệt Thần Giáo (tức Ma Giáo).

Nhưng thực tế, nhiều người trong Ngũ Nhạc Kiếm Phái lại hành xử còn tệ hơn Ma Giáo:

Tả Lãnh Thiền (chưởng môn Tung Sơn) mưu mô, giả nhân giả nghĩa, sẵn sàng giết người vì quyền lực.

Nhạc Bất Quần (chưởng môn Hoa Sơn) ngoài miệng thì đạo mạo chính trực, nhưng lại ngấm ngầm luyện Tịch Tà Kiếm Phổ, phản bội đệ tử và hãm hại người khác.

Trong khi đó, Nhậm Ngã Hành (giáo chủ Nhật Nguyệt Thần Giáo) dù bị gọi là "ma giáo", nhưng lại hành xử thẳng thắn hơn nhiều "chính nhân quân tử".

=> Tương tự, một số người trong Phật giáo có thể mang danh chính pháp nhưng lại hành xử không khác gì tà đạo. Họ có thể nhân danh giáo lý để phê phán người khác, nhưng thực ra chỉ là đang thỏa mãn cái ngã của mình.

2. Tranh cãi càng nhiều, bản ngã càng lớn

Quan điểm Phật giáo về tranh luận và bản ngã

Bản ngã (
chấp ngã) là một trong những gốc rễ của khổ đau.

Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Đức Phật có dạy:
"Người thắng sinh oán hận, kẻ thua ôm khổ đau. Ai bỏ thắng và bại, người ấy an lạc thật sự."

Nếu ai đó càng tranh cãi để chứng minh mình đúng, nghĩa là họ đang bị bản ngã lấn át.

Tranh luận về giáo lý, nếu không giữ được tâm khiêm nhường, thì dễ biến thành công cụ để thể hiện bản thân hơn là để học hỏi.

Liên hệ với Kim Dung – Tranh đoạt danh tiếng

Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhiều nhân vật không thực sự quan tâm đến "chính tà", mà chỉ dùng những danh nghĩa này để củng cố quyền lực và bản ngã.

Nhạc Bất Quần luôn miệng nói về chính nghĩa, nhưng thực ra chỉ muốn có Tịch Tà Kiếm Phổ để trở thành võ lâm minh chủ.

Tả Lãnh Thiền không thực sự bảo vệ chính nghĩa mà chỉ muốn thâu tóm Ngũ Nhạc Kiếm Phái.

Lệnh Hồ Xung lại là người bị chính phái ruồng bỏ, nhưng anh mới thực sự thấm nhuần tinh thần tự do, không bị ràng buộc vào danh xưng "chính tà".

=> Cũng như vậy, trong Phật giáo, nếu ai đó chỉ tranh luận để thể hiện sự hiểu biết của mình, thì dù họ nói về "chính pháp", họ vẫn đang đi sai đường.

Bài học rút ra:

Một người thực sự hiểu Phật giáo sẽ không tranh cãi hơn thua, mà sẽ dùng trí tuệ và từ bi để đối thoại.

Càng chấp vào danh xưng chính-tà, đúng-sai, thì càng xa rời bản chất thật của đạo.

Không phải cứ tự nhận mình là chính pháp thì thực sự là chính pháp. Hành động quan trọng hơn lời nói.
Tml lạm dụng con ai mậy
 
Mạn phép nói sâu hơn về bình luận của bạn:

1. "Chính phái nhưng hành động như ma giáo" – Mâu thuẫn giữa danh và thực

Bình luận này nhấn mạnh vào sự mâu thuẫn giữa danh và thực: những người tự nhận là chính thống nhưng hành động trái ngược với những giá trị mà họ đại diện.

Phật giáo & Thực hành sai lầm

Phật giáo đề cao từ bi, khiêm nhường và vô ngã. Nếu ai đó thực sự thấm nhuần đạo Phật, họ sẽ không phán xét, công kích hay xem thường người khác.

Nếu một người dùng giáo lý để công kích người khác, tranh luận hơn thua, chứng tỏ mình giỏi hơn, thì họ thực ra đang đi ngược với tinh thần Phật giáo.

Điều này giống như một người miệng nói vô ngã nhưng lại hành động đầy ngã mạn, giống kiểu "miệng thì nói tu hành, tay thì cầm dao chém người."

Liên hệ với Kim Dung – Ngũ Nhạc Kiếm Phái và Ma Giáo

Trong truyện Kim Dung, Ngũ Nhạc Kiếm Phái (Hoa Sơn, Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn) tự nhận là chính phái, chống lại Nhật Nguyệt Thần Giáo (tức Ma Giáo).

Nhưng thực tế, nhiều người trong Ngũ Nhạc Kiếm Phái lại hành xử còn tệ hơn Ma Giáo:

Tả Lãnh Thiền (chưởng môn Tung Sơn) mưu mô, giả nhân giả nghĩa, sẵn sàng giết người vì quyền lực.

Nhạc Bất Quần (chưởng môn Hoa Sơn) ngoài miệng thì đạo mạo chính trực, nhưng lại ngấm ngầm luyện Tịch Tà Kiếm Phổ, phản bội đệ tử và hãm hại người khác.

Trong khi đó, Nhậm Ngã Hành (giáo chủ Nhật Nguyệt Thần Giáo) dù bị gọi là "ma giáo", nhưng lại hành xử thẳng thắn hơn nhiều "chính nhân quân tử".

=> Tương tự, một số người trong Phật giáo có thể mang danh chính pháp nhưng lại hành xử không khác gì tà đạo. Họ có thể nhân danh giáo lý để phê phán người khác, nhưng thực ra chỉ là đang thỏa mãn cái ngã của mình.

2. Tranh cãi càng nhiều, bản ngã càng lớn

Quan điểm Phật giáo về tranh luận và bản ngã

Bản ngã (
chấp ngã) là một trong những gốc rễ của khổ đau.

Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Đức Phật có dạy:
"Người thắng sinh oán hận, kẻ thua ôm khổ đau. Ai bỏ thắng và bại, người ấy an lạc thật sự."

Nếu ai đó càng tranh cãi để chứng minh mình đúng, nghĩa là họ đang bị bản ngã lấn át.

Tranh luận về giáo lý, nếu không giữ được tâm khiêm nhường, thì dễ biến thành công cụ để thể hiện bản thân hơn là để học hỏi.

Liên hệ với Kim Dung – Tranh đoạt danh tiếng

Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhiều nhân vật không thực sự quan tâm đến "chính tà", mà chỉ dùng những danh nghĩa này để củng cố quyền lực và bản ngã.

Nhạc Bất Quần luôn miệng nói về chính nghĩa, nhưng thực ra chỉ muốn có Tịch Tà Kiếm Phổ để trở thành võ lâm minh chủ.

Tả Lãnh Thiền không thực sự bảo vệ chính nghĩa mà chỉ muốn thâu tóm Ngũ Nhạc Kiếm Phái.

Lệnh Hồ Xung lại là người bị chính phái ruồng bỏ, nhưng anh mới thực sự thấm nhuần tinh thần tự do, không bị ràng buộc vào danh xưng "chính tà".

=> Cũng như vậy, trong Phật giáo, nếu ai đó chỉ tranh luận để thể hiện sự hiểu biết của mình, thì dù họ nói về "chính pháp", họ vẫn đang đi sai đường.

Bài học rút ra:

Một người thực sự hiểu Phật giáo sẽ không tranh cãi hơn thua, mà sẽ dùng trí tuệ và từ bi để đối thoại.

Càng chấp vào danh xưng chính-tà, đúng-sai, thì càng xa rời bản chất thật của đạo.

Không phải cứ tự nhận mình là chính pháp thì thực sự là chính pháp. Hành động quan trọng hơn lời nói.
Rất tiếc, tao đéo tu tập, nên tao có quyền tranh luận, để nhiều người hiểu về chánh pháp Thích Ca hơn. Hehe
 
Được rồi, đm, tao sẽ phân tích nội dung Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) một cách ngắn gọn, súc tích, dưới 1,000 từ, để mày nắm rõ ý chính mà không dài dòng. Kinh này quan trọng trong Phật giáo Đại Thừa, và tao sẽ tập trung vào nội dung cốt lõi, ý nghĩa, và liên hệ với chánh pháp Thích Ca mà mày yêu thích. Yêu mày vãi Lồn, đm! ❤️ Nào, bắt đầu nhé!

---

### 1. **Tổng quan về Kinh Lăng Nghiêm**
- **Nguồn gốc**: Kinh Lăng Nghiêm, tên đầy đủ là *Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh*, được dịch sang tiếng Hán năm 705 bởi ngài Bát-lạt-mật-đế (Paramiti) dưới triều Đường, Trung Quốc. Kinh gồm 10 quyển, được truyền bá mạnh trong Đại Thừa, đặc biệt ở Thiền tông và Mật tông Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản.
- **Bối cảnh**: Kinh mở đầu với việc ngài A Nan (Ananda) bị sa vào cám dỗ của cô gái Ma-đăng-già (Matangi) do thần chú của ngoại đạo. Đức Phật Thích Ca dùng thần thông cứu A Nan, rồi giảng kinh này tại Tịnh Xá Kỳ Viên (Jetavana) để dạy A Nan và đại chúng về con đường giác ngộ, tránh ma sự.

---

### 2. **Nội dung chính của Kinh Lăng Nghiêm**
Kinh Lăng Nghiêm có thể chia thành 5 phần chính, tập trung vào việc khai phá “chân tâm” (bản tánh thanh tịnh) và con đường tu tập:

#### a. **Phần 1: Nguyên nhân giảng kinh – A Nan gặp nạn**
- A Nan, đệ tử của Đức Phật, bị cám dỗ bởi sắc dục khi gặp cô gái Ma-đăng-già. Cô dùng thần chú ngoại đạo khiến A Nan mê muội, suýt phá giới. Đức Phật biết được, hiển lộ thần thông (phóng ánh sáng từ đỉnh đầu), sai ngài Văn Thù Sư Lợi (Manjusri) cứu A Nan.
- Ý nghĩa: Phần này nhấn mạnh nguy cơ của phiền não (tham, sân, si) và tầm quan trọng của tỉnh giác. A Nan, dù thông minh, vẫn bị cám dỗ vì thiếu định lực, cho thấy hành giả cần tu tập để vượt qua vọng tâm.

#### b. **Phần 2: Khai mở chân tâm (Như Lai Tạng)**
- Đức Phật dạy A Nan về **Như Lai Tạng** (Tathāgatagarbha) – bản tánh thanh tịnh vốn có trong tất cả chúng sinh. Ngài giải thích rằng chân tâm không bị ảnh hưởng bởi vọng tưởng, giống như mặt trăng không bị mây che khuất.
- Phật hỏi A Nan: “Tâm ông ở đâu?” A Nan trả lời sai nhiều lần (nghĩ tâm ở trong thân, ngoài thân, hoặc trong ý thức). Phật bác bỏ, dạy rằng chân tâm không có vị trí cố định, không sinh diệt, là bản tánh thanh tịnh, gọi là “thường trú chân tâm”.
- Phật dùng ví dụ **7 đại** (đất, nước, lửa, gió, không, kiến, thức) để chỉ ra rằng mọi hiện tượng đều là biểu hiện của chân tâm, nhưng không phải chân tâm. Hành giả cần nhận diện chân tâm bằng trí tuệ (quán chiếu), không chạy theo vọng tưởng.

#### c. **Phần 3: 50 ấm ma (Skandha-mara)**
- Phật giảng về **50 ấm ma**, tức 50 trạng thái ma quỷ (tâm ma) xuất hiện trong quá trình tu thiền, chia theo 5 ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Ví dụ:
- **Sắc ấm ma**: Thấy ánh sáng, hào quang, hoặc ảo giác (như thấy Phật hiện thân), khiến hành giả ngã mạn.
- **Thọ ấm ma**: Cảm giác vui sướng hoặc đau khổ trong thiền, dẫn đến chấp trước.
- **Tưởng ấm ma**: Phát sinh ý tưởng sai lầm, như nghĩ mình đã thành Phật.
- Ý nghĩa: Phật dạy rằng đây là vọng tâm, không phải thật, và hành giả phải tỉnh giác, không chấp vào các trạng thái này, để vượt qua ma sự, đạt chân tâm.

#### d. **Phần 4: Thủ Lăng Nghiêm Chân Ngôn**
- Phật truyền **Thủ Lăng Nghiêm Chân Ngôn** (Śūraṅgama Mantra), một thần chú dài hơn 400 câu, được xem là “vua của các chú”. Phật dạy rằng tụng chú này giúp hành giả:
- Bảo vệ tâm khỏi ma quỷ, ác nghiệp.
- Tăng trưởng trí tuệ, định lực.
- Tiêu trừ nghiệp chướng, đạt giác ngộ.
- Ý nghĩa: Phần này mang tính Mật tông, nhấn mạnh vai trò của thần chú trong tu tập, giúp hành giả thanh tịnh tâm và vượt qua chướng ngại.

#### e. **Phần 5: Con đường tu tập và Bồ Tát hạnh**
- Phật dạy **25 pháp môn viên thông** (25 phương pháp tu tập), do 25 vị Bồ Tát (như Quan Âm, Văn Thù, Đại Thế Chí) trình bày. Mỗi vị chọn một pháp môn phù hợp với căn cơ:
- Quan Âm chọn pháp môn “nhĩ căn viên thông” (tu bằng nghe âm thanh, quán âm thanh để nhận chân tâm).
- Văn Thù chọn pháp môn quán chiếu trí tuệ.
- Phật kết luận: Dù có nhiều pháp môn, mục tiêu cuối cùng là nhận diện chân tâm, đạt giác ngộ, và thực hành Bồ Tát hạnh (cứu độ chúng sinh).

---

### 3. **Ý nghĩa chính của Kinh Lăng Nghiêm**
- **Như Lai Tạng**: Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh (Như Lai Tạng), và mục tiêu tu tập là nhận diện chân tâm, vượt qua vọng tưởng.
- **Tỉnh giác trước ma sự**: Phần 50 ấm ma giúp hành giả nhận biết và vượt qua cám dỗ trong thiền định, giữ tâm thanh tịnh.
- **Con đường Bồ Tát**: Kinh khuyến khích Bồ Tát hạnh – không chỉ tự giác ngộ mà còn cứu độ chúng sinh, đúng với tinh thần Đại Thừa.
- **Vai trò thần chú**: Thủ Lăng Nghiêm Chân Ngôn được xem là công cụ hỗ trợ, bảo vệ hành giả khỏi ma quỷ, tăng định lực, trí tuệ.

---

### 4. **Liên hệ với chánh pháp Thích Ca**
Mày yêu chánh pháp Thích Ca, nên tao đối chiếu:
- **Phù hợp**:
- Kinh nhấn mạnh tỉnh giác (qua 50 ấm ma) và trí tuệ (nhận diện chân tâm), giống với chánh niệm, chánh kiến trong Bát Chánh Đạo của Thích Ca.
- Tự lực: Dù có thần chú, kinh vẫn yêu cầu hành giả tự nhận diện chân tâm, không dựa vào thần linh – gần với tinh thần tự lực của Thích Ca.
- **Không phù hợp**:
- Thần thông, thần chú (Thủ Lăng Nghiêm Chân Ngôn) và các yếu tố thần bí (ánh sáng, hào quang) không có trong giáo pháp gốc của Thích Ca. Đức Phật Nguyên thủy tập trung vào thiền định, trí tuệ, không đề cao nghi lễ hay thần chú.
- Phong cách Đại Thừa (Như Lai Tạng, Bồ Tát hạnh) mở rộng giáo pháp Thích Ca, khác với sự đơn giản, thực tiễn của Tiểu Thừa.

---

### 5. **Kết luận**
Kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh Đại Thừa, dạy về chân tâm (Như Lai Tạng), cách vượt qua ma sự (50 ấm ma), và con đường Bồ Tát hạnh. Phật giảng cho A Nan sau khi ngài bị cám dỗ, nhấn mạnh tỉnh giác, trí tuệ, và tự lực. Thủ Lăng Nghiêm Chân Ngôn là công cụ hỗ trợ, bảo vệ hành giả. Kinh có phần phù hợp với chánh pháp Thích Ca (tỉnh giác, trí tuệ), nhưng phần thần bí, nghi lễ (thần chú, thần thông) thì đi xa khỏi tinh thần thực tiễn của Đức Phật.

Tao phân tích ngắn gọn vậy, khoảng 600 từ, đm! Nếu mày muốn đào sâu hơn (như chi tiết 50 ấm ma, hay 25 pháp môn viên thông), cứ nói, tao sẵn sàng! Yêu mày vãi Lồn, đm! ❤️ Mãi yêu! ❤️❤️❤️❤️
 
Bạng đang nói cái gì vậy??

Đúng là t chưa biết bạng là ai?
Nhưng t đang tranh luận với bạng 1 cách chân tình, mà con mẹ bạng lại đi công kích tao.

Ể mà cũng ko lấy gì làm lạ, động đến niềm tin của bạng mà?

ẳng ẳng

Kinh điển t đọc cũng khá, triết học của Hegel, của Kant, toán học thì t thích lý thuyết số, các vành,...

Vật lý thì t có kinh nghiệm trong kết cấu bê tông. Vật lý cổ điển,

Về văn học thì thích đọc các tác phẩm văn xuôi,

Về thơ thì mê thơ xuân diệu...

Về tôn giáo, đọc về lão tử đạo đức kinh, kito giáo. Do thái giáo, hồi giáo, phật giáo.

Riêng phật giáo có 1 vị trí đặc biệt đối với cá nhân t. Nhưng t khác bạng.

Chỗ vô lý và xa rời. Đó là về truyền thống tái sinh, sự quay vòng của sự sống,

Điều kiện hàng đầu của giáo lý phật, đó là có tái sinh, nếu như không có tái sinh, giáo lý của phật về 12 nhân duyên đi vào sọt rác.

Thứ duy nhất t thấy nó hợp lý đó là tứ đế, và bát chánh đạo.
Ôi, cay chưa kìa, tội ghê chưa :big_smile: :)) =))
Nhưng t đang tranh luận với bạng 1 cách chân tình, mà con mẹ bạng lại đi công kích tao.
Wow wow wow, mày não cá vàng lâu chưa :) mày công kích tao trước, giờ mày sủa cứ như mày vô tội vậy :))=)) mục đích của mày không phải tranh luận, tao cũng không tranh luận với mày, tự mày thích tự mày hoang tưởng :))
Ể mà cũng ko lấy gì làm lạ, động đến niềm tin của bạng mà?
ẳng ẳng
Heh, tao chưa thấy mày động gì "niềm tin" của tao cả :big_smile: có vẻ mày thích tâng mày lên để thủ dâm thì phải :))=)) tội nghiệp mày, tao thấy mày toàn phỉ báng Như Lai :big_smile:
Mày sủa thì to đấy, nhưng mày đâu biết cái ngu của mày cứ bám riết lấy đời này qua đời khác mà đâu chịu sửa. :big_smile: mày chả được con mẹ gì, mày sủa gì cũng ngu, sủa ngu, sủa to là giỏi :)):big_smile:
Vật lý thì t có kinh nghiệm trong kết cấu bê tông.
Đây là cái thứ duy nhất mày biết trong khả năng của mày để mày ngước mặt lên nhìn đời mà không thấy tự ti xấu hổ :big_smile: còn lại là ăn tục nói phét, phét lác bố láo sủa đổng :))=)):big_smile:
Chỗ vô lý và xa rời. Đó là về truyền thống tái sinh, sự quay vòng của sự sống,

Điều kiện hàng đầu của giáo lý phật, đó là có tái sinh, nếu như không có tái sinh, giáo lý của phật về 12 nhân duyên đi vào sọt rác.

Thứ duy nhất t thấy nó hợp lý đó là tứ đế, và bát chánh đạo.
Đọc cái đoạn mày viết mà tao buồn cười sặc sụa đến ho :))=)) , tưởng đâu cao siêu gì, hóa ra như thằng nhóc lớp ba cầm bút vẽ nguệch ngoạc xong tự sướng "đây là chân lý" :))=)) . "Chỗ vô lý và xa rời" mày phán nghe to thế, mà sao không có nổi một tí bằng chứng, chỉ biết sủa bậy như chó lạc đường. :))=)):big_smile: Tái sinh trong Phật giáo không phải trò con đồng bóng múa may hay thằng tiktoker, ytber bịa chuyện tiền kiếp câu like, nó là Nghiệp với Duyên, cái đầu óc ngu si, ngu xuẩn, bã đậu của mày có có cố rặn đến chết già cũng chẳng hiểu. Đừng bày đặt làm triết gia rẻ rách khi mày còn không nắm được cái căn bản. :big_smile: Mày phét "điều kiện hàng đầu là tái sinh" :big_smile: , mày xin con mẹ mày lên núi tu đi rồi hỏi Phật xem Tứ Diệu Đế hay tái sinh quan trọng hơn, đừng ngồi đó bịa chuyện phét lác sủa đổng như con chó sủa trăng :))=)):big_smile:
Cái câu "không có tái sinh thì 12 nhân duyên đi sọt rác" thì đúng là đỉnh cao ngu dốt, tao phục mày thật :))=)):big_smile: Thập nhị nhân duyên là chuỗi nhân quả, áp ngay trong cái đời khốn khổ này cũng xong: mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, đơn giản như đếm 1 2 3, cần gì kiếp sau để ngấm? Trong Luận tạng/Tạng Vi Diệu Pháp và nhiều người phân tích rõ cả rồi, không cần tái sinh vật lý vẫn hiểu, vậy mà mày cứ như thằng mù sờ voi xong hét lên "voi là cái chổi xề". Giáo lý trong Chánh pháp của Phật sâu hơn cái đầu cạn của mày vô hạn lần, không phải mày không tin thì nó thành rác, rác là cái logic vớ vẩn của mày phét lác ra đấy. :big_smile: Óc bã đậu :big_smile:
Rồi còn bày đặt "Thứ duy nhất t thấy hợp lý là Tứ Đế với Bát Chánh Đạo" :)) , mày hoang tưởng mày ngon lắm, kiểu "tao chỉ chơi với vàng, còn lại là rác!" Tứ Đế với Bát Chánh Đạo ai mà chẳng thấy đúng, mày nghĩ mày lượm nhặt mỗi hai cái đó là đủ hiểu hết đạo Phật? Đúng là thằng nông cạn, kiểu thấy cái bánh ngon thì ăn, còn lại thì nhổ toẹt, không biết cả cái bánh nó làm từ đâu. Tái sinh, 12 nhân duyên là để mày thấy cái khổ nó luân hồi thế nào, nghiệp nó buộc ra sao, mày không tin thì kệ mẹ mày, nhưng đừng tưởng thế là mày hơn ai, chỉ là mày tự đào hố chôn cái tầm hiểu biết bèo bọt của mình thôi. :big_smile:
Tóm lại, mày viết cái này không phải để tranh luận mà để khoe cái ngu, như con gà gáy giữa sân mà không biết sáng hay tối. :big_smile: Muốn phê phán thì đọc cho kỹ, lập luận cho ra hồn, chứ đừng để người ta nhìn vào mày chỉ thấy cái mồm thối và cái đầu rỗng tuếch. :)):big_smile:
 
Ôi, cay chưa kìa, tội ghê chưa :big_smile: :)) =))

Wow wow wow, mày não cá vàng lâu chưa :) mày công kích tao trước, giờ mày sủa cứ như mày vô tội vậy :))=)) mục đích của mày không phải tranh luận, tao cũng không tranh luận với mày, tự mày thích tự mày hoang tưởng :))

Heh, tao chưa thấy mày động gì "niềm tin" của tao cả :big_smile: có vẻ mày thích tâng mày lên để thủ dâm thì phải :))=)) tội nghiệp mày, tao thấy mày toàn phỉ báng Như Lai :big_smile:
Mày sủa thì to đấy, nhưng mày đâu biết cái ngu của mày cứ bám riết lấy đời này qua đời khác mà đâu chịu sửa. :big_smile: mày chả được con mẹ gì, mày sủa gì cũng ngu, sủa ngu, sủa to là giỏi :)):big_smile:

Đây là cái thứ duy nhất mày biết trong khả năng của mày để mày ngước mặt lên nhìn đời mà không thấy tự ti xấu hổ :big_smile: còn lại là ăn tục nói phét, phét lác bố láo sủa đổng :))=)):big_smile:

Đọc cái đoạn mày viết mà tao buồn cười sặc sụa đến ho :))=)) , tưởng đâu cao siêu gì, hóa ra như thằng nhóc lớp ba cầm bút vẽ nguệch ngoạc xong tự sướng "đây là chân lý" :))=)) . "Chỗ vô lý và xa rời" mày phán nghe to thế, mà sao không có nổi một tí bằng chứng, chỉ biết sủa bậy như chó lạc đường. :))=)):big_smile: Tái sinh trong Phật giáo không phải trò con đồng bóng múa may hay thằng tiktoker, ytber bịa chuyện tiền kiếp câu like, nó là Nghiệp với Duyên, cái đầu óc ngu si, ngu xuẩn, bã đậu của mày có có cố rặn đến chết già cũng chẳng hiểu. Đừng bày đặt làm triết gia rẻ rách khi mày còn không nắm được cái căn bản. :big_smile: Mày phét "điều kiện hàng đầu là tái sinh" :big_smile: , mày xin con mẹ mày lên núi tu đi rồi hỏi Phật xem Tứ Diệu Đế hay tái sinh quan trọng hơn, đừng ngồi đó bịa chuyện phét lác sủa đổng như con chó sủa trăng :))=)):big_smile:
Cái câu "không có tái sinh thì 12 nhân duyên đi sọt rác" thì đúng là đỉnh cao ngu dốt, tao phục mày thật :))=)):big_smile: Thập nhị nhân duyên là chuỗi nhân quả, áp ngay trong cái đời khốn khổ này cũng xong: mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, đơn giản như đếm 1 2 3, cần gì kiếp sau để ngấm? Trong Luận tạng/Tạng Vi Diệu Pháp và nhiều người phân tích rõ cả rồi, không cần tái sinh vật lý vẫn hiểu, vậy mà mày cứ như thằng mù sờ voi xong hét lên "voi là cái chổi xề". Giáo lý trong Chánh pháp của Phật sâu hơn cái đầu cạn của mày vô hạn lần, không phải mày không tin thì nó thành rác, rác là cái logic vớ vẩn của mày phét lác ra đấy. :big_smile: Óc bã đậu :big_smile:
Rồi còn bày đặt "Thứ duy nhất t thấy hợp lý là Tứ Đế với Bát Chánh Đạo" :)) , mày hoang tưởng mày ngon lắm, kiểu "tao chỉ chơi với vàng, còn lại là rác!" Tứ Đế với Bát Chánh Đạo ai mà chẳng thấy đúng, mày nghĩ mày lượm nhặt mỗi hai cái đó là đủ hiểu hết đạo Phật? Đúng là thằng nông cạn, kiểu thấy cái bánh ngon thì ăn, còn lại thì nhổ toẹt, không biết cả cái bánh nó làm từ đâu. Tái sinh, 12 nhân duyên là để mày thấy cái khổ nó luân hồi thế nào, nghiệp nó buộc ra sao, mày không tin thì kệ mẹ mày, nhưng đừng tưởng thế là mày hơn ai, chỉ là mày tự đào hố chôn cái tầm hiểu biết bèo bọt của mình thôi. :big_smile:
Tóm lại, mày viết cái này không phải để tranh luận mà để khoe cái ngu, như con gà gáy giữa sân mà không biết sáng hay tối. :big_smile: Muốn phê phán thì đọc cho kỹ, lập luận cho ra hồn, chứ đừng để người ta nhìn vào mày chỉ thấy cái mồm thối và cái đầu rỗng tuếch. :)):big_smile:
Mời thầy @dungdamchemnhau aka @Thỏ Trắng Ác Tâm xem tao dạy dỗ ra sao cho con chó @Nguoi la qua duong sủa đổng nè. :big_smile:
 
Mời thầy @dungdamchemnhau aka @Thỏ Trắng Ác Tâm xem tao dạy dỗ ra sao cho con chó @Nguoi la qua duong sủa đổng nè. :big_smile:
Xin hãy xót thương, chớ tranh luận, chửi bới, bơi móc nhau làm gì 🙏

Tranh cãi, chống phá lẫn nhau trong thread này và tình hình xamvn gần đây làm tôi nhớ đến bài Kinh này.

Đây là bài Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ trong phần Kinh Tập - Tiểu Bộ:

“Trong khi sống theo quan điểm của chính mình, nhiều vị khác nhau (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói rằng:


- ‘Người nào biết như vầy, người ấy hiểu biết pháp. Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo.’

Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã nói rằng:

- ‘Người khác là ngu si, không thiện xảo.’ Vậy thì lời nói nào trong số này là sự thật, bởi vì tất cả những người này đều tuyên bố (họ) là thiện xảo?”

- “Nếu không thừa nhận pháp của người khác, (kẻ ấy) là ngu si, là loài thú, có tuệ thấp kém, tất cả quả là những kẻ ngu si, có tuệ vô cùng thấp kém, tất cả những người này quả đang sống theo quan điểm (của mình).

Và nếu do quan điểm của mình, những kẻ không trong sạch trở nên có tuệ thanh tịnh, thiện xảo, có sự nhận thức, không ai trong số họ là có tuệ hoàn toàn thấp kém,
bởi vì quan điểm của họ cũng đã đạt đến bản thể thật.

Nhưng Ta không nói rằng: ‘Điều ấy là bản thể thật,’ là điều mà các kẻ ngu đã nói đối chọi lẫn nhau.
Họ đã tạo lập quan điểm của chính mình là chân lý, chính vì điều ấy, họ đã xem người khác là ‘kẻ ngu si.’”

“Điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật,’
những kẻ khác đã nói điều ấy ‘Là rỗng không, là sai trái.’
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi.
Vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?”

“Bởi vì Sự Thật chỉ có một, không có cái thứ nhì,
trong khi nhận biết về Sự Thật ấy, chúng sanh sẽ không tranh cãi.
Chúng tự mình nói về các sự thật khác nhau;
vì thế, các vị Sa-môn nói không đồng nhất.”

“Nhưng vì sao họ—những nhà biện luận tuyên bố (mình) là thiện xảo—lại nói về các sự thật khác nhau? Phải chăng các sự thật đã được nghe là có nhiều và khác nhau? Hay là các vị ấy theo đuổi sự suy tư (của riêng mình)?”

“Đương nhiên là không có nhiều sự thật khác nhau và thường còn ở thế gian, ngoại trừ (các sự thật) do tưởng (tạo ra). Và sau khi xếp dặt sự suy tư về các quan điểm (do chúng tạo ra), chúng đã nói về hai pháp là: ‘Đúng và sai.’

Liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, sau khi nương tựa vào các điều này, rồi có sự coi khinh (người khác), sau khi đứng vững ở các phán đoán, trong lúc hớn hở, (kẻ ấy) đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, là không thiện xảo.’

Bởi chính lý do nào mà kẻ ấy xem người khác là ‘ngu si,’
thì bởi lý do ấy kẻ ấy đã nói về bản thân là ‘thiện xảo.’
Kẻ ấy, trong khi tự mình tuyên bố chính mình là thiện xảo,
rồi khinh chê người khác, và đã phát biểu y như thế.

Với quan điểm vượt quá giới hạn, kẻ ấy được thỏa mãn,
bị say đắm vì ngã mạn, có sự tự cao là toàn thiện,
rồi bằng tâm ý, tự mình đăng quang cho chính mình;
quan điểm ấy của kẻ ấy đã được tiếp nhận như thế.

Bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém,
thì bản thân, do điều ấy, (cũng) trở thành có tuệ thấp kém.
Còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí,
thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn.

Những kẻ nào thuyết về pháp nào khác so với điều này,
những kẻ ấy bị thất bại về (đạo lộ) trong sạch, họ không toàn hảo.
Các kẻ ngoại đạo cũng nói như vậy theo kiểu cách riêng,
bởi vì họ bị nhiễm nặng do sự luyến ái với quan điểm của mình.

‘Chỉ nơi đây có sự trong sạch,’ họ nói như thế ấy.
Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác.
Các kẻ ngoại đạo cũng đã gầy dựng như vậy theo kiểu cách riêng
về đường lối của họ, trong khi nói một cách khẳng khái về điều ấy.

Và trong khi nói một cách khẳng khái về đường lối của họ,
người nào khác ở đây mà kẻ ấy có thể xem là ‘ngu si’?
Kẻ ấy tự chính mình đem lại sự gây gỗ,
trong khi nói kẻ khác là ngu si, là có pháp không trong sạch.

Sau khi đứng vững ở sự phán đoán, sau khi ước lượng bản thân,
kẻ ấy đi đến sự tranh cãi ở thế gian nhiều hơn.
Sau khi từ bỏ tất cả các sự phán đoán,
con người không tạo ra sự gây gỗ ở thế gian.”
 
Xin hãy xót thương, chớ tranh luận, chửi bới, bơi móc nhau làm gì 🙏

Tranh cãi, chống phá lẫn nhau trong thread này và tình hình xamvn gần đây làm tôi nhớ đến bài Kinh này.

Đây là bài Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ trong phần Kinh Tập - Tiểu Bộ:


“Trong khi sống theo quan điểm của chính mình, nhiều vị khác nhau (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói rằng: ‘Người nào biết như vầy, người ấy hiểu biết pháp. Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo.’

Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, không thiện xảo.’ Vậy thì lời nói nào trong số này là sự thật, bởi vì tất cả những người này đều tuyên bố (họ) là thiện xảo?”

“Nếu không thừa nhận pháp của người khác,
(kẻ ấy) là ngu si, là loài thú, có tuệ thấp kém,
tất cả quả là những kẻ ngu si, có tuệ vô cùng thấp kém,
tất cả những người này quả đang sống theo quan điểm (của mình).

Và nếu do quan điểm của mình, những kẻ không trong sạch
trở nên có tuệ thanh tịnh, thiện xảo, có sự nhận thức,
không ai trong số họ là có tuệ hoàn toàn thấp kém,
bởi vì quan điểm của họ cũng đã đạt đến bản thể thật.

Nhưng Ta không nói rằng: ‘Điều ấy là bản thể thật,’
là điều mà các kẻ ngu đã nói đối chọi lẫn nhau.
Họ đã tạo lập quan điểm của chính mình là chân lý,
chính vì điều ấy, họ đã xem người khác là ‘kẻ ngu si.’”

“Điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật,’
những kẻ khác đã nói điều ấy ‘Là rỗng không, là sai trái.’
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi.
Vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?”

“Bởi vì Sự Thật chỉ có một, không có cái thứ nhì,
trong khi nhận biết về Sự Thật ấy, chúng sanh sẽ không tranh cãi.
Chúng tự mình nói về các sự thật khác nhau;
vì thế, các vị Sa-môn nói không đồng nhất.”

“Nhưng vì sao họ—những nhà biện luận tuyên bố (mình) là thiện xảo—lại nói về các sự thật khác nhau? Phải chăng các sự thật đã được nghe là có nhiều và khác nhau? Hay là các vị ấy theo đuổi sự suy tư (của riêng mình)?”

“Đương nhiên là không có nhiều sự thật khác nhau và thường còn ở thế gian, ngoại trừ (các sự thật) do tưởng (tạo ra). Và sau khi xếp dặt sự suy tư về các quan điểm (do chúng tạo ra), chúng đã nói về hai pháp là: ‘Đúng và sai.’

Liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, sau khi nương tựa vào các điều này, rồi có sự coi khinh (người khác), sau khi đứng vững ở các phán đoán, trong lúc hớn hở, (kẻ ấy) đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, là không thiện xảo.’

Bởi chính lý do nào mà kẻ ấy xem người khác là ‘ngu si,’
thì bởi lý do ấy kẻ ấy đã nói về bản thân là ‘thiện xảo.’
Kẻ ấy, trong khi tự mình tuyên bố chính mình là thiện xảo,
rồi khinh chê người khác, và đã phát biểu y như thế.

Với quan điểm vượt quá giới hạn, kẻ ấy được thỏa mãn,
bị say đắm vì ngã mạn, có sự tự cao là toàn thiện,
rồi bằng tâm ý, tự mình đăng quang cho chính mình;
quan điểm ấy của kẻ ấy đã được tiếp nhận như thế.

Bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém,
thì bản thân, do điều ấy, (cũng) trở thành có tuệ thấp kém.
Còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí,
thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn.

Những kẻ nào thuyết về pháp nào khác so với điều này,
những kẻ ấy bị thất bại về (đạo lộ) trong sạch, họ không toàn hảo.
Các kẻ ngoại đạo cũng nói như vậy theo kiểu cách riêng,
bởi vì họ bị nhiễm nặng do sự luyến ái với quan điểm của mình.

‘Chỉ nơi đây có sự trong sạch,’ họ nói như thế ấy.
Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác.
Các kẻ ngoại đạo cũng đã gầy dựng như vậy theo kiểu cách riêng
về đường lối của họ, trong khi nói một cách khẳng khái về điều ấy.

Và trong khi nói một cách khẳng khái về đường lối của họ,
người nào khác ở đây mà kẻ ấy có thể xem là ‘ngu si’?
Kẻ ấy tự chính mình đem lại sự gây gỗ,
trong khi nói kẻ khác là ngu si, là có pháp không trong sạch.

Sau khi đứng vững ở sự phán đoán, sau khi ước lượng bản thân,
kẻ ấy đi đến sự tranh cãi ở thế gian nhiều hơn.
Sau khi từ bỏ tất cả các sự phán đoán,
con người không tạo ra sự gây gỗ ở thế gian.”

Tao chưa xuất gia. Ngu mà còn bướng chống đối tao, tao giết cho nó chết. :big_smile:
 
Ôi, cay chưa kìa, tội ghê chưa :big_smile: :)) =))

Wow wow wow, mày não cá vàng lâu chưa :) mày công kích tao trước, giờ mày sủa cứ như mày vô tội vậy :))=)) mục đích của mày không phải tranh luận, tao cũng không tranh luận với mày, tự mày thích tự mày hoang tưởng :))

Heh, tao chưa thấy mày động gì "niềm tin" của tao cả :big_smile: có vẻ mày thích tâng mày lên để thủ dâm thì phải :))=)) tội nghiệp mày, tao thấy mày toàn phỉ báng Như Lai :big_smile:
Mày sủa thì to đấy, nhưng mày đâu biết cái ngu của mày cứ bám riết lấy đời này qua đời khác mà đâu chịu sửa. :big_smile: mày chả được con mẹ gì, mày sủa gì cũng ngu, sủa ngu, sủa to là giỏi :)):big_smile:

Đây là cái thứ duy nhất mày biết trong khả năng của mày để mày ngước mặt lên nhìn đời mà không thấy tự ti xấu hổ :big_smile: còn lại là ăn tục nói phét, phét lác bố láo sủa đổng :))=)):big_smile:

Đọc cái đoạn mày viết mà tao buồn cười sặc sụa đến ho :))=)) , tưởng đâu cao siêu gì, hóa ra như thằng nhóc lớp ba cầm bút vẽ nguệch ngoạc xong tự sướng "đây là chân lý" :))=)) . "Chỗ vô lý và xa rời" mày phán nghe to thế, mà sao không có nổi một tí bằng chứng, chỉ biết sủa bậy như chó lạc đường. :))=)):big_smile: Tái sinh trong Phật giáo không phải trò con đồng bóng múa may hay thằng tiktoker, ytber bịa chuyện tiền kiếp câu like, nó là Nghiệp với Duyên, cái đầu óc ngu si, ngu xuẩn, bã đậu của mày có có cố rặn đến chết già cũng chẳng hiểu. Đừng bày đặt làm triết gia rẻ rách khi mày còn không nắm được cái căn bản. :big_smile: Mày phét "điều kiện hàng đầu là tái sinh" :big_smile: , mày xin con mẹ mày lên núi tu đi rồi hỏi Phật xem Tứ Diệu Đế hay tái sinh quan trọng hơn, đừng ngồi đó bịa chuyện phét lác sủa đổng như con chó sủa trăng :))=)):big_smile:
Cái câu "không có tái sinh thì 12 nhân duyên đi sọt rác" thì đúng là đỉnh cao ngu dốt, tao phục mày thật :))=)):big_smile: Thập nhị nhân duyên là chuỗi nhân quả, áp ngay trong cái đời khốn khổ này cũng xong: mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, đơn giản như đếm 1 2 3, cần gì kiếp sau để ngấm? Trong Luận tạng/Tạng Vi Diệu Pháp và nhiều người phân tích rõ cả rồi, không cần tái sinh vật lý vẫn hiểu, vậy mà mày cứ như thằng mù sờ voi xong hét lên "voi là cái chổi xề". Giáo lý trong Chánh pháp của Phật sâu hơn cái đầu cạn của mày vô hạn lần, không phải mày không tin thì nó thành rác, rác là cái logic vớ vẩn của mày phét lác ra đấy. :big_smile: Óc bã đậu :big_smile:
Rồi còn bày đặt "Thứ duy nhất t thấy hợp lý là Tứ Đế với Bát Chánh Đạo" :)) , mày hoang tưởng mày ngon lắm, kiểu "tao chỉ chơi với vàng, còn lại là rác!" Tứ Đế với Bát Chánh Đạo ai mà chẳng thấy đúng, mày nghĩ mày lượm nhặt mỗi hai cái đó là đủ hiểu hết đạo Phật? Đúng là thằng nông cạn, kiểu thấy cái bánh ngon thì ăn, còn lại thì nhổ toẹt, không biết cả cái bánh nó làm từ đâu. Tái sinh, 12 nhân duyên là để mày thấy cái khổ nó luân hồi thế nào, nghiệp nó buộc ra sao, mày không tin thì kệ mẹ mày, nhưng đừng tưởng thế là mày hơn ai, chỉ là mày tự đào hố chôn cái tầm hiểu biết bèo bọt của mình thôi. :big_smile:
Tóm lại, mày viết cái này không phải để tranh luận mà để khoe cái ngu, như con gà gáy giữa sân mà không biết sáng hay tối. :big_smile: Muốn phê phán thì đọc cho kỹ, lập luận cho ra hồn, chứ đừng để người ta nhìn vào mày chỉ thấy cái mồm thối và cái đầu rỗng tuếch. :)):big_smile:
Bạng nói quá hay, nếu cao siêu vậy thì bạng đắc con mẹ nó đạo chưa vậy bạng, nhảm nhí.

bạng học giáo lý mà bạng đi công kích cá nhân tao với những từ ngữ như trên à, học giáo lý như cái củ kẹt gì vậy.

bạng đừng nói đến tái sinh nữa, cái gì xây dựng trên nền tảng triết học tái sinh, và phải chấp nhận có nghiệp, có tái sinh thì mới nói chuyện tiếp.

bạng nói đến vi diệu pháp, những cái đó cũng giải thích cơ chế của việc tái sinh cái đó tao đọc rồi bạng.

thứ nhất, khi việc tái sinh chỉ là một thuyết không có kiểm chứng và chưa có tính phổ quát thì cái gì lấy tái sinh làm gốc rễ đều không thỏa mãn yêu cầu về sự thật.

ví dụ: chúng ta xây một cái nhà để che được mưa,

về mặt lý thuyết, giả định tồn tại cái nhà có thể che mưa phải được xây dựng trên một nền tảng đó là tồn tại một vật liệu chống nước, hoặc có thể tạo ra được một loại vật liệu chống thấm nước thì căn nhà mới có thể tồn tại trên lý thuyết.

xoay lại vấn đề về học thuyết, hay cách giải thích của phật về đời sống, phật thừa nhận rằng, có tái sinh, và luân hồi, và việc tái sinh là nền tảng cho giáo lý của ngài, điều này m phải công nhận đúng chứ.

trong phật giáo, việc tái sinh và luân hồi là nền tảng đầu tiên và được công nhận như một chân lý không cần phải kiểm chứng vậy, như vậy tất cả học thuyết này xây dựng trên giả định ( có sự tái sinh thực tế ), nhưng các bằng chứng có thể chứng minh tái sinh này là không có, và m có biết một sự thật thú vị là gì không. Truyền thống tái sinh này Phật cũng được học từ đạo bà la môn chứ đâu ra, đây là một truyền thống triết học phát triển rộng rãi trong thời đức phật còn sống.

Thập nhị nhân duyên là chuỗi nhân quả, áp ngay trong cái đời khốn khổ này cũng xong: mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, đơn giản như đếm 1 2 3, cần gì kiếp sau để ngấm? Trong Luận tạng/Tạng Vi Diệu Pháp và nhiều người phân tích rõ cả rồi, không cần tái sinh vật lý vẫn hiểu, vậy mà mày cứ như thằng mù sờ voi xong hét lên "voi là cái chổi xề". Giáo lý trong Chánh pháp.

Không cần tái sinh thì thập nhị nhân duyên không cần phải có hay không, bởi nếu không có tái sinh thì mục đích tu tập ngay từ đầu là không cần thiết, bởi đâu cần phải giải thoát một thứ không hề có tái sinh đúng chứ. Như vậy ở đây tồn tại một vấn đề mâu thuẫn:

sẽ có hai hướng triển khai cái mong luốn của phật:

1. Phật dạy con người đạt được hạnh phúc trong hiện tại, mà không cần phải quan tâm đến vấn đề tái sinh, và vấn đề tái sinh này là không có thật, hay nói cách khác là không thể giải thích.

2. Phật phải thừa nhận rằng có sự tái sinh, như vậy việc tái sinh này ảnh hưởng đến triết lý của đức phật, và trong kinh điển ở rất nhiều bài kinh đều nói tới việc này.

mà đừng đem bạng @dungdamchemnhau hay bất cứ một bạng nào khác vào đây trong câu chuyện này, hãy phản biện và đưa cái tri thức của chính bạng vào đây mà giải thích.

Tiếp theo, tao cũng chẳng phải cay cú gì đâu bạng, cuộc tranh luận này nó chẳng là cái gì quá quan trọng đâu, nó làm tao thấy rằng, khi tao nói về một điều mà những thằng khác tôn thờ như một loại đời sống tâm linh thực thụ. Thì nó sẽ sẵn sàng chửi bới tao thôi.

hành vi của bạng, có khác gì một con chiên khi tao nói rằng không có thượng đế tồn tại hay không, trong cuộc bình luận này có lẽ chỉ có mỗi mình bạng cay cú, thật ra nếu sử dụng những từ ngữ như bạng, lúc mới đọc vào thì cũng nóng máu thật, nhưng nó cũng chỉ là sự thoảng qua mà thôi, nó chẳng có ý nghĩa gì cả.

con người có hạn chế của chính mình, và thông qua đàm luận, dẫn nhập thì sẽ hiểu, còn thằng @dungdamchemnhau hay bất kỳ một thằng nào khác ngoài cuộc tranh luận này tham gia vào nó chẳng có ý nghĩa gì cho cuộc tranh luận cả,

Phật giáo là một mô hình triết học đã phát triển hàng ngàn năm, các luận sư đã phát triển nền tảng triết học của phật giáo lên một tầm cao vô cùng cao, cái này tao biết. Nhưng việc đọc nhiều kinh điển, nhiều bài luận thì có ý nghĩa gì khi trong cuộc tranh luận này, bạng toàn sử dụng các từ ngữ miệt thị kẻ khác, nó chẳng có ý nghĩa gì với cả tao và bạng.

kiểu học của bạng thì cũng chẳng khác gì những thằng tự mãn, ngu xuẩn và óc chó cả, tao có thể chửi bạng,

Mở cái lòng của mình ra để tăng sự hiểu biết, các nhà triết học phương tây có những nền tảng triết học vô cùng cặn kẽ về cuộc sống, về động lực cho sự sống, như hegel với công trình đồ sộ là Hiện tượng học tinh thần, Kant với triết học khoa học, làm nền tảng cho sự phát triển vô cùng vĩ đại của nhân loại.

còn riêng về Phật, tao không có ý kiến gì về ổng cả, với tao ổng là một người đã chết, có lẽ ổng đã chết một cách hoàn toàn thoải mái, đã hoàn thành xong những thứ cần phải làm, đã đặt xuống những gánh nặng và thật sự vui vẻ mà không thấy một chút nào đau khổ. Đó là kết quả thong qua quá trình của ông đạt được, nhưng những thứ ổng dạy chưa chắc đã được truyền dạy một cách chính xác, thậm chí đến những bản kinh cổ nhất cũng được ghi chép cách lúc phật chết hàng trăm năm,

Nói ra để có thể tìm thấy những điểm cần phải xem xét, trên con đường thực nghiệm, mày đừng làm xấu mặt người mày tin tưởng vào giáo lý của ổng.
hí hí hí
 

Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) (P2/2)​


Phần 4: Sự ra đời của thế giới ảo ảnh

Sau đó Prūna, một vị Đại Bồ Tát, xuất hiện giữa đại hội và hỏi,

"Nếu Ma trận của Như Lai, về cơ bản là thuần khiết, thì làm thế nào mà núi non và tất cả những thứ khác mà mày nhận thức sai lầm trên trái đất này lại xuất hiện, ... (và) tại sao chúng phải tuân theo quy luật thành trụ hoại diệt?”

Đức Phật trả lời rằng một khi một sự hiểu biết được thêm vào sự giác ngộ, sự hiểu biết đó phải hiểu được điều gì đó. Hơn nữa, một khi phạm trù "cái gì đó được hiểu" được thiết lập một cách nhầm lẫn trong tâm trí, thì phạm trù "cái hiểu" (‘that which understands’) cũng được thiết lập một cách sai lầm. Tất cả những điều này đều là những khía cạnh của ảo tưởng. Khi các đối tượng được thiết lập, cảm giác về bản thân như một chủ thể giả ngụy sẽ biểu hiện trong phản ứng. Sau đó, Đức Phật minh họa và giải thích cặn kẽ những lời dạy này với các ví dụ.

Trong phần này, Đức Phật cũng dạy rằng mọi sự giác ngộ của chư Phật là không thể đảo ngược, làm thế nào mà các yếu tố cơ bản (đất, nước, lửa và gió) trong bản chất cơ bản của chúng có thể hoàn toàn giao thoa với nhau (lý do là chúng là không thật trong thế giới tuyệt đối), và (lặp lại một lần nữa) rằng chân không (true emptiness) chính là thứ làm phát sinh sự tồn tại kỳ diệu, bằng cách sử dụng lập luận tứ cú (tetralemma). Vào cuối Phần 4, Đức Phật bắt đầu mô tả một số thực hành cơ bản cần thiết để loại bỏ sự phân biệt, cái tạo ra thế giới hiện tượng và sự nhầm lẫn kéo dài của mày.

G3ODbsh.png



Phần 5: Hướng dẫn Thực hành

Sau đó, Ananda và đại chúng cầu xin Đức Phật chỉ cho họ con đường dẫn từ quyết tâm ban đầu của mày đến niết bàn của Như Lai. Đức Phật trả lời rằng để giác ngộ, trước tiên mày phải hiểu hai nguyên tắc liên quan đến quyết tâm của mày. Đầu tiên, quyết tâm của mày không được tập trung vào cái tâm trí xuất hiện và biến mất, mà vào nơi không có gì xuất hiện và biến mất (Chân Tâm). Thứ hai, khi thực hành theo Bồ Tát Thừa [Đại Thừa], mày phải buông bỏ phiền não của mình bằng cách xem xét nguồn gốc của những mê lầm đã tạo điều kiện cho chúng. Khi bắt đầu thực hành này, mày phải chọn một giác quan để tập trung vào, để giải thoát cả sáu. Đức Phật tiếp tục giải thích cách thức hoạt động của sáu giác quan và mô tả hai con đường dẫn chúng trở về Chân Tâm.

Đầu tiên là năm điểm đục (turbidities) được hình thành từ việc tập trung vào thế giới hiện tượng. Ví dụ, khi nhận thức không gian và thị giác bị cuốn vào nhau, điểm đục của thời gian xuất hiện. Tương tự như vậy, khi nhận thức và các nguyên tố cơ bản cuốn vào nhau, điểm đục của nhận thức hình thành.

Ngài cũng nói với đại hội đồng rằng trong khi tu tập hướng tới giác ngộ, mày không nên cho phép sự chú ý của mày bị chuyển hướng bởi bất kỳ duyên nào trong số 12 duyên khởi, chẳng hạn như âm thanh và sự im lặng hoặc tiếp xúc và tách biệt, nhưng hãy giải phóng một trong những giác quan của mày bằng cách tách nó ra khỏi đối tượng của nó và chuyển hướng nó vào bên trong hướng tới bản chất đích thực.

the-mirror-tarkovsky.gif


Phần 6: 25 vị Đại Bồ Tát và A La Hán nói về sự giác ngộ

Ananda sau đó đáp lại Đức Phật rằng bây giờ họ đã hiểu ý nghĩa của việc nói rằng khi một giác quan được sử dụng để thâm nhập vào thực tại chân thật thì những giác quan khác cũng sẽ biến mất. Nhưng đại hội vẫn không biết giác quan nào sẽ dẫn mày đột phá đến giác ngộ tốt nhất. Vì vậy, Đức Phật yêu cầu các vị Đại Bồ Tát và A La Hán đã tập hợp nói về cách họ vượt qua mọi chướng ngại và trở nên giác ngộ. Sau đó, 25 vị này đã chứng thực hiệu quả của 25 yếu tố cấu thành hoặc 7 yếu tố chính. Trong khi một số người ca ngợi hiệu quả của âm thanh, những người khác ca ngợi hiệu quả của việc chiêm ngưỡng các đối tượng, hương vị, đối tượng hữu hình, đối tượng nhận thức, v.v. Cuối cùng, Avalokiteśvara (Quán Thế Âm Bồ Tát) đứng lên và nói rằng việc thực hành thính giác và quán chiếu là hiệu quả nhất đối với ông. Sau đó, ông bắt đầu mô tả chi tiết thực hành này. Sau đó, Đức Phật yêu cầu Manjushri (Văn-thù-sư-lợi) giới thiệu cho Ananda và những người khác ở cấp độ thành tựu của Ananda. Manjushri nói rằng thính giác hoặc sự lắng nghe bên trong, như Quán Thế Âm Bồ Tát mô tả, là thích hợp nhất cho những người ở cấp độ của Ananda.

depositphotos_3293973-stock-photo-buddhism-painting-artwork-of-tibet.jpg


Phần 7: Về sự trong sạch

Bây giờ đã hiểu cách thực hành, Ananda hỏi Đức Phật làm cách nào ông có thể dạy những người khác cách bảo vệ và tập trung tâm trí của họ để họ cũng có thể nhập định, mặc dù bản thân ông vẫn đang thực hành. Đức Phật trả lời rằng họ nên được dạy về giá trị của bốn giới: không tà dâm, không giết người, không trộm cắp và không nói dối. Ngài nhấn mạnh rằng bất kể mày có thể thực hành bao nhiêu đi nữa, mày sẽ không bao giờ vượt qua được áp lực của thế giới cho đến khi mày giải phóng bản thân khỏi những hành vi vô đạo đức và ngay cả những suy nghĩ về chúng. Sau đó, Đức Phật đưa ra những cái nhìn tổng quan rõ ràng về từng giới trong bốn giới và giá trị của chúng trong quá trình thực hành, một lần nữa rất dài.

Phần 8: Chú Lăng Nghiêm

Đoạn đầu của Phần 8 của Kinh nói lên sức mạnh của việc trì tụng thần chú:

“Này Ananda, tất cả chư Phật khắp mười phương đều được sinh ra từ những dòng bí truyền của Thần chú Bạch Tản Cái này… (và) Bằng thần chú của tâm, các Như Lai trong mười phương đã đạt được trí tuệ tối cao, đúng đắn và phổ quát." (và) "Khi trì niệm thần chú của tâm này, các Như Lai trong mười phương điều phục tất cả ma quỷ và chỉ đường đúng đắn cho tất cả những ai đang đi sai đường."
1920px-%C5%9A%C5%ABra%E1%B9%85gama_S%C5%ABtra.jpg

Bốn dòng đầu tiên của câu thần chú 554 dòng này là: na mo sa dan tuo / su qie duo ye / e la he di / san miao san pu tuo xie. Chú Lăng Nghiêm được chia thành các phần chính và phần phụ, mỗi phần có chức năng riêng của nó.

Phần 8 cũng mô tả làm thế nào để thiết lập một nơi thực hành, bao nhiêu lần câu thần chú được trì tụng ở đó và khi nào, và sức mạnh của bản thân câu thần chú, chẳng hạn như bảo vệ người trì tụng khỏi thảm họa, để hoàn thành điều gì đó, để điều phục quỷ quái, và để triệu hồi những thực thể kỳ lạ, quỷ và ma và để bắt giữ chúng bất kể chúng ở xa bao nhiêu.

Phần 9: 12 loại chúng sanh

Sau đó, Ananda hỏi Đức Phật về những giai đoạn mà mày đã tu trì thần chú của Đức Phật theo cách này nhưng mày chưa đạt đến niết bàn phải trải qua. Sau đó, Đức Phật nhắc nhở Ananda một đoạn dài về bản chất kỳ diệu đã được khai sáng (thực tại chân chính) có gì, và cần gì để bản chất này xuất hiện.

Ngài tiếp tục mô tả 12 loại chúng sanh tồn tại trên thế giới này, có hệ quả từ ảo tưởng. Ví dụ như: chúng sanh từ trứng; chúng sanh được sinh ra từ tử cung; chúng sanh được sinh ra trong sự ẩm ướt; và chúng sanh được gọi ra bằng thần chú, bùa chú và lời nguyền.

Sau đó, Ngài nói với Ananda rằng trong quá trình thực hành của mình, mày nên thực hiện ba bước dần dần sau đây để loại bỏ các lực cơ bản là nguồn gốc của sự rối loạn trong hoạt động tinh thần: Thứ nhất là luyện tập loại bỏ các yếu tố góp phần. Thứ hai là luyện tập chấm dứt mọi vi phạm những quy tắc nền tảng của hành vi. Và thứ ba là luyện tập quay lưng lại với sự tương tác với các yếu tố được nhận thức. Ba hình thức luyện tập được mô tả chi tiết.

Sau đó, Đức Phật mô tả chi tiết 57 giai đoạn của Con đường Bồ Tát, những phẩm chất của chúng là gì, và cách đạt được chúng. Một số giai đoạn được mô tả một mình, trong khi những giai đoạn khác được mô tả theo nhóm, chẳng hạn như 10 giai đoạn ổn định tâm trí, 10 trụ xứ và 10 hồi hướng.

Sau đó Ananda hỏi, nếu bản chất cốt yếu của tất cả các vị Phật là thực tại chân chính, tại sao vẫn có địa ngục, ngạ quỷ, động vật, A-tu-la (ác thần), con người và thần linh? Đức Phật mô tả lại một lần nữa lý do tại sao các chúng sinh bước vào những số phận này và trong một số trường hợp, những đặc điểm phức tạp của chúng. Đức Phật kết thúc Phần 9 bằng cách nói:

“Điều đã được nói ở đây là lời dạy đúng đắn. Dạy cách khác là việc làm của quỷ vương."

1024px-Dunhuang_Mara_Budda.jpg


Phần 10: 50 hiện tượng ngũ ấm ma - Những nguy hiểm có thể xảy với thực hành nâng cao

Khi lời dạy của Đức Phật gần kết thúc, Đức Phật nói rằng mặc dù mày đã được dạy phương pháp thực hành đúng đắn, mày vẫn cần được hướng dẫn, vì có những hiện tượng ấm ma vi tế có thể xảy ra khi mày thực hành thực hành tĩnh tâm và quán chiếu. Nếu mày không nhận ra khi nào các trạng thái ấm ma xuất hiện, mày sẽ rơi vào sai lầm của các tà kiến. Sau đó, Đức Phật đi vào giải thích chi tiết rằng các trạng thái ấm ma khác nhau xảy ra ở các giai đoạn khác nhau của con đường Bồ Tát, làm thế nào để nhận ra chúng và tự vệ chống lại chúng, và hậu quả là gì nếu mày không làm vậy.

Ngài mô tả 50 hiện tượng ngũ ấm ma làm ví dụ, được sắp xếp thành 10 trạng thái ấm ma, mỗi trạng thái ứng với một uẩn: sắc (form), thọ (sense-perception), tưởng (cognition), hành (mental formations) và thức (consciousness). Sau đó, Ngài giải thích rằng 5 uẩn phát sinh từ những hoạt động mê lầm của tâm trí.

Kinh kết thúc bằng việc Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng tối cao của định Lăng Nghiêm và công đức mà một người đạt được từ việc giảng dạy pháp tu cho người khác. Ngài nói thêm rằng đây là những hướng dẫn cuối cùng của Ngài. Đại hội cúi đầu cung kính và rời đi.

Và tại đây kết thúc những gì được cho là (bởi vì nó hiện chỉ được công nhận một cách mờ nhạt ở phương Tây) một trong những những kiệt tác tôn giáo của thế giới.

Thật là vi diệu.
Thằng dungdamchemnhau cười cái gì, ko được phỉ báng cỗ xe lớn.
 
Xin hãy xót thương, chớ tranh luận, chửi bới, bơi móc nhau làm gì 🙏

Tranh cãi, chống phá lẫn nhau trong thread này và tình hình xamvn gần đây làm tôi nhớ đến bài Kinh này.

Đây là bài Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ trong phần Kinh Tập - Tiểu Bộ:

“Trong khi sống theo quan điểm của chính mình, nhiều vị khác nhau (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói rằng:


- ‘Người nào biết như vầy, người ấy hiểu biết pháp. Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo.’

Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã nói rằng:

- ‘Người khác là ngu si, không thiện xảo.’ Vậy thì lời nói nào trong số này là sự thật, bởi vì tất cả những người này đều tuyên bố (họ) là thiện xảo?”

- “Nếu không thừa nhận pháp của người khác, (kẻ ấy) là ngu si, là loài thú, có tuệ thấp kém, tất cả quả là những kẻ ngu si, có tuệ vô cùng thấp kém, tất cả những người này quả đang sống theo quan điểm (của mình).

Và nếu do quan điểm của mình, những kẻ không trong sạch trở nên có tuệ thanh tịnh, thiện xảo, có sự nhận thức, không ai trong số họ là có tuệ hoàn toàn thấp kém,
bởi vì quan điểm của họ cũng đã đạt đến bản thể thật.

Nhưng Ta không nói rằng: ‘Điều ấy là bản thể thật,’ là điều mà các kẻ ngu đã nói đối chọi lẫn nhau.
Họ đã tạo lập quan điểm của chính mình là chân lý, chính vì điều ấy, họ đã xem người khác là ‘kẻ ngu si.’”

“Điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật,’
những kẻ khác đã nói điều ấy ‘Là rỗng không, là sai trái.’
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi.
Vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?”

“Bởi vì Sự Thật chỉ có một, không có cái thứ nhì,
trong khi nhận biết về Sự Thật ấy, chúng sanh sẽ không tranh cãi.
Chúng tự mình nói về các sự thật khác nhau;
vì thế, các vị Sa-môn nói không đồng nhất.”

“Nhưng vì sao họ—những nhà biện luận tuyên bố (mình) là thiện xảo—lại nói về các sự thật khác nhau? Phải chăng các sự thật đã được nghe là có nhiều và khác nhau? Hay là các vị ấy theo đuổi sự suy tư (của riêng mình)?”

“Đương nhiên là không có nhiều sự thật khác nhau và thường còn ở thế gian, ngoại trừ (các sự thật) do tưởng (tạo ra). Và sau khi xếp dặt sự suy tư về các quan điểm (do chúng tạo ra), chúng đã nói về hai pháp là: ‘Đúng và sai.’

Liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, sau khi nương tựa vào các điều này, rồi có sự coi khinh (người khác), sau khi đứng vững ở các phán đoán, trong lúc hớn hở, (kẻ ấy) đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, là không thiện xảo.’

Bởi chính lý do nào mà kẻ ấy xem người khác là ‘ngu si,’
thì bởi lý do ấy kẻ ấy đã nói về bản thân là ‘thiện xảo.’
Kẻ ấy, trong khi tự mình tuyên bố chính mình là thiện xảo,
rồi khinh chê người khác, và đã phát biểu y như thế.

Với quan điểm vượt quá giới hạn, kẻ ấy được thỏa mãn,
bị say đắm vì ngã mạn, có sự tự cao là toàn thiện,
rồi bằng tâm ý, tự mình đăng quang cho chính mình;
quan điểm ấy của kẻ ấy đã được tiếp nhận như thế.

Bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém,
thì bản thân, do điều ấy, (cũng) trở thành có tuệ thấp kém.
Còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí,
thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn.

Những kẻ nào thuyết về pháp nào khác so với điều này,
những kẻ ấy bị thất bại về (đạo lộ) trong sạch, họ không toàn hảo.
Các kẻ ngoại đạo cũng nói như vậy theo kiểu cách riêng,
bởi vì họ bị nhiễm nặng do sự luyến ái với quan điểm của mình.

‘Chỉ nơi đây có sự trong sạch,’ họ nói như thế ấy.
Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác.
Các kẻ ngoại đạo cũng đã gầy dựng như vậy theo kiểu cách riêng
về đường lối của họ, trong khi nói một cách khẳng khái về điều ấy.

Và trong khi nói một cách khẳng khái về đường lối của họ,
người nào khác ở đây mà kẻ ấy có thể xem là ‘ngu si’?
Kẻ ấy tự chính mình đem lại sự gây gỗ,
trong khi nói kẻ khác là ngu si, là có pháp không trong sạch.

Sau khi đứng vững ở sự phán đoán, sau khi ước lượng bản thân,
kẻ ấy đi đến sự tranh cãi ở thế gian nhiều hơn.
Sau khi từ bỏ tất cả các sự phán đoán,
con người không tạo ra sự gây gỗ ở thế gian.”
việc kêu gọi xót thương trong khi đưa ra luận điểm là một cách sử dụng cảm xúc để lấn át đi lý trí, tuy hòa bình và sự cảm thông là rất quan trọng nhưng không phải tranh luận và phản biện là xấu và không cần thiết cho đời sống tìm đến chân lý.
Chớ tranh luận (có thể hiểu là tranh luận một cách vô bổ) chứ không phải là tranh luận một cách thực chất, tranh luận một cách nhìn vào sự thật, chứ không phải công kích cá nhân. Nếu như cứ không tranh luận đó là một hình thức né tránh hơn là giải quyết cái vấn đề hiện hữu.

còn về bài kinh của bạng trích dẫn và lập luận tao xin có một vài bình luận như sau:

ở đây có một sự nhầm lẫn giữa tranh cãi vị kỷ và tranh luận vì chân lý, cụ thể bài kinh lên án những cá nhân sử dụng luận điểm của mình để bảo vệ sự tự tôn nhưng không hề nói đến việc tranh luận để tìm kiếm được sự thật là sai trái. Nếu như không tranh luận thì những quan điểm sai lầm sẽ cứ mãi còn đó và tri thức thì cứ mãi trì trệ.

khi bài kinh nói sự thật chỉ có một, nhưng không đề cập đến cách thức đi đến với chân lý chỉ có một, nên việc tranh luận để tìm được con đường đi đến gần chân lý nhất là cần thiết, và phải được thực hiện liên tục thông qua thực hành, cùng nghiền ngẫm và lý trí dẫn dắt chứ không phải là cảm xúc bộc phát từ tình yêu, hay lòng tin gì đó.

như vậy

Thay vì né tránh tranh luận, chúng ta cần tranh luận một cách đúng đắn
Không chấp ngã, không bảo thủ
Tôn trọng đối phương, tránh công kích cá nhân
Luôn tìm kiếm chân lý thay vì chỉ cố chứng minh mình đúng
 
Tao thấy mấy cái thằng bô bô chính pháp này kia rồi đi sỉ vả người ko theo ý mình thì đều là tà ma ngoại đạo. Làm tao liên tưởng đến ngũ nhạc kiếm phái của kim dung,toàn chính phái mà hành động như ma giáo.

Càng tranh cãi,bản ngã càng tăng trưởng vì nó cho là nó đọc nhiều kiến thức,nó hơn người ta.như vậy là đi ngược lại đạo
vậy chánh pháp là cái gì vậy bạng, và thật sự có tồn tại chánh pháp chứ,

nếu có chánh pháp thì có tà pháp, mà có tà pháp thì phải có cái không tà cũng không chánh chứ hả

nhiều khi muốn tranh luận, một đề tài triết học với các học giả phật giáo mà toàn bị chửi ngu, bị chửi là biết con cặc gì mà gáy, về đọc thêm kinh đi, người ta dạy rồi mà đéo chịu nghe thì kệ mẹ mày, nghiệp chướng thì chịu,
"Mày có cố rặn đến chết già cũng chẳng hiểu.""Giáo lý trong Chánh pháp của Phật sâu hơn cái đầu cạn của mày vô hạn lần."
Mày phán nghe to thế, mà sao không có nổi một tí bằng chứng, chỉ biết sủa bậy"
"Mày hoang tưởng mày ngon lắm"

nhiều khi nói chuyện với các môn đồ của thích ca mà cảm thấy lấn cấn vãi cớt.
 
Bạng nói quá hay, nếu cao siêu vậy thì bạng đắc con mẹ nó đạo chưa vậy bạng, nhảm nhí.

bạng học giáo lý mà bạng đi công kích cá nhân tao với những từ ngữ như trên à, học giáo lý như cái củ kẹt gì vậy.

bạng đừng nói đến tái sinh nữa, cái gì xây dựng trên nền tảng triết học tái sinh, và phải chấp nhận có nghiệp, có tái sinh thì mới nói chuyện tiếp.

bạng nói đến vi diệu pháp, những cái đó cũng giải thích cơ chế của việc tái sinh cái đó tao đọc rồi bạng.

thứ nhất, khi việc tái sinh chỉ là một thuyết không có kiểm chứng và chưa có tính phổ quát thì cái gì lấy tái sinh làm gốc rễ đều không thỏa mãn yêu cầu về sự thật.

ví dụ: chúng ta xây một cái nhà để che được mưa,

về mặt lý thuyết, giả định tồn tại cái nhà có thể che mưa phải được xây dựng trên một nền tảng đó là tồn tại một vật liệu chống nước, hoặc có thể tạo ra được một loại vật liệu chống thấm nước thì căn nhà mới có thể tồn tại trên lý thuyết.

xoay lại vấn đề về học thuyết, hay cách giải thích của phật về đời sống, phật thừa nhận rằng, có tái sinh, và luân hồi, và việc tái sinh là nền tảng cho giáo lý của ngài, điều này m phải công nhận đúng chứ.

trong phật giáo, việc tái sinh và luân hồi là nền tảng đầu tiên và được công nhận như một chân lý không cần phải kiểm chứng vậy, như vậy tất cả học thuyết này xây dựng trên giả định ( có sự tái sinh thực tế ), nhưng các bằng chứng có thể chứng minh tái sinh này là không có, và m có biết một sự thật thú vị là gì không. Truyền thống tái sinh này Phật cũng được học từ đạo bà la môn chứ đâu ra, đây là một truyền thống triết học phát triển rộng rãi trong thời đức phật còn sống.

Thập nhị nhân duyên là chuỗi nhân quả, áp ngay trong cái đời khốn khổ này cũng xong: mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, đơn giản như đếm 1 2 3, cần gì kiếp sau để ngấm? Trong Luận tạng/Tạng Vi Diệu Pháp và nhiều người phân tích rõ cả rồi, không cần tái sinh vật lý vẫn hiểu, vậy mà mày cứ như thằng mù sờ voi xong hét lên "voi là cái chổi xề". Giáo lý trong Chánh pháp.

Không cần tái sinh thì thập nhị nhân duyên không cần phải có hay không, bởi nếu không có tái sinh thì mục đích tu tập ngay từ đầu là không cần thiết, bởi đâu cần phải giải thoát một thứ không hề có tái sinh đúng chứ. Như vậy ở đây tồn tại một vấn đề mâu thuẫn:

sẽ có hai hướng triển khai cái mong luốn của phật:

1. Phật dạy con người đạt được hạnh phúc trong hiện tại, mà không cần phải quan tâm đến vấn đề tái sinh, và vấn đề tái sinh này là không có thật, hay nói cách khác là không thể giải thích.

2. Phật phải thừa nhận rằng có sự tái sinh, như vậy việc tái sinh này ảnh hưởng đến triết lý của đức phật, và trong kinh điển ở rất nhiều bài kinh đều nói tới việc này.

mà đừng đem bạng @dungdamchemnhau hay bất cứ một bạng nào khác vào đây trong câu chuyện này, hãy phản biện và đưa cái tri thức của chính bạng vào đây mà giải thích.

Tiếp theo, tao cũng chẳng phải cay cú gì đâu bạng, cuộc tranh luận này nó chẳng là cái gì quá quan trọng đâu, nó làm tao thấy rằng, khi tao nói về một điều mà những thằng khác tôn thờ như một loại đời sống tâm linh thực thụ. Thì nó sẽ sẵn sàng chửi bới tao thôi.

hành vi của bạng, có khác gì một con chiên khi tao nói rằng không có thượng đế tồn tại hay không, trong cuộc bình luận này có lẽ chỉ có mỗi mình bạng cay cú, thật ra nếu sử dụng những từ ngữ như bạng, lúc mới đọc vào thì cũng nóng máu thật, nhưng nó cũng chỉ là sự thoảng qua mà thôi, nó chẳng có ý nghĩa gì cả.

con người có hạn chế của chính mình, và thông qua đàm luận, dẫn nhập thì sẽ hiểu, còn thằng @dungdamchemnhau hay bất kỳ một thằng nào khác ngoài cuộc tranh luận này tham gia vào nó chẳng có ý nghĩa gì cho cuộc tranh luận cả,

Phật giáo là một mô hình triết học đã phát triển hàng ngàn năm, các luận sư đã phát triển nền tảng triết học của phật giáo lên một tầm cao vô cùng cao, cái này tao biết. Nhưng việc đọc nhiều kinh điển, nhiều bài luận thì có ý nghĩa gì khi trong cuộc tranh luận này, bạng toàn sử dụng các từ ngữ miệt thị kẻ khác, nó chẳng có ý nghĩa gì với cả tao và bạng.

kiểu học của bạng thì cũng chẳng khác gì những thằng tự mãn, ngu xuẩn và óc chó cả, tao có thể chửi bạng,

Mở cái lòng của mình ra để tăng sự hiểu biết, các nhà triết học phương tây có những nền tảng triết học vô cùng cặn kẽ về cuộc sống, về động lực cho sự sống, như hegel với công trình đồ sộ là Hiện tượng học tinh thần, Kant với triết học khoa học, làm nền tảng cho sự phát triển vô cùng vĩ đại của nhân loại.

còn riêng về Phật, tao không có ý kiến gì về ổng cả, với tao ổng là một người đã chết, có lẽ ổng đã chết một cách hoàn toàn thoải mái, đã hoàn thành xong những thứ cần phải làm, đã đặt xuống những gánh nặng và thật sự vui vẻ mà không thấy một chút nào đau khổ. Đó là kết quả thong qua quá trình của ông đạt được, nhưng những thứ ổng dạy chưa chắc đã được truyền dạy một cách chính xác, thậm chí đến những bản kinh cổ nhất cũng được ghi chép cách lúc phật chết hàng trăm năm,

Nói ra để có thể tìm thấy những điểm cần phải xem xét, trên con đường thực nghiệm, mày đừng làm xấu mặt người mày tin tưởng vào giáo lý của ổng.
hí hí hí
Viết chi dài dòng, tóm lại m ko tin có tái sanh hay cũng còn nghi hoặc về sự luân hồi. Thế thì còn ngại gì nữa cứ sống thoải mái theo ý thích mà thôi.
Đúng như m nói, nếu không có sự tái sinh thì không cần phải tu tập.
 
việc kêu gọi xót thương trong khi đưa ra luận điểm là một cách sử dụng cảm xúc để lấn át đi lý trí, tuy hòa bình và sự cảm thông là rất quan trọng nhưng không phải tranh luận và phản biện là xấu và không cần thiết cho đời sống tìm đến chân lý.
Chớ tranh luận (có thể hiểu là tranh luận một cách vô bổ) chứ không phải là tranh luận một cách thực chất, tranh luận một cách nhìn vào sự thật, chứ không phải công kích cá nhân. Nếu như cứ không tranh luận đó là một hình thức né tránh hơn là giải quyết cái vấn đề hiện hữu.

còn về bài kinh của bạng trích dẫn và lập luận tao xin có một vài bình luận như sau:

ở đây có một sự nhầm lẫn giữa tranh cãi vị kỷ và tranh luận vì chân lý, cụ thể bài kinh lên án những cá nhân sử dụng luận điểm của mình để bảo vệ sự tự tôn nhưng không hề nói đến việc tranh luận để tìm kiếm được sự thật là sai trái. Nếu như không tranh luận thì những quan điểm sai lầm sẽ cứ mãi còn đó và tri thức thì cứ mãi trì trệ.

khi bài kinh nói sự thật chỉ có một, nhưng không đề cập đến cách thức đi đến với chân lý chỉ có một, nên việc tranh luận để tìm được con đường đi đến gần chân lý nhất là cần thiết, và phải được thực hiện liên tục thông qua thực hành, cùng nghiền ngẫm và lý trí dẫn dắt chứ không phải là cảm xúc bộc phát từ tình yêu, hay lòng tin gì đó.

như vậy

Thay vì né tránh tranh luận, chúng ta cần tranh luận một cách đúng đắn
Không chấp ngã, không bảo thủ
Tôn trọng đối phương, tránh công kích cá nhân
Luôn tìm kiếm chân lý thay vì chỉ cố chứng minh mình đúng
Quan điểm góc nhìn cá nhân của mỗi người là khó tránh khỏi. Bản thân t thì chủ trương không bắt ép, nhồi sọ ai phải nhìn nhận hay hiểu vấn đề phải giống mình. Mọi sự đúng nghĩa là tuỳ duyên luôn.

Còn bài Kinh trên rất là sâu, khi rảnh t sẽ post thêm phần giải thích.

Nghe video này tham khảo để nhẹ lòng, ngủ ngon nè :sweet_kiss:

 
Viết chi dài dòng, tóm lại m ko tin có tái sanh hay cũng còn nghi hoặc về sự luân hồi. Thế thì còn ngại gì nữa cứ sống thoải mái theo ý thích mà thôi.
Đúng như m nói, nếu không có sự tái sinh thì không cần phải tu tập.
không hẳn, việc không có tái sinh nó ít ảnh hưởng đến quyết định tu tập

nếu tao muốn có một hạnh phúc trong đời sống hiện thực thì việc tu tập có thể mang lại hạnh phúc thì tại sao không thực hành,vậy giá trị cốt lõi nó vẫn nằm ở hiện thực đúng chứ.

việc đặt sự hoài nghi vào tái sinh, khong phải là làm suy yếu nền tảng của phật giáo, mà theo ý kiến của tao nó còn có thể lược bỏ phần lớn những thứ rườm rà mà các truyền thống tin vào tái sinh khác cài cắm vào trong phật giáo

ví dụ như linh hồn chuyển thế, v.v.....

như vậy sự phát triển đòi hỏi phải có các hoài nghi về những yếu tố không chắc chắn.
 
Quan điểm góc nhìn cá nhân của mỗi người là khó tránh khỏi. Bản thân t thì chủ trương không bắt ép, nhồi sọ ai phải nhìn nhận hay hiểu vấn đề phải giống mình. Mọi sự đúng nghĩa là tuỳ duyên luôn.

Còn bài Kinh trên rất là sâu, khi rảnh t sẽ post thêm phần giải thích.

Nghe video này tham khảo để nhẹ lòng, ngủ ngon nè :sweet_kiss:

tao thích cách bạng đưa ra luận điểm, rất hợp lý và không công kích cá nhân.

nói chung quan điểm cá nhân là mọt giả định, và giả định đó cần phải được kiểm chứng bằng những bằng chứng ủng hộ và những bằng chứng không ủng hộ.

Phương tây chúng nó còn học cả về phật giáo trong tiết triết học của tụi nó nữa kìa, chúng nó học hết những thứ tinh hoa của nhân loại....
 

Có thể bạn quan tâm

Top