Âm và Dương là 2 cực khác nhau, như Sáng và Tối...
10 thiên can, 12 địa chi chia ra thành nửa phần đối đãi nhau.
Can và Chi được giải thích là những giai đoạn sinh trưởng có trật tự cố định trong trời đất, từ lúc nẩy mầm, vươn lên, trưởng thành, thuần thục, kết hoa trái, thành quả, sinh hạt, suy tàn và chết.
- Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm (+)
- Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quí (-)
- Chi dương: Dần, Ngọ, Thìn, Tuất, Thân, Tí (+)
- Chi âm: Mão, Tỵ, Sửu, Mùi, Dậu, Hợi (-)
Ngũ hành là 5 khí tương tác lẫn nhau làm cho sự vật ra đời: Thổ, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Ngũ hành cũng chia 2 loại Dương và Âm.
- Giáp= Can Dương Mộc
- Ất = Can Âm Mộc
- Bính = Can Dương Hỏa
- Đinh = Can Âm Hỏa
- Mậu = Can Dương Thổ
- Kỷ = Can Âm Thổ
- Canh = Can Dương Kim
- Tân = Can Âm Kim
- Nhâm = Can Dương Thủy
- Quý = Can Âm Thủy
- Thìn, Tuất = Chi Dương Thổ
- Sửu, Mùi = Chi Âm Thổ
- Thân = Chi Dương Kim
- Dậu = Chi Âm Kim
- Tí = Chi Dương Thủy
- Hợi = Chi Âm Thủy
- Dần = Chi Dương Mộc
- Mão = Chi Âm Mộc
- Ngọ = Chi Dương Hỏa
- Tỵ = Chi Âm Hỏa
Tính chất của các Can và Chi cùng khí chất kể trên có quan hệ với nhau theo nguyên lý của Dịch, chúng ta chỉ cần nắm vững các nguyên tắc này:
1. Đồng hành, đồng cực thì đẩy nhau (kỵ nhau nhưng không hại nhau):
- Thìn Tuất (cùng là +Thổ); Sửu Mùi (cùng là -Thổ)
2. Đồng hành mà khác cực thì hút nhau (tương trợ cho mạnh lên):
- Giáp Ất (+ - Mộc)
- Bính Đinh (+ - Hỏa)
- Mậu Kỷ (+ - Thổ)
- Canh Tân (+ - Kim)
- Nhâm Quý (+ - Thủy)
- và các Chi: Tý Hợi, Tỵ Ngọ, Dần Mão, Thân Dậu
3. Khác hành mà nghịch nhau (hành này hủy diệt hành kia):
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa # Kim
- Kim # Mộc
- Mộc # Thổ
- Thổ # Thủy
4. Khác hành mà tương sinh (hành này sinh lợi cho hành kia):
- Thủy sinh cho Mộc
- Mộc > Hỏa
- Hỏa > Thổ
- Thổ > Kim
- Kim > Thủy
5. Khác hành mà đồng cực thì càng sinh hoặc khắc mạnh hơn! Nếu là tương sinh thì hành đi sinh lợi sẽ bị hao tổn khí lực, hành được sinh sẽ vững mạnh. Nếu là tương khắc thì hành đi khắc cũng hao mòn rất nhiều và hành bị khắc đã yếu lại còn yếu hơn, mau chóng lụi tàn!
6. Khác hành mà khác cực: Tốt hay Xấu thì tùy theo tính âm dương của 2 đối tượng.
- Nếu chủ thể là dương mà bị thể là âm thì sự sinh hay khắc bình thường, thuận lý âm dương.
- Nếu chủ thể là âm, bị thể là dương thì sinh/khắc yếu đuối. Đôi khi chủ thể âm trường hợp này còn đau đầu xứt trán là khác nếu không có cứu giúp.
6 trường hợp trên sẽ gặp phải trong những cách xung, hợp, khắc, hại của Can và Chi như sau:
* CAN hợp nhau:
- Giáp +mộc hợp Kỷ -thổ (hóa Thổ)
- Ất -mộc hợp Canh -kim (hóa Kim)
- Bính +hỏa hợp Tân -kim (hóa Thủy)
- Đinh -hỏa hợp Nhâm +thủy (hóa Mộc)
- Mậu +thổ hợp Quý -thủy (hóa Hỏa)
Những cặp trên gặp nhau có HỢP nhưng không phải lúc nào cũng HÓA được (tức là 2 hành hợp lại chỉ còn 1 hành và rất mạnh). Cũng vậy, khi Chi gặp nhau mà tương hợp cũng sẽ có khi hóa được nếu gặp điều kiện đúng:
* CHI hợp nhau - Các bạn để ý có 2 trường hợp khác biệt cần chú ý vì hay nhầm lẫn:
1)- Lục hợp âm dương (1 âm và 1 dương khác hành, hợp nhau gặp đúng điều kiện sẽ hóa chung lại thành 1 hành):
- Tí +thủy hợp Sửu -thổ (hóa Thổ)
- Hợi -thủy hợp Dần +mộc (hóa Mộc)
- Mão -mộc hợp Tuất +thổ (hóa Hỏa)
- Thìn +thổ hợp Dậu -kim (hóa Kim)
- Tỵ -hỏa hợp Thân +kim (hóa Thủy)
- Riêng Ngọ +hỏa là Thái Dương và Mùi -thổ là Thái Âm có hợp mà không bao giờ hóa.
2)- Nhị hợp âm dương (1 âm và 1 dương cùng hành):
- Tý Hợi (+ - thủy)
- Dần Mão (+ - mộc)
- Tỵ Ngọ (+ - hỏa)
- Thân Dậu (+ - kim)
- Cặp Thìn Tuất và cặp Sửu Mùi (+ - thổ)
* CAN xung khắc (theo cơ chế đồng cực mà khác hành):
- Giáp Mậu (+mộc +thổ)
- Ất Kỷ (-mộc -thổ)
- Bính Canh (+hỏa +kim)
- Đinh Tân (-hỏa -kim)
- Mậu Nhâm (+thổ +thủy)
- Kỷ Quý (-thổ -thủy)
- Canh Giáp (+kim +mộc)
- Tân Ất (-kim -mộc)
- Nhâm Bính (+thủy +hỏa)
- Quý Đinh (-thủy -hỏa)
Khi Can xung khắc nhau mà ở giữa có Can hóa giải theo lý "tham sinh kỵ khắc" thì không còn xảy ra xung khắc nữa. Thí dụ: Giáp can năm khắc Mậu can ngày, nhưng có can tháng là Bính hỏa thì Giáp sinh cho Bính, không khắc Mậu nữa. Để ý là Bính dương hỏa mới tốt, chứ Đinh âm hỏa lại không cứu giải được trường hợp này.
* CHI xung nhau là các chi trên biểu đồ đối nghịch nhau và có hành tương phản tạo thành "lục xung" rất mạnh:
1)- Tứ Xung (đồng cực khác hành)
- Tý Ngọ (cùng là dương, thủy khắc hỏa)
- Tỵ Hợi (cùng là âm, thủy khắc hỏa)
- Mão Dậu (cùng là âm, kim khắc mộc)
- Dần Thân (cùng là dương, kim khắc mộc)
2)- Nhị xung (đồng cực đồng hành; chỉ có Thổ; nhưng xung mà không có khắc):
- Thìn Tuất
- Sửu Mùi
Ngoài ra còn có loại HẠI nhau, như ỷ mạnh hiếp yếu vậy, cho dù là tương sinh như Ngọ hỏa sinh cho Sửu thổ; Ngọ là dương, Sửu là âm, nhưng Ngọ và Sửu đứng đối nhau trên đồ hình tính theo cực âm-dương nên hại nhau chứ không sinh cho nữa. Điều này không theo cơ chế Khác Hành Sinh Khắc (điểm 4 bài đầu tiên), các bạn nên chú ý, loại tương hại này chỉ để tham khảo thêm mà thôi.
- Tí Mùi
- Sửu Ngọ
- Dần Tỵ
- Mão Thìn
- Thân Hợi
- Dậu Tuất
Các bạn có để ý rằng khi nói đến Địa Chi thì không đề cập đến quan hệ tương sinh (thí dụ như không nói Tí sinh Mão, hay Thìn sinh Dậu..) mà chỉ luận đến quan hệ KHẮC, XUNG, HÌNH, HẠI của các chi lẫn nhau mà thôi.
Nhưng các Chi có hợp lại thành HỘI hay thành CỤC, cũng là nằm trong ý nghĩa của sự tương trợ, tương sinh cho nhau và chỉ có ảnh hưởng mạnh khi chúng tụ họp lại. Khi xét trong Tử bình, đầu tiên là xét Tam hội, sau đó là Tam hợp Cục, vì lý do khí của tam hội mạnh hơn khi chúng dồn về 1 phương hướng, khí của chúng "thuần" nên rất mạnh, còn Tam Cục thì do vòng trường sinh tạo thành, lẫn nhiều tạp khí.
Cát hay Hung của Hội hay Cục là tùy theo tứ trụ. Có khi cần phải cần giải tán Hội, Cục để cứu lấy thân.
* Tam Hội
1) Phương Đông Mộc = Dần Mão Thìn
2) Phương Nam Hỏa = Tị Ngọ Mùi
3) Phương Tây Kim = Thân Dậu Tuất
4) Phương Bắc Thủy = Hợi Tý Sửu
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là thổ trung ương, theo tiết trời là những tiết cuối của 4 mùa.
* Tam Cục
1) Thủy Cục = Thân Tí Thìn
2) Mộc Cục = Hợi Mão Mùi
3) Hỏa Cục = Dần Ngọ Tuất
4) Kim Cục = Tị Dậu Sửu
Theo bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt của ngũ hành, thí dụ như hành Thủy trường sinh ở Thân (kim sinh thủy), vượng ở Tí (thủy đồng hành) và mộ ở Thìn (thổ cuối mùa Xuân), cho nên Thân-Tí-Thìn hợp lại thành Cục Thủy.
Các Thiên Can có quan hệ với nhau thì đầy đủ, có Sinh, có Khắc, có Hợp và Hóa. Chính vì thế mà dưới các Chi lại phải tìm Can tàng trong nó, tức là bản khí trời sinh ra của nó. Có Chi thuần khí, có Chi bị tạp khí. Nhưng chung quy là Tử bình xét qua Địa nguyên (CHI) tìm lại bản chất khí ban đầu của Thiên nguyên (CAN), và như thế cũng là tìm được Nhân nguyên (NGƯỜI).