• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Tự học trứ trụ!

Mình lập topic này có 2 mục đích:

1- Mình muốn các bạn tự học và tự coi cho mình và người thân, sau k phải đi nhờ vả ai nữa.
2- Mình muốn thông qua topic này, trình bày thêm cho các bạn một số con đường để cải tạo số mệnh, một số sẽ chỉ cho bạn cách nghĩ thế nào là đúng.

Mình lưu ý trước là việc học mấy cái này, tốn thời gian nếu thực sự các bạn k ngộ được. Ngộ ở đây là sự ngẫm nghĩ, sự tự cật vấn bản thân. Nên mình mong, các bạn hãy kiên nhẫn.

Sau khi các bạn hoàn thành sẽ được gì:

1- Sẽ có một nhân sinh quan khác hẳn với bây giờ, thay đổi để thôi đẩy.
2- Tự coi được cho mình và ng thân.
 
Phần Kỹ thuật!

"Dụng thần chuyên tầm nguyệt lệnh, dĩ tứ trụ phối chi, tất hữu thành bại."

Có nghĩa là tìm dụng thần trong chi tháng là điều kiện thứ nhất, sau đó xem xét quan hệ của ngũ hành giữa các can chi còn lại, cách cục của tứ trụ từ đó mới biết là thành hay bại.

Thành tức là thành công, đạt được cách, còn gọi là nhập cách.

Bại là thất bại; cách cục của tứ trụ bị phá.

Giữa "Thành" và "Bại" còn xét được "Kị" và "Cứu Ứng".

Kị tức là cách cục không nên gặp, mức độ bị phá cách nhẹ hơn "bại".

Cứu ứng là khi gặp phá cách lại được giải thoát.

1. QUAN CÁCH

Thành > Quan gặp Tài và Ấn, không bị hình, xung, phá, hại, không vong.

Bại > Quan gặp Thương quan, Quan bị khắc chế, bị xung mất, hợp mà trở thành kị thần, gặp không vong

Kị > Quan gặp Tài mà lại thêm Thương quan

Cứu ứng > Quan gặp Thương quan nhưng có Ấn giải. Khi Quan Sát hỗn tạp, Sát hay Quan được hợp. Quan bị hình, xung, nhưng được tam hội, tam hợp hiệp giải.

2. ẤN CÁCH

Thành > Ấn yếu, gặp Sát hay Quan thấu can, dụng được Thực Thương để tiết khí. Hoặc Ấn quá mạnh gặp được Tài tinh vượng khí; Ấn cách thành công

Bại > Ấn cách quá yếu lại gặp Tài. Hoặc thân cường vượng, Ấn cách quá mạnh, lại có Sát. Như vậy Ấn cách bị hỏng.

Kỵ > Ấn cách gặp Thực thần, kị gặp Tài vượng thấu can

Cứu ứng > Ấn cách hiện Tài, có Kiếp hiện để khắc Tài hộ Ấn. Hoặc có Kiêu hiện để hợp Tài.

3. TÀI CÁCH

Trong tất cả các cách, chỉ có Tài cách là đặc biệt cần Thân cường vượng. Tài và Thân có lực ngang nhau. Đúng là để Sang Quý thì dễ hơn Giàu. Vì Giàu thì bản thân cần phải có sức khỏe, có một cái đầu giải quyết sự việc tốt, uy tín và đối nhân xử thế cho trọn vẹn nghĩa tình!

Thành > Tài tinh là để sinh Quan, có Tài cách gặp Quan là hữu dụng. Tài cách gặp Thực sinh, lại có Tỉ Kiếp thì thân cường vượng, gặp Ấn vượng.

Bại > Tài cách yếu mà gặp nhiều Tỉ Kiếp. Tài cách gặp Sát thấu.

Kỵ > Tài cách sinh Quan, kị gặp Thương hay bị hợp

Ứng cứu > Tài cách gặp Tỉ Kiếp mạnh, có Thực tiết khí thân. Hoặc thấu Quan để khắc chế Tỷ Kiếp. Tài cách gặp Sát mà được Kiếp hiện hợp Sát, hoặc có Thực chế ngự Sát.

5. THỰC THẦN CÁCH

Thành > Thực thần là Cách, có Tài tinh. Thực thần gặp Sát, không có Tài tinh. Thực thần gặp Sát nhưng có Ấn; Thực cách thành công.

Bại > Thực cách gặp Kiêu thần, hoặc Thực sinh Tài gặp Sát thấu.

Kỵ > Thực cách có Sát hay Ấn không nên gặp Tài

Cứu ứng > Thực cách gặp Kiêu thần có Thương hiện hợp Kiêu. Thực cách gặp Tài mà Sát thấu có Kiếp hợp Sát hoặc Kiêu hợp Tài.

6. THƯƠNG QUAN CÁCH

Thành > Thương quan gặp Tài, tất có tiết khí để thành hữu dụng. Thương quan vượng, có Ấn cũng vượng. Thương quan mạnh, thân nhược, có Sát và Ấn. Thương quan gặp Sát nhưng không có Tài. Gọi là Thương quan cách thành.

Bại > Thương quan cách gặp Quan. Thương quan sinh Tài gặp Sát thấu. Thương quan cách gặp Ấn trọng thì thân vượng mà Thương nhược, cũng đều làm cho Thương quan cách bị phá.

Kỵ > Thương quan cách sinh Tài, nhưng Tài bị hợp

Cứu ứng > Thương gặp Quan mà có Thực hiện hợp Quan hoặc có Tỷ hiện hợp Quan. Thương sinh Tài gặp Sát mà có Kiếp hiện hợp Sát.


7. Dương Nhận Cách (Kiếp Cách)

Thành > Nhật chủ gặp lệnh tháng là Kiếp gọi là Dương nhận cách (đế vượng). Nếu thấu Quan Sát hay Tài Ấn đều hữu dụng.

Bại > Dương nhận cách không có Quan hay Sát

8. KIẾN LỘC CÁCH

Thành > Lệnh tháng là Lộc (lâm quan), thấu Quan lại có Tài, Ấn, hoặc thấu Tài có Thực Thương đi kèm. Thấu Sát được chế phục, như vậy Kiến lộc cách thành.

Bại > Kiến lộc cách không có Tài Quan, lại thấu Sát và Ấn là bại.

9. SÁT CÁCH

Thành > Thân cường vượng có SÁT chế ngự, gọi là Sát Cách.

Bại > Sát cách gặp Tài tinh mạnh lại không có Ấn chế ngự.

Kỵ > Sát cách có Ấn lại thấu Tài tinh. Sát cách có Thực chế lại gặp Ấn

Đây là 9 cách cơ bản của tử bình, thật ra chỉ có 8 cách. Nhưng mình phân ra làm 9 cách cho mn dễ hình dung. Có tất cả 10 Thần, nhưng lại chia cách ít hơn, là bởi vì cổ nhân xem Kiêu và Ấn đồng loại nhau. Chính Tài và Thiên Tài đồng nhau.

Đến đây, mn có thể tự lấy lá số ra, định hình cơ bản về Cách của mình sẽ ntn. Thành hay bại, có gặp trường hợp kỵ gặp hay k. Nếu có thì có ứng cứu hay không. Nếu k có ứng cứu tại nguyên mệnh thì CHỮ nào là ứng cứu trong vận. Lẽ dĩ nhiên, vận đó sẽ là vận huy hoàng nhất trong cuộc đời của bạn!
 
Ở phần trên, mình có nói về trường phái Cách Cục. Mà mình mới chỉ giới thiệu đến phần cách, vậy phần Cục là gì.

Cục là cục chính là sự linh hoạt giữa các Chi. Ví dụ, nếu sinh ngày Nhâm, tháng Tý, là Dương nhận cách (Kiếp cách), chi hội đủ Thân Tý Thìn là Thủy cục thì Kiếp cách bây giờ cực kỳ vượng thịnh. Lúc này, tùy vào trạng thái của Nhâm gần với Thìn hay Thân, giờ sinh của nó ntn để xác định nó có thể Tòng hay Không, nếu Tòng thì là tòng thật hay tòng giả.

Vấn đề này cực kỳ phức tạp. Không thể nói hết một sớm một chiều, mặc dù chỉ có 8 chữ nhưng có tới hàng trăm, hàng ngàn chi khác nhau, dù cùng một nhật chủ sinh vào tháng đó. Tìm lý trong số, tìm số trong lý nó khó nhất ở đây.

Cách giải quyết tốt nhất là thử và sai, với điều kiện, các kiến thức cơ bản ở bên trên mọi người phải thật nắm vững. Có như vậy thì mới biết mình sai ở đâu. Cách thực hành tốt nhất là kiếm lá số của mình và người thân, bắt đầu nhớ lại quá khứ, gặp vấn đề ở điểm gì, khi nào.

Trong quá trình luận, các bạn nên đặt mình vào bản thân của lá số, nó sẽ nôm na cho bạn biết, cách nó vận hành ra như thế nào. Thời điểm đó các bạn phải làm gì. Nói cách khác, nó sẽ cho bạn một hoàn cảnh, bảo bạn là phải làm sao để sinh tồn trong hoàn cảnh này.

Đó là ý nghĩa quan trọng nhất của việc học tứ trụ: Giải quyết bài toán sinh tồn.
 
Tứ trụ coi giờ là Con cái, là cung vị thiên di, sự nghiệp.

Giả sử như k biết giờ nào, thì coi năm nào có sự biến động nhất về ba yếu tố kể trên thì xác định được.

Tuy nhiên, đúng giờ nhưng can giờ lại khác biệt hoàn toàn. Nó giải thích cho trường hợp sinh đôi, sinh ba mà số phận lại khác nhau.
Dựa vào giờ động tâm
 
Nguyên lý cơ bản:

Nguyên lý 1. Dụng thần biến hóa:

- Nguyệt lệnh thấu can thì lấy thần Thấu can làm dụng.
- Nguyệt lệnh hội chi thì lấy hợp thần làm dụng.
- Nguyệt lệnh tàng can lúc không thấu lộ không hội hợp, mới cân nhắc lấy thần ti sự cùng bản khí chi tháng tàng can làm dụng

Ví dụ:
1) Đinh sinh tháng Hợi, vốn là Chính Quan, chi đủ Mão Mùi, thì hóa thành Ấn.
2) Kỷ sinh tháng Thân, vốn thuộc Thương quan. Tàng Canh thấu Nhâm, thì hóa thành Tài.

Nguyên lý 2. Nhật chủ vượng suy:

Trường phái vượng suy cho rằng, thân cường vượng mới có thể đảm nổi Tài Quan. Thân vượng cường là gì?

- VƯỢNG là khi được mùa sinh. SUY là khi không được mùa sinh.
- CƯỜNG là khi có Ấn sinh, Tỷ Kiếp trợ. NHƯỢC là khi không có Ấn sinh, Tỷ Kiếp trợ.

2 lý lẽ này cơ bản là không thể tách rời, cũng không thể gộp chung lại, ví dụ, vượng thì sẽ cường, suy thì sẽ nhược. Cường là cường mà vượng là vượng.

Cường vượng thì hóa tiết thân, suy nhược thì phù thân. Đó là lý của vượng suy phái.

Ở đây, mình k phân biệt hai phái giữa vượng suy và cách cục. Mn có thể theo cách nào cũng được, miễn sao có thể đoán đúng được quá khứ, hiện tại và tương lai là được, tử bình là môn dự báo, dự đoán. Cũng giống như các môn khoa học dự báo khác như Dự báo thời tiết dùng các mô hình toán học khác nhau, phương pháp dự báo khác nhau, ngay cả việc áp dụng với các hình thức khác nhau để dự báo như Máy học - Machine Learning, Học sâu - Deep Learning, thì giữa chúng và thực tế vẫn luôn tồn tại sai số. Chúng ta chỉ có thể giảm bớt sai số qua quá trình Thử và Sai, loại bỏ hoặc sử dụng cả hai phương pháp cùng một lúc để phân tích, tất nhiên, dù sử dụng phương pháp nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn cần sử dụng một phương pháp làm chủ đạo, luyện tập thành thục nó để đưa ra quan điểm và nhìn nhận riêng.

Dụng thần chuyên tầm nguyệt lệnh. Gặp Quan xem Tài, gặp Tài xem Sát, gặp Sát xem Ấn, gặp Ấn xem Quan. Là bởi vì Ấn có thể hóa Sát sinh Thân, Thực có thể chế Sát, Dụng Quan thì kỵ Thương, dụng Tài thì kỵ Kiếp, cùng với nhật chủ Vượng Suy là k liên quan.

Nguyên lý 3: Sinh vượng tử tuyệt

Phán đoán ngũ hành cường nhược lớn nhất là hai chữ Kiếp Mã là "Căn" và "Khí" . Chỗ gọi là "Đắc căn" là chỉ thiên can ở địa chi phải cùng loại ngũ hành, như Giáp Ất mộc tức là gặp một trong các vị trí Dần Mão Mùi Thìn Hợi. Chỗ gọi là "Đắc khí" là chỉ ngũ hành ở vào giai đoạn sinh trưởng, như Giáp mộc ở Tý ở Sửu, mặc dù vô căn, nhưng nơi chỗ đất mộc dục và quan đới, là có sinh khí, cũng có thể nhận Tài Quan Thực Thương. Giáp mộc dù là ở Tuất, cũng là ở chỗ giai đoạn gọi là "Tiến khí", một điểm có khí nếu so với ở đất Ngọ Dậu. Tất
nhiên, tiến khí không phải đắc khí, đắc khí không phải đắc căn rất có lực. Về phần trường sinh, ý
vốn là chỉ thực vật ở giai đoạn nảy sinh, mặc dù bộc phát sức sống, nhưng vẫn chưa to lớn,
không thể đoán là mạnh mẽ. Cùng loại mộc dương can như cây nhãn, gỗ lim, tùng bách, rễ to khí mạnh, lớn lên thì đâm ra cành nhánh, làm mát đất xanh trời, còn mộc âm can lại như hoa cỏ rong rêu, rễ nhỏ khí yếu, tức là khi lớn lên vẫn là vật mềm yếu, không thể lấy dùng làm cây đòn tay, nếu như vẫn là ở trạng thái trường sinh vậy sẽ chưa thể nói đến vượng cường. Dương trường sinh ngõ hầu không thể đoán mạnh, âm trường sinh đoán nhược là chính xác, mà còn là rất nhược.
Nếu lấy tỉ số phân ra mà luận, thì Ất mộc ở Hợi là 5 phần, ở Tý là 4 phần, ở Sửu là 3 phần, ở
Mão Dần là 8, 9 phần, ở Thìn là 10 phần, ở Tị là 1 phần, ở Ngọ là 2 phần, ở Mùi là 6 phần, ở
Thân là 3 phần, ở Dậu là 0 phần, ở Tuất là 1 phần. Trong đó, được 1, 2 phần cơ bản là ở chỗ đất
tử tuyệt là trạng thái vô khí, Ất mộc như vậy, âm can còn lại cũng không ngoại lệ. Do đó, âm can
trường sinh có thể quên đi không kể.

Do đó, Ất Vượng ở Thìn, Quý vượng ở Sửu, Đinh Kỷ vượng ở Mùi, Tân vượng ở Tuất. Chúng ta loại bỏ thuyết trường sinh cho Âm Can.

Nguyên lý 4. Cách trụ tương Hợp

Can hợp là Giáp Kỷ, Đinh Nhâm, Bính Tân, Canh Ất, Mậu Quý.

Nếu giữa Giáp Kỷ có Canh thì Giáp Kỷ không hợp. Giữa Ất Canh có chữ Giáp hoặc chữ Tân thì Ất Canh không hợp.

Như vậy, bản chất của sự phá hợp là xung, và quan trọng vẫn phải xem lực lượng mạnh yếu của lực xung phá để luận.

Nguyên lý 5: Tài Quan Ấn phá cách.

Trước là Tài sau là Ấn thì vinh, trước Ấn sau Tài thì thành nhục vì tham tài hoại ấn, vì tiền mà bất chấp.
Trước Quan sau Thương thì nhục, trước Thương sau Quan trái lại là thành phúc.
Trước Nhận sau tài thì vinh, trước Tài sau Nhận mà k có Sát thì thành nhục.

Tất cả đều là sự sinh khắc chế hóa của ngũ hành mà thành.

Nguyên lý 6. Quan Sát hỗn tạp

Quan Sát hỗn tạp. Thì chỉ có 4 cách

- Dương Nhận hợp Sát thì khử Sát lưu Quan
- Thực thần hợp Quan thì Hợp Quan Khắc Sát
- Thương quan khắc Quan, thì Khử Quan lưu Sát
- Nhật trụ hợp Quan

Đều lấy Thanh cách mà luận.


Đây là một số vấn đề gặp phải khi bắt đầu học tử bình. Mặc dù nguyên lý thì nhiều, nhưng chúng ta chỉ cần phân biệt rõ:

- Cách chính, cục thanh. Nếu cách k chính, cục k thanh thì cần phải chữ nào để làm cho nó chính và thanh lại. Chữ đó chính là dấu hiệu để ta biết, ta phú quý hay bần tiện: nhờ vận.

- Tất cả đều không rời xa lý thuyết cơ bản của tử bình: sự sinh khắc chế hóa của ngũ hành.
 
Lý thuyết cho lắm mà thực hành k được thì cũng bằng thừa. Nhất là lý và số, càng lý thuyết thì càng nói hay nhưng luận dở ẹc. Âu cũng là cách con ngta chọn.

Bây giờ, mình có thể nhờ một bạn, đăng lá số lên, rồi tự luận theo cách hiểu của mình sau khi đã đọc những bài ở trên. Càng tự luận thì càng dễ thành thục. Được k ạ
 
Chủ thớt lập Group tele hoặc zalo đi cho ae tiện vào học hỏi
 
Phúc trạch của một người biểu hiện ở đâu:

Đó là Niên thai, Nguyệt thai và Thai nguyên. Trong đó Thai nguyên đóng vai trò quan trọng nhất, lý do là nó gần gũi với Nhật chủ.

Tuy nhiên, lý thuyết về thai nguyên có phần bị lung lay, ở chỗ có người thì sinh 9 tháng 10 ngày, có người sinh non, có người sinh trâu. Vậy nên, tùy từng trường hợp mà nhận định, k cứ nào cứ thấy cung thai nguyên ở mệnh thì bảo là phúc trạch của họ nằm ở đó. Thai nguyên có lộc là tốt nhất, kế đến là Thai nguyên có Thực, Quan, Ấn, Tài. Trường hợp xấu là Thai nguyên không vong, có Thương, Sát, Kiêu, Nhận. Nó cho thấy sự không chính thống của Nhật chủ được kế thừa từ chính tổ tông, dòng họ. Nó cũng là dấu hiệu để thấy phúc trạch đến đời của chúng ta có bị tổn hại hay không. Tất nhiên, Sát Thương Kiêu Nhận, còn tùy vào tình huống cụ thể. Tỷ dụ, nếu Sát gặp Nhận, cho thấy Nhật chủ được kế thừa tính năng nổ, xông sáo, khả năng quyền biến từ tổ tông. Thường nói, thông minh không qua Thất Sát, lanh lợi k quá Thương quan. Tuy nhiên vì đặc tính thông minh và lanh lợi, nên nó thường làm Nhật chủ "hồ đồ", coi mình là nhất, là vĩ đại: Thông minh quá thì thông minh hại, khôn ngoan sao lại với Giời. Chính vì đặc tính đó khiến cho nó trở thành xấu, bởi vậy nếu ai có Thương hoặc Sát hiện, thì cứ nhớ lấy 1 điều, luôn luôn phải từ tốn, cẩn thận trong hành vi và lời nói, giữ bản thân luôn điềm đạm k nóng vội hay tự cao. Đó cũng là cách sửa số duy nhất với những người có tính cách như vậy.

Ngoài phúc trạch, còn có Mệnh cung, mệnh cung là nơi quản lý mệnh của mình. Mệnh cung có thể nói ra được chúng ta trước kia là ai, nghiệp của chúng ta đang mang theo là gì. Đã gọi là nghiệp, thì Tài Quan Ấn Thực hay Sát Thương Kiêu Nhận cũng đều là Nghiệp cả. Nếu mệnh cung hiện Kiếp, có thể kiếp trước kia chúng ta bị cướp đoạt tiền hoặc chính chúng ta đi cướp đoạt tiền của ng khác.

Vì là nghiệp, nên chúng ta phải mang theo cả đời.

Nhìn chung, đối với tử bình, hai thuyết trên đây k quá quan trọng bằng hiện tại. Có câu, hạnh phúc là hiện tại. Cũng vì lẽ đó, nếu rảnh, chúng ta có thể suy tư khi nhìn vào 2 cung Thai Nguyên và Cung mệnh. Còn k thì cứ luận đủ 8 chữ, đại vận 2 chữ, lưu niên 2 chữ, tháng 2 chữ nữa là đủ rồi. Tổng cộng, chúng ta có 14 chữ cho tất cả.

Nó tạo thành sơ đồ hệ phương trình, với 8 phương trình cả thảy. Người Trung hoa đã biết đến cách giải phương trình tuyến tính từ rất lâu rồi, cách họ giải thường là suy luận theo lỗi diễn giải. Tương tự như tử bình hay dùng.
 
Để nói về thành công, chúng ta thường chia làm các trường hợp:

- Biết mình, k biết người: thành công ở mức 5-6 phần.
- Không biết mình, biết người: Thành công ở mức 3-4 phần.
- Biết mình, biết người: Thành công ở 8-9 phần.
- K biết mình, k biết người: khỏi cần nhắc đến thành công làm gì.

Vậy để làm sao biết mình, để làm sao biết người. Thì việc đầu tiên là biết mình cãi đã. Để biết được mình, thì ngoài việc đọc lá số bát tự của bản thân, biết được hỷ kỵ, ta phải có một suy nghĩ thật đúng đắn cái đã. Vậy nên để cải số, việc đầu tiên là phải "Tri", nghĩa là phải luôn tăng cường sự hiểu biết của bản thân mình lên.

Ví dụ, trong liễu phàm tứ huấn có đoạn:

Vào thời chiến quốc, dân nước Lỗ thường bị bắt làm sai dịch, nước lỗ đặt ra một luật: Phàm là ng nào có tiền chuộc được bá tánh trở về thì đều dc tưởng thưởng.

Tử cống, là một học trò của khổng tử. Lấy tiền chuộc một số ng về, nhưng ông lại k đi lãnh thưởng. Khổng tử bèn trách, nước lỗ giờ ng giàu thì ít, ng nghèo thì nhiều, nhà nước làm vậy là để khuyến khích mọi người. Nếu k đi lãnh thưởng sẽ làm mn hiểu rằng, đó là một hành động tham. Thử hỏi ng dân có dám bỏ tiền ra chuộc tù nhân về nữa.

Cũng một người khác, là tử lộ, ông này cứu dc người chết đuối, ng thoát nạn tặng một con trâu và Tử Lộ nhận. Khổng tử khen: Dân nước Lỗ từ nay sẽ thích ra sức làm việc nghĩa.

Do đó mà cùng 1 mong muốn, nhưng cách làm khác nhau, là bởi vì "tri" khác nhau sẽ dẫn tới kết quả hoàn toàn khác nhau. Đôi khi hành động của mình nó sẽ tiềm ẩn những nguy hại mà chúng ta k hề hay biết. Bởi vậy, cách để cải số duy nhất là "Tri". K có phong thủy, k có vòng tay, lắc tay, nhẫn nẻo gì có thể thay đổi được vận mệnh của mình bằng chính sự hiểu biết và sự hành động đến cùng của mình.

Việc đeo nhẫn, đeo vàng, đeo vòng hay thậm chí là bùa ngải... mà không bồi dưỡng và tu bổ kiến thức đều xa rời với chính đạo, nó giống như trưởng giả học làm sang vậy. Cũng như phong thủy, nếu gặp phái chính tông thì không sao, nhưng có một phái mà nhật chủ quá yếu kém, thầy phong thủy muốn kéo tài về cho nhật chủ, làm cách này, có cái lợi, đó là nhanh có tiền, nhưng cái hại, là chỉ hết một đời, sang đời sau, lại quay trở về cái máng lợn. Vậy nên, phong thủy tốt nhất của đời người chính là cái đầu dùng để tư duy của mình vậy.


Giống như Chính tài cách, đặc điểm thành công của nó là có Thương Thực sinh, có Sát Quan hộ tài, tránh xa Kiếp. Lập luận theo lẽ thường tình: Để có tiền một cách vững chắc, có phải chúng ta phải có năng lực, chăm chỉ làm việc theo đúng khả năng và chuyên môn, tìm cho mình một nghề nghiệp hợp khả năng của mình và quan trọng là không có tính Tham lam.

Tất cả cách cách, cục đều có một nhân sinh quan đi kèm. Chúng ta học luận mệnh, là để chúng ta hiểu được nhân sinh quan của đời mình là gì và theo đuổi chúng. Dụng thần cũng như vậy mà thay đổi theo từng ngày, từng tháng từng năm.

Tài thần, biểu thị cho nhu cầu và mong muốn của ta. Tài thần ít, cho thấy nhu cầu và mong muốn kiếm tiền k cao. Tài thần nhiều, cho thấy nhu cầu và mong muốn của mình nhiều mà bản thân mình k đủ khả năng. Tài bị Kiếp đoạt, cho thấy sự cạnh tranh, cướp đoạt khi kiếm tiền. Tài gặp Sát mà vô chế, cho thấy bản thân ta có suy nghĩ và hành động sai lầm trong cách kiếm tiền và từ đó mà mang họa, Tài phá Ấn cho thấy sự bất chấp trong phong cách kiếm tiền.

Mỗi một cách như trên đều có một phương pháp để thay đổi bản chất.

Như gặp Kiếp thì ta lấy Quan, như chúng ta hợp đồng với bạn hàng, nhà cung cấp cụ thể, tỷ mỉ, quan điểm tiền bạc hàng hóa rõ ràng, đúng pháp luật, chọn bạn mà chơi.

Tài phá Ấn thì chúng ta phải thay đổi cách kiếm tiền bấy lâu nay lại.

Tài gặp Sát mà k có chế, thì chúng ta phải lấy Thực lấy Thương là tư duy của chúng ta để chỉnh nắn lại suy nghĩ và hành động của mình.
 

Sao topic là tự học tứ trụ mà cứ toàn mình độc thoại vậy nhỉ.

Để cho mọi người dễ nắm bắt, mình sẽ luận theo 1 barem như thế này, sau này mn muốn tự học, có thể tự theo đó mà làm:

-----
Công việc đầu tiên trước khi xem, là coi can nào nắm lệnh trong tháng và can nào nắm lệnh ở giờ sinh. Mục đích là để biết được, Thần nào thừa hành, thần nào vượng khí, để biết thần đó nó có lực hay không có lực.

- Ngày 5/1/1992, tiết Lập xuân là 21h58 phút ngày 4/2 DL, tức 1/1 AL. Trong tiết này, Mậu 7 ngày, Bính 7 ngày, Giáp 16 ngày, do đó, trong chi tháng, can tàng bản khí là Giáp, nhưng Can thừa hành hiện tại là Mậu.

- Ngày 5/1/1992, giờ Tị là 8h30-10h30. Giờ Tị, Mậu 2 khắc, Canh 1 khắc, Bính 5 khắc. Sinh lúc 9h30 thuộc khắc thứ 4, Bính hỏa thừa quyền.

Tiếp theo, bắt đầu luận cách:

Ở đây có 2 điều cần chú ý. Thứ nhất, Giáp sinh Dần nguyệt, là Kiến lộc cách. Kiến lộc cách hỷ kiến (tự tạo) ra Tài Quan của riêng mình. Nói cách khác, người Kiến lộc cách sinh ra trong gia đình thường là nghèo. Nghèo thì làm gì có gì để lại cho con, nên phải tự tạo lấy Tài Quan của riêng mình. Thứ hai, ngày Giáp Dần, gọi là chuyên lộc hay tự lộc, nhưng chúng ta lấy nguyệt lệnh để lấy cách, cho nên cứ lấy Kiến lộc cách làm cách.

Vậy kiến lộc cách này Thành hay Bại!

Đầu tiên, tháng Dần bị chi năm Thân (Sát) xung. Giáp sinh Dần nguyệt, thêm ngày sinh tọa Dần. Mộc thừa vượng mà Giáp theo thế Mộc để khắc Thân, Thân lại có Nhâm thấu để tiết bớt khí Kim, nguyệt lệnh lại thấu Kỷ Tài ở trụ giờ để khắc bớt Nhâm. Kỷ lại được chi Tị sinh cho. Vì vậy, kiến lộc cách Thành.

Dụng thần là Tài, hỷ thần là Thương. Kỵ thần là Kiêu Quan Sát Tỷ Kiếp. Nói cách khác, vận và năm có chữ Mậu Kỷ Đinh thì tốt. Vận và năm có Canh Tân Nhâm Quý Giáp Ất thì xấu,

Lý do vì sao dụng Kỷ Tài lại k hỷ Bính Thực. Là vì Nhâm Thiên Ấn hiện, nó dễ khắc đoạt thực mà trở thành Kiêu thần. Dụng tài thì Thương quan là hỷ, hỷ thương thì kỵ Quan nên Tân cũng là kỵ, Canh cũng vậy. Dụng Tài kỵ Kiếp nên Kiếp cũng là xấu.

Bắt đầu áp vào vận:

3 vận đầu, Quý Mão 9-18t, Giáp Thìn 19-28t, Ất Tị 29-38t. Đều là vận xấu, vận Ất Tị hiện tại là xấu nhất.

Vận tiếp Bính Ngọ 39-48t. Thực vượng, Thương vượng, Tài vượng, là vận tốt xấu đan xen, tốt là Dần Ngọ hóa hỏa cục sinh Tài, xấu là Nhâm biến thành Kiêu, là tượng mất vốn liếng, sức khỏe.

Vận Đinh Mùi, là vận đẹp nhất, huy hoàng nhất trong cuộc đời.

Vận Mậu Thân, Kỷ Dậu. Là Sát vận, được Tài sinh, nửa tốt nửa xấu, k đẹp bằng Đinh Mùi.


Bát tự này có vài điểm cần chú ý:

Thứ nhất: Dần Tị Thân tam hình. Dần xung Thân. Cho thấy mối quan hệ giữa nhật chủ và lục thân k được tốt. Dần Thân xung trụ tháng với trụ năm, cho thấy mối quan hệ giữa bố mẹ và ông bà không được trọn vẹn.
Thứ hai: Tài trước Ấn sau thì phát phúc, Ấn trước Tài sau thì dễ bại hoại thanh danh, vì tiền mà bất chấp thủ đoạn.
Thứ ba: năm Thân giờ Tị, là có tật ở tay chân.
Thứ tư. Dịch Mã nhiều là tượng bôn ba vất vả. Văn xương nhiều mà là kỵ thì học hành nhiều mà k thực hành được bao nhiêu.
Thứ năm: Thân là Sát, Sát được Kiêu hóa Tỷ kháng, nhưng lại có Tài sinh. Nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ, đặc biệt là khi Canh Tân thấu can ở năm. Dòng chảy bát tự k biết ngừng ở nơi nào cho thấy sự bất định, mất phương hướng khi hành động.
Thứ 6. Dụng tài, kỵ Kiếp nên đặc biệt, k nên làm ăn chung với bố con thằng nào, đặc biệt là ở vận Ất Tỵ này. Ở vận này, nó nhiều cơ hội đến lắm, mà toàn do ng khác mang lại. Nhưng cẩn thận, bởi vì mỡ đấy mà húp.


----

Mong bạn vunguyenphuong có thể tự đưa ra nhận xét về sự đúng sai trong bài luận. Sự chuẩn bị của bạn trong đại vận sắp tới, cũng như sự thay đổi về nhân sinh quan khi tứ trụ của mình có những cái xấu mà mình phải thay đổi để tốt hơn.
 

Có thể bạn quan tâm

Top