• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý XAMVN Originals | Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra - Mạnh nhất): Nguồn gốc, giáo lý, Bản chất và Vị trí của Tâm, Ma trận của Như Lai 🕉️ (P1/2)

Giới thiệu

Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) là một cuốn sách hướng dẫn toàn diện của Phật giáo Đại thừa, đưa người đọc đến với sự giác ngộ tâm linh theo con đường được mô tả trong những giáo lý cao cấp nhất của Đức Phật Thích Ca.
Nó trình bày đầy đủ chi tiết những hiểu biết, thực tập và những cạm bẫy mà các vị Bồ Tát nhiệt thành phải ý thức rõ khi bước đi trên con đường này. Bởi vì tính thực tế và triệt để của nó, đây thường là văn bản quan trọng đầu tiên mà các nhà sư Thiền tông (Chan/Zen) mới xuất gia được yêu cầu học tập ở Trung Quốc thời Trung cổ và đầu Cận đại. Kinh này ít được biết đến ở phương Tây hơn các kinh Đại thừa khác bởi nó rất khó hiểu nếu không có một vị thầy giỏi, chỉ có các bản dịch chưa hoàn thiện và không đạt tiêu chuẩn của bộ kinh sang các ngôn ngữ phương Tây lưu hành cho đến hiện nay, tính xác thực của nó gây nhiều tranh cãi, và nó rất dài và thiếu hình ảnh lôi cuốn như trong các kinh Đại thừa dài khác, chẳng hạn như Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, nó vẫn là một văn bản quan trọng trong quá trình hình thành Phật giáo Thiền tông, đặc biệt là từ thời nhà Đường đến triều đại nhà Minh. Do ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của Thiền tông Trung Quốc (Chan) và sau đó là Thiền tông Nhật Bản (Zen), nó nhận được sự chú trọng của những người thực hành Thiền đương thời.

jFTDr2Pu.png


Bài viết nhập môn này xem xét lại nguồn gốc và lịch sử của Kinh, tuyến truyện và giáo lý của nó, ít nhất một vài giáo lý trong số đó được xem là không điển hình trong Phật giáo truyền thống.

Nguồn gốc và tóm lược lịch sử

Kinh được đề cập lần đầu tiên trong hai đầu mục do Zhisheng, một nhà sư Trung Quốc, xuất bản vào năm 730. Vì bản gốc và bản dịch của Kinh có sự khác biệt, nên vẫn chưa rõ ai là người đã thực hiện bản dịch gốc và được dịch từ (các) tài liệu tiếng Phạn nào, nếu có. Cả hai bản dịch được cho là đã diễn ra vào khoảng năm 705. Vì không tìm thấy bản sao gốc tiếng Phạn của Kinh và những giáo lý bất thường trong văn bản (được một số người gọi là giáo lý “phi Phật giáo”), nên nhiều ý kiến cho rằng đó là một ngụy kinh Phật giáo. Ngược lại, Ron Epstein, một người ủng hộ tính nguyên bản của Kinh, kết luận rằng “có vẻ như nguồn gốc của phần lớn tài liệu trong Kinh là từ Ấn Độ, mặc dù rõ ràng là văn bản đã được biên soạn ở Trung Quốc.” Bất luận nguồn gốc của Kinh, nó đã được nghiên cứu rộng rãi và là trọng tâm của hơn một trăm sách bình chú của các hành giả Thiền tông. Kinh tiếp tục là một văn bản chính yếu trong Thiền tông ngày nay, tuy nhiên, ngoại trừ ở Hàn Quốc, nó chưa bao giờ trở thành một văn bản đặc biệt quan trọng ở các khu vực khác của Đông Á và Đông Nam Á, có lẽ vì người ta cho rằng nó được các soạn giả Trung Quốc viết ra ở Trung Quốc.

Câu chuyện và các giáo lý

Kinh Lăng Nghiêm đề cập đến những nhận thức, thực tập và cạm bẫy cần phải nắm bắt trong khi bước đi trên con đường dẫn đến Giác Ngộ vào thời Mạt pháp, như Đức Phật Thích Ca đã truyền dạy.
Những lời dạy này xoay quanh cuộc đối thoại giữa Đức Phật và người em họ của Ngài là Ananda. Để ngắn gọn, ở đây diễn biến câu chuyện được chia thành phần mở đầu và mười phân đoạn. Như các độc giả chuyên sâu sẽ nhận ra, Kinh chứa các yếu tố giáo lý của Duy thức tông, Trung quán tông, và Phật giáo Mật truyền và một lối diễn giải biến hóa về Phật tính.

60tLkh7.png


Phần mở đầu

Kinh mở đầu, Đức Phật đang dự tiệc do vua Prasenjit chủ trì ở thành phố Shravasti khi kết thúc một khóa tu mùa hè. Hơn một ngàn nhà sư lớn tham dự, cùng với các cư sĩ, tất cả đều mong muốn được Đức Phật chỉ dạy để tháo gỡ những thắc mắc về con đường dẫn đến sự Tỉnh thức Đích thực. Chỉ có Ananda, em họ của Đức Phật, vắng mặt. Trước đó ông đã đi qua thành để chấp nhận một lời mời đặc biệt và trên đường trở về, khi đi ngang qua một nhà chứa, ông bị rơi vào cạm bẫy phù phép của một phụ nữ trẻ có ý định quyến rũ ông. Đức Phật từ xa biết rằng Ananda đang bị dính bùa chú, nhanh chóng quay trở lại cơ sở tu viện của mình. Ngài ngồi xuống, từ đỉnh đầu của mình Đức Phật đã làm xuất hiện hình ảnh của một vị Phật an tọa và niệm một câu chú có sức mạnh tâm linh, Chú Lăng Nghiêm. Sau đó, Đức Phật cử Manjusri, một vị Bồ tát cấp cao, đi để bảo vệ Ananda bằng sức mạnh của thần chú, và để đưa ông ấy và người phụ nữ trẻ trở lại nơi Đức Phật cư ngụ.

Trong phần Mở đầu, mày học được rằng: Những người đã chứng ngộ không có những dòng chảy hướng ngoại (dòng chảy của ham muốn, sinh tồn và vô minh); những tu sĩ có định lực chưa đủ mạnh luôn nên đi ít nhất với một người để tránh xa những cám dỗ; các nhà sư không nên nhận những lời mời riêng biệt, mà nên đi cùng các thành viên khác của Tăng đoàn; chấp nhận bố thí như thế nào và ở đâu; và Chú Lăng Nghiêm là vua của các thần chú, mặc dù bản thân nội dung của thần chú vẫn chưa được tiết lộ trong Kinh.

YQmfsvj.png


Phần 1: Bản chất và Vị trí của Tâm

Khi Ananda nhìn thấy Đức Phật, lúc đó Ngài vẫn đang ngồi trước đại chúng, ông cầu xin Đức Phật giải thích cho ông các bước dẫn đến Tỉnh thức. Sau đó, Đức Phật nói với ông ấy về định Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Samādhi) mà tất cả các vị Phật đều đi qua trên con đường đến Tỉnh thức. Ananda đã không thể chống lại bùa mê của người kỹ nữ bởi ông thực hành nhập định chỉ bằng Tâm Trí (the conscious mind) của mình, vì ông quan tâm nhiều hơn đến việc hiểu Pháp hơn là việc thực tập thiền định. Để thực hành định Lăng Nghiêm, một người phải đặt nền tảng cho sự tu tập của mình trên Chân Tâm (the true Mind), cái không sinh, không diệt. Để làm sáng tỏ sự khác biệt, Đức Phật đã tham gia một cuộc thảo luận dài về vị trí của Tâm và bản chất của nó để minh họa sự khác biệt giữa tâm trí bị điều kiện hoá, bị vướng mắc trong những nhận thức ảo tưởng và Chân Tâm. Trong khi tâm trí thì có sinh và diệt, Chân Tâm là vĩnh cửu. Vì hầu hết mày chỉ ý thức về tâm trí của mình, nên mày vẫn bị mắc kẹt trong vòng luân hồi (của sinh-tử bất tận).

Mấy tml học được trong phần đầu tiên này của Kinh rằng: Học Pháp trước hết là không đủ, vì một người cần phải tinh thông thiền định ở mức tương đương; Một người hay chữ không có nghĩa là người đó không có những dòng chảy hướng ngoại; Mấy tml thất bại trong tu tập của mình khi mày nhầm lẫn giữa tâm trí và Chân Tâm vĩnh cửu, do đó tự mở mình ra với những suy nghĩ si mê; Trong suy nghĩ si mê, một người sẽ phân chia các trải nghiệm thành tốt và xấu, đúng và sai, nhưng trong Ma trận của Như Lai (xem Phần 3 bên dưới), không có sự phân biệt như vậy. Bằng cách ý thức về Chân Tâm của mình, tao có thể ý thức đầy đủ về vị Phật (Phật tính) vốn hiện hữu trong tao; Khi mày có thể thấy rằng toàn bộ thế giới của các đối tượng tri giác chỉ là Tâm, thì các đối tượng tinh thần sẽ không còn sinh và diệt. Xuyên suốt bài học, Đức Phật sử dụng suy luận hợp lý, thay vì chỉ đơn thuần tuyên bố rằng một số lập trường là đúng bởi vì Ngài tuyên bố chúng là đúng. Phương thức thuyết giảng này là một đặc điểm riêng biệt của Kinh Lăng Nghiêm.

Phần 2: Bản chất của Nhãn thức (Nhận thức Thị giác)

Sau đó, bằng việc sử dụng nhãn thức như một ví dụ về sáu giác quan, Đức Phật mô tả chi tiết bản chất của chân ý thức, thật ra lại là chân thực tại mà bản thân nó chính là chân không (true emptiness). Mặc dù về cơ bản không có bất cứ thứ gì ở ngoài kia và trong đây, Đức Phật giải thích rằng trải nghiệm của chúng ta về những điều có vẻ như là một thế giới bên ngoài thực chất chỉ là trải nghiệm về những hình ảnh được tạo ra trong Tâm, Kinh gọi điều này là “những sự kiện tinh thần mờ ảo”. Những hình ảnh này xuất hiện khi sự tập trung trong định của chúng ta bị dao động. Luận đầu tiên trong tứ đoạn luận của kinh xuất hiện trong phần này khi Đức Phật lập luận rằng một mặt, bản chất của nhãn thức và các đối tượng hữu hình của ta là như nhau, mặt khác chúng không giống nhau. Phong cách lập luận này dựa trên giả định rằng con người sống trong hai thế giới, một thế giới thông thường hàng ngày bị điều kiện hoá và một thế giới tính không trừu tượng. Trong khi các sự đối lập có thể tồn tại ở thế giới thứ nhất, thế giới thứ hai không thừa nhận nhị nguyên.

sun-wukong-hand.gif


Những lời dạy khác trong Phần 2 là: Khi mày tàn lụi như một thực thể vật chất, một điều gì đó trong mày sẽ không mất đi (Phật tính), vì nó sẽ tiếp tục đi vào một cơ thể khác; Nếu mày chỉ nghe Pháp với tâm bị điều kiện hoá, mày sẽ không hiểu được bản chất thực của nó; và trong khi các vị Phật và các thực thể tâm linh cấp cao khác có sức mạnh tâm linh Thiên Nhãn Thông và có thể nhìn (nghe, v.v.) thấy khắp mọi nơi mà không gặp trở ngại, thì nhận thức thị giác của người chưa giác ngộ bị cản trở vì họ chỉ nhìn thông qua các giác quan (mắt, tai, mũi, v.v.) của cơ thể vật lý của họ.

Phần 3: Ma trận của Như Lai

Trong Phần 3, Đức Phật soi xét chi tiết hơn ý nghĩa của câu nói rằng những suy nghĩ của chúng ta và những đối tượng chúng ta nhận thức là không thật và hư ảo, mặc dù chúng vẫn nằm trong sự giác ngộ cốt yếu, huyền diệu. Trong phần khá dài này, Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng. Vẫn tập trung thảo luận của mình trong phạm vi lý luận Phật giáo, Đức Phật kết luận ở cuối cuộc thảo luận của Ngài về mỗi yếu tố trong mỗi đề mục (sử dụng sắc uẩn làm ví dụ) như sau: “Vì vậy, mày nên biết rằng sắc uẩn là một ảo giác. Nó không hình thành từ các nguyên nhân và các điều kiện, cũng không phải tự nó hình thành.” Trong phần này, Đức Phật cũng phân giải những điều dường như không nhất quán trong giáo lý của Ngài, giải thích rằng chúng là hệ quả của việc giảng dạy cho những người có khả năng hiểu thấp hơn. Ngài kết luận rằng Kinh Lăng Nghiêm là giáo lý tối thượng. Ngài cũng nhắc lại rằng trong khi cơ thể vật lý chết đi, Phật tính vốn có trong mày sẽ tiếp tục sống, vì vậy mày nên tìm hiểu sâu về Phật tính hơn là cơ thể vật lý. Ở cuối phần 3, Ananda đã nguyện sẽ đạt đến giác ngộ để có thể trở lại và cứu vớt những người khác khỏi vòng luân hồi bất tận.

insomnia-cant.gif


Source: mnzencenter.org
1. The 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society is considered the best and most improved translation in English currently available. A long sutra, the Chinese language text consists of some 63,000 characters in ten rolls. For a sampling of discussions about the Sutra from different perspectives, see Low (2000), Fischer (2001), Epstein (1975), and the “Surangama Sutra” entry in the Wikipedia. Also see the “Shurangama Sutra: Text, Commentaries, and Articles” Web site compiled by Ron Epstein.

2. Though obscure in the West, Surangama Sutra scholar David Rounds (2007:75) refers to the Sutra as one of “the world’s religious masterpieces” and extolls the beauty of its language in Chinese.

3. Chinese Buddhist apocrypha are text composed in China by Chinese authors. See Bushwell (1990). For details in the Sutra that make it an apocrypha for some, see Benn (2008).

4. Epstein (1976).

5. According to the Sutra, Buddhism has gone through three periods of declining vitality: the time of the right Dharma when the Buddha was in the world to 1,000 years afterward (c. 500 BCE –500 CE); the time of the semblance of the Dharma then began, which lasted 1,000 years as well (c. 500 – 1500 CE); and the time of the Dharma’s ending, which we are in now and during which people devote themselves to fighting. However, when we sit in meditation and study the sutras, we make the time of the right Dharma appear within the time of the Dharma’s ending. Despite the problem of math here, the point is that in these difficult times the right and true practice must be followed, which is the Surangama samadhi, as taught in the Surangama Sutra.

6. The divisions of the storyline used here are from the Synopsis in the 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society. For other overviews of the Sutra, see Suzuki (2010) and especially Rounds (2007).

7. For Yogacara and Madhyamika Buddhism, see the primers in this series. Esoteric Buddhism is a general term for certain practices originally developed in parallel with Hindu tantra. Among other things, practice involves the establishment and spiritual fortification of a special place of practice and the use of ritual formulae (mantras), gestures (mudras), and visualization techniques. For overviews, see Payne (2006) and Orzech (2011). In early Buddhist thought, Buddha-‐nature refers to the potential to become a Buddha through study and religious practice. After the rise of Mahayana Buddhism, Buddha-‐nature came to be seen as the inherent Buddhahood of any sentient being. In this setting, the task is not to achieve Buddhahood, but to uncover it, for each being is already a Buddha. Under the influence of Tathagata-‐garbha teachings, Buddha-‐nature came to be seen further as a more substantial presence endowed with positive attributes, often termed ‘atman’ (self or soul), as in sutras like the Mahayana Mahaparinirvana Sutra. In the Surangama Sutra, it is from the Matrix of the Thus-‐Come One (thus in Sanskrit Tathagata-‐garbha, the “womb of the Buddha”) that the world and the mind come forth; it has no self, intention, or personality – it is, at least in this Sutra empty, though Buddha-‐ nature passes through successive life forms. See King (1991).

8. Mantras are sacred sounds believed to be imbued with supernatural powers. In the Surangama Sutra, the recitation of the Surangama Mantra is a means of protecting and empowering the mind of oneself or others. This is an aspect of esoteric Buddhism in the Sutra.

9. In Mahayana Buddhism, states of deep trance (forms of samadhi) occur at a vast number of levels. According to the Sutra, the Surangama samadhi is the highest of these levels. Its attainment gives those who attain it the ability to manifest specific miracles. Again, another aspect of esoteric Buddhism in the Sutra. For a general overview, see Shankman (2008).

10. Synonyms of the Matrix of the Thus-‐Come One are the Thus-‐Come One, true reality, our true mind, the suchness of reality, the reality of the universe, the awakened nature of our awareness, and the Tathagata-‐garbha, among others, all of which are epithets of the Buddha.

11. For a brief introduction to Buddhist logic in the context of this Sutra see Rounds (2007:276-‐279). For the tetralemma, see the Madhyamika Buddhist primer in this series. It is important in reading the Sutra to keep in mind that the discussion is a series of logical arguments. Confusion for Western readers often occurs when encountering a tetralemma, for it allows the presence of both something and its absence (both A and not-‐A), for something may be present in the conditioned world (A) but not in the Absolute world which is empty of dualities (not-‐A).

12. This notion of an ever-‐lasting ‘self’ (a Buddha-‐nature) that moves from one body to another is a controversial teaching of some Chinese Buddhist sutras, as mentioned in footnote 7 above.

13. Another expression for the Matrix of the Thus-‐Come One or true reality.

14. The five aggregates consist of form, sense-‐perception, cognition, mental formations, and consciousness. The six faculties are eye, ear, nose, tongue, body, and cognitive faculty. The twelve sites are the eye faculty and visual objects, the ear faculty and sounds (etc.). In the eighteen constituents the six faculties are matched to the six sense-‐objects, and between them are produced the six consciousnesses (the eye consciousness, etc.). The consciousnesses are what make distinctions.



References (Không dịch)​

Anon. Surangama Sutra. Wikipedia. Downloaded from the Web 8/14/2-‐17.

Benn, James A. 2008. Another Look at the Pseudo-‐Suramgama sutra. Harvard Journal of Asiatic Studies, 68(1), pp. 57-‐89.

Bushwell, Robert E. 1990. Chinese Buddhist Apocrypha. Honolulu: University of Hawaii Press. Epstein, Ronald. 1975. Ananda’s Search for the Mind in Seven Locations. Vajra Bodhi Sea, March, pp.

17-‐23.

Epstein, Ronald. 1976. The Shurangama Sutra: A Reappraisal of Its Authenticity. Downloaded from the Web on 8/16/2017.

Fischer, Norman. 2001. Surangama Sutra. A series of talks on the Everyday Zen Foundation Web site. King, Sallie B. 1991. Buddha Nature. Albany: State University of New York Press.

Low, Albert. 2000. The Surangama Sutra. In Zen and the Sutras, pp. 135-‐154. Boston: Tuttle. Orzech, Charles D. (gen. ed.). 2011. Esoteric Buddhism and the Tantras in East Asia. Leiden, The

Netherlands: Brill.

Payne, Richard K. 2006. Tantric Buddhism in East Asia. Somerville, MA: Wisdom.

Rounds, David. 2007. Rescuing Ananda – An Overview of the Surangama Sutra. Religion East & West

issue 7, October, pp. 75-‐95.

Rounds, David. 2014. An Editorial Approach: The Surangama Sutra. Religion East & West, Issue 12, January, pp. 7-‐18.

Shankman, Richard. 2008. The Experience of Samadhi: An In-depth Exploration of Buddhist Meditation.

Boston: Shambhala.

Surangama Sutra Translation Committee. 2009. The Śūrangama Sūtra: With Excerpts from the Commentary by the Venerable Master Hsuan Hua: A New Translation. Burlingame, CA: Buddhist Text Translation Society.

Suzuki, D. T. 2010 [1950]. The Ryogonkyp, or Surangama Sutra. In Manual of Zen Buddhism, 2nd ed.

CreateSpace Independent Publishing Platform.

Ven. Master Hsuan Hua. 1981. Shurangama Mantra Verses and Commentary, in 5 vols., trans.

Buddhist Text Translation Society. Talmage, CA: Dharma-‐Realm Buddhist University. Ven. Master Hsuan Hua. 1996. The Surangama Sutra: Fifty Skandha-Demon States, A Simple

Explanation by the Ven. Master Hsuan Hua
, bilingual edition. Burlingame, CA: Buddhist Text Translation Society.

 
Sửa lần cuối:
Câu trả lời là: chưa có ai tu theo đại thừa mà đắc đạo, vì khi tin vào tha lực, vào vãng sanh cực lạc, thì gần như sẽ bị thiền tưởng, điển hình là Thích Giác Khang. Thích Ca đã nói ko có linh hồn bất biến sau khi chết, mà chỉ có nghiệp thiện hoặc nghiệp ác đi tái sinh. Thích Ca ko cổ súy việc tu hộ, hồi hướng công đức. Còn kinh tiểu thừa cũng được thêm vào khá nhiều yếu tố tâm linh. Chỉ cần hiểu rõ triết lý của Thích Ca là sẽ nhận ra mâu thuẫn của đám đời sau nhét vào ngay.

Bình luận này tiếp tục bày tỏ quan điểm thiên về Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda) và phê phán Phật giáo Đại thừa, nhưng có một số điểm cần xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính khách quan.


1. "Chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" – Đúng hay Sai?

💡 Sai về mặt thực tế và lịch sử.

🔹 Đắc đạo có nghĩa là gì?
  • Theo Nguyên thủy, "đắc đạo" thường được hiểu là chứng A-la-hán, nghĩa là hoàn toàn giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
  • Theo Đại thừa, "đắc đạo" có thể hiểu rộng hơn, bao gồm Bồ Tát Đạo và đạt đến Phật quả viên mãn.
🔹 Có người tu theo Đại thừa đắc đạo không?
📌 Có rất nhiều! Trong lịch sử Phật giáo Đại thừa, có vô số bậc thiền sư, tổ sư đạt ngộ, được kính ngưỡng vì trí tuệ và đức hạnh. Ví dụ:
  • Bồ Tát Long Thọ (Nāgārjuna) – người sáng lập Trung Quán Luận (Mādhyamika).
  • Thiền sư Huệ Năng (Huineng, Lục Tổ Thiền Tông) – đại sư khai sáng Thiền Tông Trung Hoa.
  • Ngài Atisha (982-1054) – một bậc đại trí thức của Phật giáo Tây Tạng.
  • Ngài Milarepa (1052-1135) – đại hành giả Mật Tông Tây Tạng, chứng đạt giác ngộ.
Vậy nên, khẳng định rằng "chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" là không có căn cứ.


2. "Khi tin vào tha lực, vãng sanh Cực Lạc, thì sẽ bị thiền tưởng"

🔹 Thiền tưởng là gì?
  • Trong thiền định, thiền tưởng (ảo tưởng trong thiền) là một trạng thái mà hành giả bị lạc vào ảo giác, không phân biệt được thực tại.
  • Điều này có thể xảy ra với bất kỳ hành giả nào, dù theo Nguyên thủy hay Đại thừa, nếu không tu đúng pháp.
💡 Nhưng tin vào tha lực có nhất định dẫn đến thiền tưởng không?
  • Không!
  • Trong Tịnh Độ Tông, niệm Phật vãng sanh không chỉ là cầu tha lực, mà còn là pháp môn thiền định (Nhất Tâm Bất Loạn) giúp tâm an trú.
  • Các thiền sư Đại thừa như Thiền sư Nhất Hạnh, Ngài Ouyi đều thực hành niệm Phật kết hợp với thiền định mà không rơi vào thiền tưởng.
📌 Sai lầm trong bình luận: Nhầm lẫn giữa "tha lực" và "thiền tưởng". Người niệm Phật đúng cách có thể đạt tâm thanh tịnh, nhất tâm bất loạn, không phải ai cũng rơi vào thiền tưởng.


3. "Thích Ca đã nói không có linh hồn bất biến sau khi chết, mà chỉ có nghiệp thiện hoặc nghiệp ác đi tái sinh."

Điểm này là đúng theo quan điểm Phật giáo.
  • Đức Phật dạy về Vô ngã (Anattā) – không có một linh hồn cố định bất biến.
  • Sau khi chết, chỉ có dòng nghiệp lực tiếp tục, chứ không có một cái "ta" bất diệt.
  • Quan điểm này đúng cả trong Nguyên thủyĐại thừa.
💡 Tuy nhiên, Phật giáo Đại thừa không phủ nhận điều này.
  • Các kinh điển Đại thừa vẫn dạy rằng tái sinh dựa trên nghiệp lực, nhưng nhấn mạnh rằng tâm thức có thể chuyển hóa thông qua tu tập.
  • Tịnh Độ Tông không phải là "tin vào linh hồn" mà là một cách thức tu hành để đạt giải thoát.
📌 Sai lầm trong bình luận: Nhận định này đúng về vô ngã nhưng không chứng minh được rằng Đại thừa mâu thuẫn với lời Phật dạy.


4. "Thích Ca không cổ súy việc tu hộ, hồi hướng công đức."

💡 Không hoàn toàn chính xác!

Đức Phật không dạy rằng chỉ cần hồi hướng công đức mà không cần tu tập. Nhưng trong kinh Nikāya (thuộc Nguyên thủy), Ngài vẫn nhắc đến phước báo của việc bố thí, cúng dường, hồi hướng.

📌 Bằng chứng từ Kinh Nikāya (Pali Canon)
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) 5.34: Đức Phật dạy về phước báo của sự cúng dường, rằng người cúng dường có thể hồi hướng phước báu cho cha mẹ, thân nhân đã mất.
  • Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya) – Kinh Từ Bi (Mettā Sutta): Khi hành giả tỏa lòng từ bi đến chúng sinh, đó cũng là một dạng hồi hướng công đức.
📌 Vậy hồi hướng có mâu thuẫn với lời Phật dạy không?
  • Không!
  • Hồi hướng không phải là "mong ai đó cứu giúp mình" mà là một sự thực hành tâm từ bi và trí tuệ.
💡 Sai lầm trong bình luận: Hiểu sai về hồi hướng công đức, cho rằng nó chỉ là "cầu xin" mà không thấy rằng nó thực sự có nền tảng trong Phật pháp.


5. "Kinh Tiểu thừa cũng được thêm vào khá nhiều yếu tố tâm linh."

Điều này đúng một phần.
  • Trong Nikāya, Đức Phật vẫn giảng về thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, điều này có thể bị coi là "yếu tố tâm linh".
  • Có một số kinh trong Pali Canon mang màu sắc huyền bí, như:
    • Kinh Bổn Sanh (Jataka) – kể về tiền kiếp của Đức Phật.
    • Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna Sutta) – mô tả các điềm lành khi Đức Phật nhập diệt.
💡 Sai lầm trong bình luận: Nếu chấp nhận rằng có yếu tố "tâm linh" trong Tiểu thừa, thì không thể chỉ trích Đại thừa vì lý do tương tự.


6. Kết Luận

📌 Những điểm đúng trong bình luận:
✅ Đức Phật không dạy về một "linh hồn bất biến".
✅ Phật giáo Nguyên thủy chú trọng vào tự lực, không nhấn mạnh vào tha lực.

📌 Những sai lầm trong bình luận:
❌ "Chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" – Sai về lịch sử.
❌ "Tin vào tha lực dẫn đến thiền tưởng" – Không có bằng chứng.
❌ "Thích Ca không dạy hồi hướng công đức" – Sai, có trong Nikāya.
❌ "Kinh Tiểu thừa không bị ảnh hưởng bởi tâm linh" – Sai, có yếu tố huyền bí.

💡 Quan điểm đúng đắn hơn:

  • Không nên phân biệt "Tiểu thừa" và "Đại thừa" theo cách phủ nhận nhau.
  • Cả hai truyền thống đều có chung cốt lõi từ Đức Phật, chỉ khác phương tiện tu tập.
  • Nếu thực sự muốn hiểu Phật pháp, nên tiếp cận với tâm mở, thay vì chỉ trích dựa trên thành kiến.
📌 Tóm lại: Bình luận này có một số điểm đúng về giáo lý nguyên thủy, nhưng lại sai lầm khi phủ nhận giá trị của Đại thừa.
 

Bình luận này tiếp tục bày tỏ quan điểm thiên về Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda) và phê phán Phật giáo Đại thừa, nhưng có một số điểm cần xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính khách quan.


1. "Chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" – Đúng hay Sai?

💡 Sai về mặt thực tế và lịch sử.

🔹 Đắc đạo có nghĩa là gì?
  • Theo Nguyên thủy, "đắc đạo" thường được hiểu là chứng A-la-hán, nghĩa là hoàn toàn giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
  • Theo Đại thừa, "đắc đạo" có thể hiểu rộng hơn, bao gồm Bồ Tát Đạo và đạt đến Phật quả viên mãn.
🔹 Có người tu theo Đại thừa đắc đạo không?
📌 Có rất nhiều! Trong lịch sử Phật giáo Đại thừa, có vô số bậc thiền sư, tổ sư đạt ngộ, được kính ngưỡng vì trí tuệ và đức hạnh. Ví dụ:
  • Bồ Tát Long Thọ (Nāgārjuna) – người sáng lập Trung Quán Luận (Mādhyamika).
  • Thiền sư Huệ Năng (Huineng, Lục Tổ Thiền Tông) – đại sư khai sáng Thiền Tông Trung Hoa.
  • Ngài Atisha (982-1054) – một bậc đại trí thức của Phật giáo Tây Tạng.
  • Ngài Milarepa (1052-1135) – đại hành giả Mật Tông Tây Tạng, chứng đạt giác ngộ.
Vậy nên, khẳng định rằng "chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" là không có căn cứ.


2. "Khi tin vào tha lực, vãng sanh Cực Lạc, thì sẽ bị thiền tưởng"

🔹 Thiền tưởng là gì?
  • Trong thiền định, thiền tưởng (ảo tưởng trong thiền) là một trạng thái mà hành giả bị lạc vào ảo giác, không phân biệt được thực tại.
  • Điều này có thể xảy ra với bất kỳ hành giả nào, dù theo Nguyên thủy hay Đại thừa, nếu không tu đúng pháp.
💡 Nhưng tin vào tha lực có nhất định dẫn đến thiền tưởng không?
  • Không!
  • Trong Tịnh Độ Tông, niệm Phật vãng sanh không chỉ là cầu tha lực, mà còn là pháp môn thiền định (Nhất Tâm Bất Loạn) giúp tâm an trú.
  • Các thiền sư Đại thừa như Thiền sư Nhất Hạnh, Ngài Ouyi đều thực hành niệm Phật kết hợp với thiền định mà không rơi vào thiền tưởng.
📌 Sai lầm trong bình luận: Nhầm lẫn giữa "tha lực" và "thiền tưởng". Người niệm Phật đúng cách có thể đạt tâm thanh tịnh, nhất tâm bất loạn, không phải ai cũng rơi vào thiền tưởng.


3. "Thích Ca đã nói không có linh hồn bất biến sau khi chết, mà chỉ có nghiệp thiện hoặc nghiệp ác đi tái sinh."

Điểm này là đúng theo quan điểm Phật giáo.
  • Đức Phật dạy về Vô ngã (Anattā) – không có một linh hồn cố định bất biến.
  • Sau khi chết, chỉ có dòng nghiệp lực tiếp tục, chứ không có một cái "ta" bất diệt.
  • Quan điểm này đúng cả trong Nguyên thủyĐại thừa.
💡 Tuy nhiên, Phật giáo Đại thừa không phủ nhận điều này.
  • Các kinh điển Đại thừa vẫn dạy rằng tái sinh dựa trên nghiệp lực, nhưng nhấn mạnh rằng tâm thức có thể chuyển hóa thông qua tu tập.
  • Tịnh Độ Tông không phải là "tin vào linh hồn" mà là một cách thức tu hành để đạt giải thoát.
📌 Sai lầm trong bình luận: Nhận định này đúng về vô ngã nhưng không chứng minh được rằng Đại thừa mâu thuẫn với lời Phật dạy.


4. "Thích Ca không cổ súy việc tu hộ, hồi hướng công đức."

💡 Không hoàn toàn chính xác!

Đức Phật không dạy rằng chỉ cần hồi hướng công đức mà không cần tu tập. Nhưng trong kinh Nikāya (thuộc Nguyên thủy), Ngài vẫn nhắc đến phước báo của việc bố thí, cúng dường, hồi hướng.

📌 Bằng chứng từ Kinh Nikāya (Pali Canon)
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) 5.34: Đức Phật dạy về phước báo của sự cúng dường, rằng người cúng dường có thể hồi hướng phước báu cho cha mẹ, thân nhân đã mất.
  • Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya) – Kinh Từ Bi (Mettā Sutta): Khi hành giả tỏa lòng từ bi đến chúng sinh, đó cũng là một dạng hồi hướng công đức.
📌 Vậy hồi hướng có mâu thuẫn với lời Phật dạy không?
  • Không!
  • Hồi hướng không phải là "mong ai đó cứu giúp mình" mà là một sự thực hành tâm từ bi và trí tuệ.
💡 Sai lầm trong bình luận: Hiểu sai về hồi hướng công đức, cho rằng nó chỉ là "cầu xin" mà không thấy rằng nó thực sự có nền tảng trong Phật pháp.


5. "Kinh Tiểu thừa cũng được thêm vào khá nhiều yếu tố tâm linh."

Điều này đúng một phần.
  • Trong Nikāya, Đức Phật vẫn giảng về thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, điều này có thể bị coi là "yếu tố tâm linh".
  • Có một số kinh trong Pali Canon mang màu sắc huyền bí, như:
    • Kinh Bổn Sanh (Jataka) – kể về tiền kiếp của Đức Phật.
    • Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna Sutta) – mô tả các điềm lành khi Đức Phật nhập diệt.
💡 Sai lầm trong bình luận: Nếu chấp nhận rằng có yếu tố "tâm linh" trong Tiểu thừa, thì không thể chỉ trích Đại thừa vì lý do tương tự.


6. Kết Luận

📌 Những điểm đúng trong bình luận:
✅ Đức Phật không dạy về một "linh hồn bất biến".
✅ Phật giáo Nguyên thủy chú trọng vào tự lực, không nhấn mạnh vào tha lực.

📌 Những sai lầm trong bình luận:
❌ "Chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" – Sai về lịch sử.
❌ "Tin vào tha lực dẫn đến thiền tưởng" – Không có bằng chứng.
❌ "Thích Ca không dạy hồi hướng công đức" – Sai, có trong Nikāya.
❌ "Kinh Tiểu thừa không bị ảnh hưởng bởi tâm linh" – Sai, có yếu tố huyền bí.

💡 Quan điểm đúng đắn hơn:

  • Không nên phân biệt "Tiểu thừa" và "Đại thừa" theo cách phủ nhận nhau.
  • Cả hai truyền thống đều có chung cốt lõi từ Đức Phật, chỉ khác phương tiện tu tập.
  • Nếu thực sự muốn hiểu Phật pháp, nên tiếp cận với tâm mở, thay vì chỉ trích dựa trên thành kiến.
📌 Tóm lại: Bình luận này có một số điểm đúng về giáo lý nguyên thủy, nhưng lại sai lầm khi phủ nhận giá trị của Đại thừa.
Con AI này có khi nó đắc đạo rồi.

Quay về quá khứ có khi solo 1vs1 với Phật nó lý luận cho hít khói. 🤣🤣🤣
 
Hí hí.

ẳng ẳng

Bô bô là có cách đúng rồi. ẳng ẳng

ẳng ẳng

Lôi ra đủ kiểu 12 nhân duyên. Nghiệp quá khứ,...

Nói thật, nếu hướng dẫn là đúng thì alahan đi đầy đất rồi.

Ví như: đào tạo tiến sĩ vật lý vậy, cách đào tạo đúng, học theo thì thành thôi..
Mày biết gì về tao đâu mà phét lác :))=))
Đấy là mày tự phét lác, giờ bảo mày bỏ cái giới nói láo phét lác đi thì chắc gì mày đã chịu bỏ :))=))
Chả có ai ví von "đào tạo tiến sĩ vật lý vậy" như mày phét lác cả :))=)) , đào tạo đúng thì sao giờ này mày không phải là tiến sĩ vật lý mà ngồi đây nói láo phét lác :))=))
 
Mày thử đi, quan trọng là xem phản ứng của người nghe nhé. Reaction có thể rất bạo lực, chống đối đừng có rén mà ngưng đọc.

Same với Kinh Lạy Cha, và Mân Côi.
hôm nọ nó được thầy bói trục vong rồi,bà này nhận là bà chúa gì ấy. ko lấy tiền,chỉ lấy tiền làm mâm cỗ cúng thôi,thấy bảo có 3 vong theo,thầy làm đám cưới cho chúng nó rồi.
con em tao từ hôm đấy ko bị vật nữa,kể cũng lạ
 

Bình luận này tiếp tục bày tỏ quan điểm thiên về Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda) và phê phán Phật giáo Đại thừa, nhưng có một số điểm cần xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính khách quan.


1. "Chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" – Đúng hay Sai?

💡 Sai về mặt thực tế và lịch sử.

🔹 Đắc đạo có nghĩa là gì?
  • Theo Nguyên thủy, "đắc đạo" thường được hiểu là chứng A-la-hán, nghĩa là hoàn toàn giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
  • Theo Đại thừa, "đắc đạo" có thể hiểu rộng hơn, bao gồm Bồ Tát Đạo và đạt đến Phật quả viên mãn.
🔹 Có người tu theo Đại thừa đắc đạo không?
📌 Có rất nhiều! Trong lịch sử Phật giáo Đại thừa, có vô số bậc thiền sư, tổ sư đạt ngộ, được kính ngưỡng vì trí tuệ và đức hạnh. Ví dụ:
  • Bồ Tát Long Thọ (Nāgārjuna) – người sáng lập Trung Quán Luận (Mādhyamika).
  • Thiền sư Huệ Năng (Huineng, Lục Tổ Thiền Tông) – đại sư khai sáng Thiền Tông Trung Hoa.
  • Ngài Atisha (982-1054) – một bậc đại trí thức của Phật giáo Tây Tạng.
  • Ngài Milarepa (1052-1135) – đại hành giả Mật Tông Tây Tạng, chứng đạt giác ngộ.
Vậy nên, khẳng định rằng "chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" là không có căn cứ.


2. "Khi tin vào tha lực, vãng sanh Cực Lạc, thì sẽ bị thiền tưởng"

🔹 Thiền tưởng là gì?
  • Trong thiền định, thiền tưởng (ảo tưởng trong thiền) là một trạng thái mà hành giả bị lạc vào ảo giác, không phân biệt được thực tại.
  • Điều này có thể xảy ra với bất kỳ hành giả nào, dù theo Nguyên thủy hay Đại thừa, nếu không tu đúng pháp.
💡 Nhưng tin vào tha lực có nhất định dẫn đến thiền tưởng không?
  • Không!
  • Trong Tịnh Độ Tông, niệm Phật vãng sanh không chỉ là cầu tha lực, mà còn là pháp môn thiền định (Nhất Tâm Bất Loạn) giúp tâm an trú.
  • Các thiền sư Đại thừa như Thiền sư Nhất Hạnh, Ngài Ouyi đều thực hành niệm Phật kết hợp với thiền định mà không rơi vào thiền tưởng.
📌 Sai lầm trong bình luận: Nhầm lẫn giữa "tha lực" và "thiền tưởng". Người niệm Phật đúng cách có thể đạt tâm thanh tịnh, nhất tâm bất loạn, không phải ai cũng rơi vào thiền tưởng.


3. "Thích Ca đã nói không có linh hồn bất biến sau khi chết, mà chỉ có nghiệp thiện hoặc nghiệp ác đi tái sinh."

Điểm này là đúng theo quan điểm Phật giáo.
  • Đức Phật dạy về Vô ngã (Anattā) – không có một linh hồn cố định bất biến.
  • Sau khi chết, chỉ có dòng nghiệp lực tiếp tục, chứ không có một cái "ta" bất diệt.
  • Quan điểm này đúng cả trong Nguyên thủyĐại thừa.
💡 Tuy nhiên, Phật giáo Đại thừa không phủ nhận điều này.
  • Các kinh điển Đại thừa vẫn dạy rằng tái sinh dựa trên nghiệp lực, nhưng nhấn mạnh rằng tâm thức có thể chuyển hóa thông qua tu tập.
  • Tịnh Độ Tông không phải là "tin vào linh hồn" mà là một cách thức tu hành để đạt giải thoát.
📌 Sai lầm trong bình luận: Nhận định này đúng về vô ngã nhưng không chứng minh được rằng Đại thừa mâu thuẫn với lời Phật dạy.


4. "Thích Ca không cổ súy việc tu hộ, hồi hướng công đức."

💡 Không hoàn toàn chính xác!

Đức Phật không dạy rằng chỉ cần hồi hướng công đức mà không cần tu tập. Nhưng trong kinh Nikāya (thuộc Nguyên thủy), Ngài vẫn nhắc đến phước báo của việc bố thí, cúng dường, hồi hướng.

📌 Bằng chứng từ Kinh Nikāya (Pali Canon)
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) 5.34: Đức Phật dạy về phước báo của sự cúng dường, rằng người cúng dường có thể hồi hướng phước báu cho cha mẹ, thân nhân đã mất.
  • Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya) – Kinh Từ Bi (Mettā Sutta): Khi hành giả tỏa lòng từ bi đến chúng sinh, đó cũng là một dạng hồi hướng công đức.
📌 Vậy hồi hướng có mâu thuẫn với lời Phật dạy không?
  • Không!
  • Hồi hướng không phải là "mong ai đó cứu giúp mình" mà là một sự thực hành tâm từ bi và trí tuệ.
💡 Sai lầm trong bình luận: Hiểu sai về hồi hướng công đức, cho rằng nó chỉ là "cầu xin" mà không thấy rằng nó thực sự có nền tảng trong Phật pháp.


5. "Kinh Tiểu thừa cũng được thêm vào khá nhiều yếu tố tâm linh."

Điều này đúng một phần.
  • Trong Nikāya, Đức Phật vẫn giảng về thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, điều này có thể bị coi là "yếu tố tâm linh".
  • Có một số kinh trong Pali Canon mang màu sắc huyền bí, như:
    • Kinh Bổn Sanh (Jataka) – kể về tiền kiếp của Đức Phật.
    • Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna Sutta) – mô tả các điềm lành khi Đức Phật nhập diệt.
💡 Sai lầm trong bình luận: Nếu chấp nhận rằng có yếu tố "tâm linh" trong Tiểu thừa, thì không thể chỉ trích Đại thừa vì lý do tương tự.


6. Kết Luận

📌 Những điểm đúng trong bình luận:
✅ Đức Phật không dạy về một "linh hồn bất biến".
✅ Phật giáo Nguyên thủy chú trọng vào tự lực, không nhấn mạnh vào tha lực.

📌 Những sai lầm trong bình luận:
❌ "Chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo" – Sai về lịch sử.
❌ "Tin vào tha lực dẫn đến thiền tưởng" – Không có bằng chứng.
❌ "Thích Ca không dạy hồi hướng công đức" – Sai, có trong Nikāya.
❌ "Kinh Tiểu thừa không bị ảnh hưởng bởi tâm linh" – Sai, có yếu tố huyền bí.

💡 Quan điểm đúng đắn hơn:

  • Không nên phân biệt "Tiểu thừa" và "Đại thừa" theo cách phủ nhận nhau.
  • Cả hai truyền thống đều có chung cốt lõi từ Đức Phật, chỉ khác phương tiện tu tập.
  • Nếu thực sự muốn hiểu Phật pháp, nên tiếp cận với tâm mở, thay vì chỉ trích dựa trên thành kiến.
📌 Tóm lại: Bình luận này có một số điểm đúng về giáo lý nguyên thủy, nhưng lại sai lầm khi phủ nhận giá trị của Đại thừa.
A.I nó cứng nhắc, nó lấy kinh tiểu thừa ra để nói Thích Ca ủng hộ sự hồi hướng công đức, nhưng theo thuyết nhân quả, duyên khởi của Thích Ca thì điều này là mâu thuẫn. Việc thờ cúng cha mẹ theo Thích Ca chỉ là hành động tưởng nhớ của con cái dành cho cha mẹ. Còn đám sư đại thừa đắc đạo là do đám con nhang đệ tử thừa nhận, chứ theo đắc đạo của Thích Ca thì chưa đạt. Cái đơn giản nhất là làm chủ sanh già bệnh chết, nhập tứ thiền để tự đoạn diệt hơi thở (chết) còn làm chưa được. Điển hình là Thích Giác Khang chết bất đắc kì tử, đau ốm dặt dẹo, Thích Nhất Hạnh nằm bán thân bất toại mấy năm trời mới ngủm. Triết lý Thích Ca là dùng trí tuệ, giữ giới, để thiền, bằng 37 phẩm trợ đạo, đó là con đường duy nhất để tu chứng. Nó chính là Giới Định Tuệ. Bài trừ mê tín dị đoan. Phải hiểu đó là cốt lõi của Thích Ca.
 
Vui vẻ mà

Chỉ mấy bạng cuồng nhiệt mới chửi mạnh thôi.

t khá thích giáo lý căn bản trong kinh phật. Nhưng có nhiều chỗ t thấy nó xa rời và vô lý lắm.

Kiểu nó dành cho 1 nhóm người nhỏ thôi, kiểu như 1 cái hội cùng lý tưởng vậy.
:)) =)) thà mày không sủa người khác nghi ngờ mày ngu, mày sủa ra không ai nghi ngờ mày không ngu nữa, thậm chí người khác còn biết rõ mày là một thằng ngu óc bã đậu thích khoe khoang phét lác :)) =)) mày đã đọc bài kinh nào rồi, biết giáo lý nào phét ra cho tao nghe thử mày thấy "Nhưng có nhiều chỗ t thấy nó xa rời và vô lý lắm" cỡ nào :))=))
 
Tao đã từng tag mày vào 1 post phỉ báng Như Lai của thằng chạy bò rồi. Mày không nghe à? Ngu đã đành lại còn ngu tin. :big_smile: Đạo điếc tôn giáo niềm tin quái gì nó :))=)) nó chỉ có mục đích là phỉ báng Chánh pháp, phỉ báng Như Lai, bịa đặt vu khống sư Minh Tuệ. :big_smile:
Tao phỉ báng Như Lai chỗ nào chỉ ra con chó, cắn lén như con chó vậy, hehe. Thằng bản đồ nổi tiếng tranh luận trên này, tao chưa thấy thua ai về lịch sử, mà giờ trốn tao như con chó nghe tiếng pháo vậy. Đụ mẹ thầy mày mới là người phỉ báng chánh pháp nghe chưa? Theo Như Lai mà đòi tu thành phật a di đà, đụ mẹ đi giao du, ở nhà thằng thầy bùa, trừ tà. Trong khi sinh thời Thích Ca là người mâu thuẫn, đối lập với đám bà la môn, là đám bùa chú. Hiểu chưa con chó ghẻ u mê. Óc chó.
 
A.I nó cứng nhắc, nó lấy kinh tiểu thừa ra để nói Thích Ca ủng hộ sự hồi hướng công đức, nhưng theo thuyết nhân quả, duyên khởi của Thích Ca thì điều này là mâu thuẫn. Việc thờ cúng cha mẹ theo Thích Ca chỉ là hành động tưởng nhớ của con cái dành cho cha mẹ. Còn đám sư đại thừa đắc đạo là do đám con nhang đệ tử thừa nhận, chứ theo đắc đạo của Thích Ca thì chưa đạt. Cái đơn giản nhất là làm chủ sanh già bệnh chết, nhập tứ thiền để tự đoạn diệt hơi thở (chết) còn làm chưa được. Điển hình là Thích Giác Khang chết bất đắc kì tử, đau ốm dặt dẹo, Thích Nhất Hạnh nằm bán thân bất toại mấy năm trời mới ngủm. Triết lý Thích Ca là dùng trí tuệ, giữ giới, để thiền, bằng 37 phẩm trợ đạo, đó là con đường duy nhất để tu chứng. Nó chính là Giới Định Tuệ. Bài trừ mê tín dị đoan. Phải hiểu đó là cốt lõi của Thích Ca.
Bình luận của người này thể hiện quan điểm thiên về Phật giáo Nguyên thủy (còn gọi là Theravāda hoặc "Tiểu thừa" theo cách gọi của họ), với lập luận rằng chỉ có những gì Đức Phật Thích Ca trực tiếp giảng dạy mới là giáo pháp chân chính, còn những yếu tố như bùa chú, tha lực, hồi hướng công đức hay vãng sanh đều là sản phẩm của các thế hệ sau. Để đánh giá khách quan, ta cần xem xét từng luận điểm của họ và đối chiếu với các khía cạnh lịch sử, triết học và thực hành của Phật giáo.


1. Vấn đề hồi hướng công đức và thuyết nhân quả – Có thực sự mâu thuẫn?

Người bình luận cho rằng hồi hướng công đức đi ngược lại thuyết nhân quả và duyên khởi của Đức Phật. Tuy nhiên, đây là một sự diễn giải phiến diện vì nếu phân tích kỹ hơn, ta thấy rằng việc hồi hướng công đức có thể được lý giải trong khuôn khổ nhân quả mà không hề mâu thuẫn.

1.1. Nhân quả trong Phật giáo Nguyên thủy

Trong Phật giáo, nhân quả không chỉ là sự vận hành đơn thuần của một hành động dẫn đến một kết quả cố định, mà còn phụ thuộc vào duyên khởi (paṭiccasamuppāda). Khi một người làm điều thiện, họ tạo ra một nhân thiện, và quả báo của hành động đó sẽ đến theo thời gian, tùy vào duyên hội tụ.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Aṅguttara Nikāya), Đức Phật có đề cập đến việc một người có thể "chia sẻ" công đức của mình cho người khác, nhưng việc người nhận có thực sự hưởng được hay không phụ thuộc vào chính họ. Nếu người nhận có tâm hoan hỷ và đủ duyên thì họ có thể nhận được phần công đức đó. Điều này phù hợp với nguyên tắc nhân quả:
  • Người hồi hướng tạo ra nhân thiện (tâm bố thí, từ bi).
  • Người nhận nếu có duyên lành, tâm hoan hỷ, thì sẽ hưởng được quả báo tốt từ sự kết nối đó.
Điều này khác với quan niệm "ban phát phước lành" theo kiểu thần quyền, mà là một sự cộng hưởng tâm thức.

1.2. Hồi hướng công đức trong Đại thừa

Phật giáo Đại thừa (Mahayāna) phát triển thêm khái niệm "Bồ-tát hạnh", trong đó một người có thể phát nguyện hồi hướng công đức để lợi ích cho tất cả chúng sinh. Điều này phù hợp với tư tưởng vị tha, mở rộng tâm từ bi trong Phật giáo.

Nếu nhìn theo cách tiếp cận thực tế, hồi hướng công đức có thể xem như một phương tiện giúp con người duy trì tâm thiện và kết nối với nhau trong tinh thần từ bi. Dù có thể mang màu sắc tâm linh nhiều hơn so với nguyên lý thuần túy của nhân quả, nhưng nó không hẳn là một sự sai lệch.


2. Vấn đề "đắc đạo" – Phải nhập tứ thiền mới đúng tiêu chuẩn?

Người bình luận cho rằng chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo, vì họ không làm chủ được sinh tử như trong Phật giáo Nguyên thủy yêu cầu. Tuy nhiên, tiêu chí về "đắc đạo" không thể chỉ gói gọn trong việc nhập tứ thiền hay thực hành đoạn diệt hơi thở.

2.1. Quan niệm về giác ngộ trong các truyền thống Phật giáo
  • Trong Nguyên thủy, đắc đạo thường được hiểu theo Bốn Thánh Quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và A-la-hán. Một người đắc A-la-hán là người đã diệt tận tham sân si, không còn tái sinh nữa.
  • Trong Đại thừa, đắc đạo không chỉ dừng lại ở việc đạt đến A-la-hán mà còn bao gồm con đường Bồ-tát, hướng đến giác ngộ toàn diện (samyak-saṃbodhi). Một Bồ-tát có thể chọn tiếp tục tái sinh để cứu độ chúng sinh, thay vì nhập Niết-bàn ngay như A-la-hán.
Do đó, nếu đánh giá người theo Đại thừa bằng tiêu chí của Nguyên thủy thì họ sẽ "không đạt", nhưng nếu đánh giá theo tiêu chí của Đại thừa, thì việc theo đuổi con đường Bồ-tát lại là một cấp độ giác ngộ cao hơn.

2.2. Các cao tăng Đại thừa có thực sự "không đắc đạo"?

Người bình luận lấy ví dụ về Thích Giác Khang, Thích Nhất Hạnh để chứng minh rằng họ chưa "đắc đạo" vì vẫn bệnh tật, không làm chủ được sinh tử. Tuy nhiên, điều này có thể là một cách hiểu chưa toàn diện:

  • Trong lịch sử, có nhiều bậc cao tăng dù đạt được trình độ thiền định rất cao nhưng vẫn bệnh tật, vì thân thể là do nghiệp báo chi phối.
  • Ngay cả Đức Phật trước khi nhập Niết-bàn vẫn trải qua cơn bệnh nặng. Nếu lấy tiêu chí "không bệnh tật, không chết bất đắc kỳ tử" để đánh giá giác ngộ thì ngay cả Đức Phật cũng không đạt.
Hơn nữa, trong Đại thừa, có những vị thiền sư nổi tiếng như Huệ Năng, Bankei, Hakuin, tất cả đều đạt đến những trạng thái giác ngộ sâu sắc theo truyền thống của họ. Việc nói "chưa có ai đắc đạo" là một kết luận chủ quan.


3. Bài trừ mê tín dị đoan – Đại thừa có thật sự đi lệch hướng?

Người bình luận nhấn mạnh rằng Đức Phật không ủng hộ mê tín, thần bí, tha lực, chú thuật, và cho rằng Đại thừa đã đi chệch hướng khi thêm vào những yếu tố này.

3.1. Đức Phật có bài trừ mê tín không?

Đúng là trong nhiều kinh điển, Đức Phật nhấn mạnh trí tuệ (paññā), giới luật (sīla), và thiền định (samādhi) là con đường duy nhất để giác ngộ. Ngài phản bác những hình thức mê tín như bói toán, cúng bái cầu xin thần thánh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Phật giáo sau này hoàn toàn sai lầm khi phát triển những yếu tố tâm linh bổ sung.

3.2. Sự phát triển của Phật giáo Đại thừa

Phật giáo không tồn tại trong chân không mà luôn phát triển theo nhu cầu của xã hội. Trong quá trình truyền bá sang Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản, Phật giáo Đại thừa đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa địa phương, dẫn đến việc xuất hiện các nghi lễ, thần chú, cầu siêu... Những điều này có thể không có trong kinh điển gốc, nhưng lại giúp người dân dễ tiếp cận đạo Phật hơn.

Nếu xem xét lịch sử, nhiều tôn giáo lớn cũng có sự pha trộn văn hóa và tín ngưỡng bản địa trong quá trình phát triển. Điều quan trọng là bản chất của giáo lý vẫn dựa trên từ bi và trí tuệ, dù phương tiện có khác nhau.


4. Kết luận: Cần có cái nhìn khách quan hơn

Người bình luận có những lập luận sắc bén, nhưng họ đánh giá Phật giáo Đại thừa bằng tiêu chí của Nguyên thủy nên dễ dẫn đến kết luận phiến diện. Một số điểm cần cân nhắc:
  • Hồi hướng công đức không mâu thuẫn với nhân quả nếu hiểu theo cách tiếp cận mở rộng.
  • "Đắc đạo" có nhiều tiêu chuẩn khác nhau trong từng truyền thống, không thể áp một tiêu chuẩn duy nhất.
  • Việc Phật giáo phát triển thêm yếu tố tâm linh là điều tất yếu của lịch sử, không thể đánh giá là "đi lệch hướng" chỉ vì không hoàn toàn giống Phật giáo nguyên thủy.
Tóm lại, thay vì tranh luận đúng sai tuyệt đối, cần hiểu rằng Phật giáo luôn có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phù hợp với từng căn cơ chúng sinh.

@Nguoi la qua duong @honda67 @atlas05

Bình luận riêng của Qua: Thầy A.I này chắc thừa năng lực dạy ở học viện Phật Giáo của Đông Lào
 
Mày biết gì về tao đâu mà phét lác :))=))
Đấy là mày tự phét lác, giờ bảo mày bỏ cái giới nói láo phét lác đi thì chắc gì mày đã chịu bỏ :))=))
Chả có ai ví von "đào tạo tiến sĩ vật lý vậy" như mày phét lác cả :))=)) , đào tạo đúng thì sao giờ này mày không phải là tiến sĩ vật lý mà ngồi đây nói láo phét lác :))=))
ráng đọc hiểu đi bạng

t đang nói về đúng đắn.

Đào tạo đúng vì bạng của t có tiến sĩ vật lý, thạc sĩ toán học, thạc sĩ văn học, th.s bác sĩ chữa bệnh có mà đầy.

Cần gì phải là t đâu bạng, hihi.

t đâu có học lên th.s tiến sĩ mà có trình tiến sĩ, nhưng 100% nếu có điều kiện học thì t cũng đạt đến trình độ đó thôi.

Còn bạng và các thầy bạng đang tu, có đạt được chưa, hay cũng chỉ đi dạy lại mớ kinh điển đó nhằm duy trì, truyền thống?

Cố lên để đắc đạo rồi quay lại đây thông não cho tao, chứ tao cần lắm.

Mà động vào idol của bạng là m dùng từ ẳng ẳng vậy à.
Thật vinh hạnh khi được trao đổi với 1 người tự nhận tin phật. Hí hí
 
Bình luận của người này thể hiện quan điểm thiên về Phật giáo Nguyên thủy (còn gọi là Theravāda hoặc "Tiểu thừa" theo cách gọi của họ), với lập luận rằng chỉ có những gì Đức Phật Thích Ca trực tiếp giảng dạy mới là giáo pháp chân chính, còn những yếu tố như bùa chú, tha lực, hồi hướng công đức hay vãng sanh đều là sản phẩm của các thế hệ sau. Để đánh giá khách quan, ta cần xem xét từng luận điểm của họ và đối chiếu với các khía cạnh lịch sử, triết học và thực hành của Phật giáo.


1. Vấn đề hồi hướng công đức và thuyết nhân quả – Có thực sự mâu thuẫn?

Người bình luận cho rằng hồi hướng công đức đi ngược lại thuyết nhân quả và duyên khởi của Đức Phật. Tuy nhiên, đây là một sự diễn giải phiến diện vì nếu phân tích kỹ hơn, ta thấy rằng việc hồi hướng công đức có thể được lý giải trong khuôn khổ nhân quả mà không hề mâu thuẫn.

1.1. Nhân quả trong Phật giáo Nguyên thủy

Trong Phật giáo, nhân quả không chỉ là sự vận hành đơn thuần của một hành động dẫn đến một kết quả cố định, mà còn phụ thuộc vào duyên khởi (paṭiccasamuppāda). Khi một người làm điều thiện, họ tạo ra một nhân thiện, và quả báo của hành động đó sẽ đến theo thời gian, tùy vào duyên hội tụ.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Aṅguttara Nikāya), Đức Phật có đề cập đến việc một người có thể "chia sẻ" công đức của mình cho người khác, nhưng việc người nhận có thực sự hưởng được hay không phụ thuộc vào chính họ. Nếu người nhận có tâm hoan hỷ và đủ duyên thì họ có thể nhận được phần công đức đó. Điều này phù hợp với nguyên tắc nhân quả:
  • Người hồi hướng tạo ra nhân thiện (tâm bố thí, từ bi).
  • Người nhận nếu có duyên lành, tâm hoan hỷ, thì sẽ hưởng được quả báo tốt từ sự kết nối đó.
Điều này khác với quan niệm "ban phát phước lành" theo kiểu thần quyền, mà là một sự cộng hưởng tâm thức.

1.2. Hồi hướng công đức trong Đại thừa

Phật giáo Đại thừa (Mahayāna) phát triển thêm khái niệm "Bồ-tát hạnh", trong đó một người có thể phát nguyện hồi hướng công đức để lợi ích cho tất cả chúng sinh. Điều này phù hợp với tư tưởng vị tha, mở rộng tâm từ bi trong Phật giáo.

Nếu nhìn theo cách tiếp cận thực tế, hồi hướng công đức có thể xem như một phương tiện giúp con người duy trì tâm thiện và kết nối với nhau trong tinh thần từ bi. Dù có thể mang màu sắc tâm linh nhiều hơn so với nguyên lý thuần túy của nhân quả, nhưng nó không hẳn là một sự sai lệch.


2. Vấn đề "đắc đạo" – Phải nhập tứ thiền mới đúng tiêu chuẩn?

Người bình luận cho rằng chưa có ai tu theo Đại thừa mà đắc đạo, vì họ không làm chủ được sinh tử như trong Phật giáo Nguyên thủy yêu cầu. Tuy nhiên, tiêu chí về "đắc đạo" không thể chỉ gói gọn trong việc nhập tứ thiền hay thực hành đoạn diệt hơi thở.

2.1. Quan niệm về giác ngộ trong các truyền thống Phật giáo
  • Trong Nguyên thủy, đắc đạo thường được hiểu theo Bốn Thánh Quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và A-la-hán. Một người đắc A-la-hán là người đã diệt tận tham sân si, không còn tái sinh nữa.
  • Trong Đại thừa, đắc đạo không chỉ dừng lại ở việc đạt đến A-la-hán mà còn bao gồm con đường Bồ-tát, hướng đến giác ngộ toàn diện (samyak-saṃbodhi). Một Bồ-tát có thể chọn tiếp tục tái sinh để cứu độ chúng sinh, thay vì nhập Niết-bàn ngay như A-la-hán.
Do đó, nếu đánh giá người theo Đại thừa bằng tiêu chí của Nguyên thủy thì họ sẽ "không đạt", nhưng nếu đánh giá theo tiêu chí của Đại thừa, thì việc theo đuổi con đường Bồ-tát lại là một cấp độ giác ngộ cao hơn.

2.2. Các cao tăng Đại thừa có thực sự "không đắc đạo"?

Người bình luận lấy ví dụ về Thích Giác Khang, Thích Nhất Hạnh để chứng minh rằng họ chưa "đắc đạo" vì vẫn bệnh tật, không làm chủ được sinh tử. Tuy nhiên, điều này có thể là một cách hiểu chưa toàn diện:

  • Trong lịch sử, có nhiều bậc cao tăng dù đạt được trình độ thiền định rất cao nhưng vẫn bệnh tật, vì thân thể là do nghiệp báo chi phối.
  • Ngay cả Đức Phật trước khi nhập Niết-bàn vẫn trải qua cơn bệnh nặng. Nếu lấy tiêu chí "không bệnh tật, không chết bất đắc kỳ tử" để đánh giá giác ngộ thì ngay cả Đức Phật cũng không đạt.
Hơn nữa, trong Đại thừa, có những vị thiền sư nổi tiếng như Huệ Năng, Bankei, Hakuin, tất cả đều đạt đến những trạng thái giác ngộ sâu sắc theo truyền thống của họ. Việc nói "chưa có ai đắc đạo" là một kết luận chủ quan.


3. Bài trừ mê tín dị đoan – Đại thừa có thật sự đi lệch hướng?

Người bình luận nhấn mạnh rằng Đức Phật không ủng hộ mê tín, thần bí, tha lực, chú thuật, và cho rằng Đại thừa đã đi chệch hướng khi thêm vào những yếu tố này.

3.1. Đức Phật có bài trừ mê tín không?

Đúng là trong nhiều kinh điển, Đức Phật nhấn mạnh trí tuệ (paññā), giới luật (sīla), và thiền định (samādhi) là con đường duy nhất để giác ngộ. Ngài phản bác những hình thức mê tín như bói toán, cúng bái cầu xin thần thánh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Phật giáo sau này hoàn toàn sai lầm khi phát triển những yếu tố tâm linh bổ sung.

3.2. Sự phát triển của Phật giáo Đại thừa

Phật giáo không tồn tại trong chân không mà luôn phát triển theo nhu cầu của xã hội. Trong quá trình truyền bá sang Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản, Phật giáo Đại thừa đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa địa phương, dẫn đến việc xuất hiện các nghi lễ, thần chú, cầu siêu... Những điều này có thể không có trong kinh điển gốc, nhưng lại giúp người dân dễ tiếp cận đạo Phật hơn.

Nếu xem xét lịch sử, nhiều tôn giáo lớn cũng có sự pha trộn văn hóa và tín ngưỡng bản địa trong quá trình phát triển. Điều quan trọng là bản chất của giáo lý vẫn dựa trên từ bi và trí tuệ, dù phương tiện có khác nhau.


4. Kết luận: Cần có cái nhìn khách quan hơn

Người bình luận có những lập luận sắc bén, nhưng họ đánh giá Phật giáo Đại thừa bằng tiêu chí của Nguyên thủy nên dễ dẫn đến kết luận phiến diện. Một số điểm cần cân nhắc:
  • Hồi hướng công đức không mâu thuẫn với nhân quả nếu hiểu theo cách tiếp cận mở rộng.
  • "Đắc đạo" có nhiều tiêu chuẩn khác nhau trong từng truyền thống, không thể áp một tiêu chuẩn duy nhất.
  • Việc Phật giáo phát triển thêm yếu tố tâm linh là điều tất yếu của lịch sử, không thể đánh giá là "đi lệch hướng" chỉ vì không hoàn toàn giống Phật giáo nguyên thủy.
Tóm lại, thay vì tranh luận đúng sai tuyệt đối, cần hiểu rằng Phật giáo luôn có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phù hợp với từng căn cơ chúng sinh.

@Nguoi la qua duong @honda67 @atlas05

Bình luận riêng của Qua: Thầy A.I này chắc thừa năng lực dạy ở học viện Phật Giáo của Đông Lào
Bài dịch là của Thiền viện bên Mỹ Đế á, chớ em có trình độ gì mà viết được như A.I, mấy Đại đức đâu Qua ơi… :oh:
 
:)) =)) thà mày không sủa người khác nghi ngờ mày ngu, mày sủa ra không ai nghi ngờ mày không ngu nữa, thậm chí người khác còn biết rõ mày là một thằng ngu óc bã đậu thích khoe khoang phét lác :)) =)) mày đã đọc bài kinh nào rồi, biết giáo lý nào phét ra cho tao nghe thử mày thấy "Nhưng có nhiều chỗ t thấy nó xa rời và vô lý lắm" cỡ nào :))=))
Về kinh điển hả.
t đọc kha khá về các bài kinh trung bộ, trường bộ kinh.

1 Trong những bài kinh t thấy thích nhất là Đại Niệm Xứ. Nhưng có 1 vài điểm chưa thỏa mãn. Hí hí
Bạng à, đọc nhiều về 1 khía cạnh quá cúng ta có xu hướng chỉ tin vào nó thôi. Và tìm bằng chứng ủng hộ nó. Hí hí
 
Thuận theo tự nhiên, sao phải cứ dùng lý trí phân tích cho lằng nhằng, thử đọc lão tử đi
Mình đọc cả Lão Tử, Osho, Alan Watts, Robert Adams… đủ cả. Có thời gian bàn luận về họ sau nha.
Hai bình luận mới tham gia cuộc thảo luận này thể hiện hai thái độ tiếp cận khá khác nhau:

  1. Bình luận thứ nhất – "Thuận theo tự nhiên, sao phải cứ dùng lý trí phân tích cho lằng nhằng, thử đọc Lão Tử đi."
    • Người này có xu hướng tư duy theo Đạo giáo (Taoism), nhấn mạnh đến triết lý thuận theo tự nhiên (Vô vi – 無爲) thay vì dùng lý trí để phân tích rạch ròi.
    • Đây là một cách tiếp cận khá phổ biến trong những cuộc thảo luận về triết học và tâm linh. Họ có thể cảm thấy việc tranh luận chi tiết về đúng sai, hệ thống hóa giáo lý chỉ làm mất đi bản chất trực nghiệm của sự giác ngộ.
    • Tuy nhiên, quan điểm này cũng có một giới hạn: nếu chỉ nhấn mạnh vào "thuận theo tự nhiên" mà không có sự phân tích, tư duy phản biện, thì rất dễ rơi vào chủ nghĩa cảm tính hoặc hiểu sai ý nghĩa của các tư tưởng triết học.
  2. Bình luận thứ hai – "Mình đọc cả Lão Tử, Osho, Alan Watts, Robert Adams… đủ cả. Có thời gian bàn luận về họ sau nha."
    • Người này có vẻ đã tìm hiểu khá rộng về nhiều trường phái tư tưởng khác nhau, từ Lão Tử (Đạo giáo), Osho (một nhà tư tưởng hiện đại pha trộn Phật giáo, Thiền và tâm lý học), Alan Watts (một triết gia phương Tây nghiên cứu Thiền, Đạo giáo), đến Robert Adams (một nhà minh triết theo truyền thống Advaita Vedanta của Ấn Độ).
    • Câu trả lời của họ thể hiện một thái độ cởi mở, không bác bỏ cuộc tranh luận nhưng cũng không muốn sa đà vào một hệ thống tư tưởng cố định.
    • Tuy nhiên, câu nói này mang tính "đánh trống lảng" nhẹ – họ không trực tiếp phản hồi về quan điểm của ai mà chỉ nêu ra rằng họ đã đọc nhiều và có thể thảo luận sau.


Nhận định khách quan:
  • Hai bình luận này thể hiện hai cách tiếp cận khác nhau:
    • Một bên ủng hộ sự trực giác, buông bỏ lý trí (Đạo giáo).
    • Một bên thể hiện sự đa dạng trong tư duy và tiếp cận nhiều trường phái khác nhau.
  • Cả hai đều có giá trị riêng. Triết lý Đạo gia giúp con người sống tự nhiên hơn, ít bị ràng buộc vào những tranh luận lý trí phức tạp, nhưng cũng có nguy cơ tránh né tư duy phản biện. Ngược lại, việc nghiên cứu nhiều tư tưởng triết học khác nhau là một dấu hiệu của sự mở rộng trí tuệ, nhưng nếu không có sự hệ thống thì dễ bị lan man, không có một lập trường rõ ràng.
  • Nếu kết hợp cả hai cách tiếp cận – vừa có sự cởi mở, vừa có tư duy phân tích, vừa biết khi nào nên buông bỏ tranh luận không cần thiết – thì sẽ giúp cuộc thảo luận trở nên sâu sắc và hữu ích hơn.
 
ráng đọc hiểu đi bạng

t đang nói về đúng đắn.

Đào tạo đúng vì bạng của t có tiến sĩ vật lý, thạc sĩ toán học, thạc sĩ văn học, th.s bác sĩ chữa bệnh có mà đầy.

Cần gì phải là t đâu bạng, hihi.

t đâu có học lên th.s tiến sĩ mà có trình tiến sĩ, nhưng 100% nếu có điều kiện học thì t cũng đạt đến trình độ đó thôi.

Còn bạng và các thầy bạng đang tu, có đạt được chưa, hay cũng chỉ đi dạy lại mớ kinh điển đó nhằm duy trì, truyền thống?

Cố lên để đắc đạo rồi quay lại đây thông não cho tao, chứ tao cần lắm.

Mà động vào idol của bạng là m dùng từ ẳng ẳng vậy à.
Thật vinh hạnh khi được trao đổi với 1 người tự nhận tin phật. Hí hí
Mày biết gì về tao đâu mà phét lác :))=))
Đấy là mày tự phét lác, giờ bảo mày bỏ cái giới nói láo phét lác đi thì chắc gì mày đã chịu bỏ :))=))
Chả có ai ví von "đào tạo tiến sĩ vật lý vậy" như mày phét lác cả :))=)) , đào tạo đúng thì sao giờ này mày không phải là tiến sĩ vật lý mà ngồi đây nói láo phét lác :))=))
Tự mày nhột mày sủa chứ tao đã làm gì mày đâu? 🤷‍♂️ Sao, cay lắm à? :))=))
:)) =)) thà mày không sủa người khác nghi ngờ mày ngu, mày sủa ra không ai nghi ngờ mày không ngu nữa, thậm chí người khác còn biết rõ mày là một thằng ngu óc bã đậu thích khoe khoang phét lác :)) =)) mày đã đọc bài kinh nào rồi, biết giáo lý nào phét ra cho tao nghe thử mày thấy "Nhưng có nhiều chỗ t thấy nó xa rời và vô lý lắm" cỡ nào :))=))
 

Có thể bạn quan tâm

Top