Ngoài việc có nên tin vào mấy sự thật mà các tôn giáo nói hay không, mấy tml cũng thấy có một điểm chung ở tất cả các tôn giáo. Chúng đều là mấy cái ý tưởng mơ hồ, trái ngược hoàn toàn với những phát hiện cụ thể trong môn vật lý học chẳng hạn. Và trong tất cả các tôn giáo có tổ chức cao cấp, chúng đều mang những thể dạng tinh khiết nhất của Nhất Thể Trừu Tượng, hoặc trong thể dạng Hiện Hữu Trừu Tượng, kiểu như một Đấng Toàn Hiện (Omnipresent Being), như một Nhân Cách Trừu Tượng gọi là Thượng Đế (God), như Quy Luật Đạo Đức, hoặc trong thể dạng Tinh Túy Trừu Tượng [Abstract Essence] nằm bên dưới mọi thứ xung quanh.
Cũng như bây giờ, những ai muốn truyền bá tôn giáo mà không cần đến trạng thái siêu cảm của tâm trí cũng phải mặc lại mấy cái ý tưởng cũ mèm của các tôn giáo cổ xưa, rồi gán cho chúng những cái tên mới, như kiểu “Quy Luật Đạo Đức”, “Nhất Thể Lý Tưởng” và mấy cái giống vậy… để chứng tỏ mấy cái trừu tượng này không phải là thứ có thể cảm nhận được bằng giác quan. Chẳng ai trong chúng ta đã thấy cái gọi là “Con Người Lý Tưởng”, nhưng lại bảo là phải tin vào nó. Chẳng ai trong chúng ta đã thấy cái gọi là con người hoàn hảo lý tưởng, nhưng nếu không có cái lý tưởng đó thì ta chẳng thể tiến bộ được.
Thế là, từ tất cả những tôn giáo khác nhau, có một sự thật nổi bật nhất: đó là có một Nhất Thể Lý Tưởng Trừu Tượng [Ideal Unit Abstraction] được đặt ra trước mặt ta, hoặc dưới dạng một Con Người, hoặc một Thực Thể Phi Nhân Cách [Impersonal Being], hoặc dưới dạng của một Quy Luật, hay một Bản Thể Tinh Yếu. Ta cứ phải cố gắng vươn tới cái lý tưởng đó. Ai cũng có một lý tưởng về năng lực vô biên. Hầu hết những công trình quanh ta, những hoạt động hiển hiện khắp nơi đều chỉ là việc cố gắng để đạt tới năng lực vô biên hay niềm vui vô biên thôi.
Nhưng chỉ có một số ít người nhanh chóng nhận ra rằng, dù họ đang cố vươn tới năng lực vô biên, họ chẳng thể đạt được nó qua các giác quan. Họ hiểu ngay rằng cái niềm vui vô biên không thể đạt được qua giác quan, vì giác quan và thể xác quá hạn chế để diễn đạt được Cái Vô Biên. Cái Vô Biên chẳng thể nào biểu đạt qua cái hữu hạn được, và con người rồi sẽ học cách từ bỏ việc cố gắng biểu đạt Cái Vô Biên qua cái hữu hạn.
Cái việc từ bỏ này – từ bỏ việc biểu đạt – chính là nền tảng của đạo đức học, là cơ sở của đạo đức học. Chả có bộ luật đạo đức nào không lấy việc từ bỏ đó làm nền tảng.
Đạo đức học luôn bảo: “Không phải Tao, mà là mày.” Phương châm của nó là “Không phải Tự Ngã, mà là Phi Ngã.” Mấy cái ý tưởng vớ vẩn về chủ nghĩa cá nhân mà người ta cứ bám vào khi cố đi tìm cái Năng Lực Vô Biên hay Niềm Vui Vô Biên bằng giác quan, phải từ bỏ đi – đạo đức học bảo vậy. Mày phải đặt mình xuống sau cùng, đặt mấy người khác lên trước. Các giác quan nói: “Mày trước.” Đạo đức học lại bảo: “Tao phải giữ lại sau cùng.” Cứ như vậy, tất cả các bộ luật đạo đức đều dựa trên sự từ bỏ đó; phá hủy, chứ không phải xây dựng cái cá nhân trên mặt vật chất. Cái Vô Biên sẽ chẳng bao giờ có thể diễn đạt được trên mặt vật chất đâu.
Vì thế, con người phải từ bỏ cái vật chất và vươn lên những bình diện khác để tìm cách diễn đạt Cái Vô Biên đó một cách sâu sắc hơn. Nhiều bộ luật đạo đức khác nhau đã được hình thành như thế, nhưng tất cả đều có một ý tưởng trung tâm, đó là sự xóa bỏ cái ngã. Sự xóa sổ cái ngã tuyệt đối chính là lý tưởng của đạo đức học. Mày sẽ ngạc nhiên khi được yêu cầu đừng nghĩ về bản sắc cá nhân của mình. Mày sẽ rất sợ khi phải bỏ đi cái mà mày gọi là cá tính của mình. Nhưng chính những người đó lại nói mấy lý tưởng cao cả của đạo đức học là chân chính, nhưng chẳng bao giờ nghĩ rằng mục tiêu, phạm vi, và ý tưởng của đạo đức học là phá hủy, chứ không phải xây dựng cái cá nhân.
Cái thuyết vị lợi không thể giải thích được mối quan hệ đạo đức giữa con người, bởi vì ngay từ đầu, ta chẳng thể rút ra được những quy luật đạo đức từ việc tính toán lợi ích. Nếu không có siêu nhiên hay không có sự cảm nhận siêu thức, như tao hay nói, thì chẳng có cái đạo lý nào hết. Nếu không có nỗ lực vươn tới Cái Vô Biên thì sẽ chẳng có lý tưởng nào cả. Bất kỳ hệ thống nào muốn gò bó con người vào giới hạn xã hội đều không thể giải thích được quy luật đạo lý của nhân loại. Mấy người theo thuyết vị lợi muốn mày bỏ luôn việc nỗ lực vươn tới Cái Vô Biên, bỏ luôn mọi nỗ lực đi tìm cõi siêu giác, vì cho đó là vô lý, nhưng lại bảo mày sống theo chuẩn mực đạo đức, làm cái tốt cho xã hội. Tại sao mày phải làm cái tốt? Làm cái tốt chẳng qua là chuyện nhỏ thôi. Mày phải có một lý tưởng. Đạo đức học chẳng phải là mục tiêu mà chỉ là công cụ giúp mày đạt được mục tiêu. Tại sao mày phải làm cái tốt cho người khác mà không làm tổn thương họ? Nếu hạnh phúc là mục tiêu của nhân loại thì tại sao tao lại không hưởng hạnh phúc và để kẻ khác chịu khổ? Cái gì ngăn cản tao?
Lý do thứ hai là nền tảng của thuyết vị lợi quá hẹp. Mọi hình thức xã hội hiện tại và mọi phương pháp đang áp dụng trong xã hội đều được rút ra từ xã hội này, nhưng những người theo thuyết vị lợi lấy quyền gì để nói rằng xã hội là vĩnh cửu? Nhiều kỷ nguyên trước xã hội đã không tồn tại, và có thể nó sẽ chẳng tồn tại sau này nữa. Chắc là chỉ là một giai đoạn tạm thời để đưa ta tới sự tiến hóa cao hơn, và bất kỳ quy luật nào chỉ rút ra từ xã hội này đều không thể vĩnh cửu, không thể bao quát hết bản chất con người. Những học thuyết vị lợi chỉ có thể áp dụng trong xã hội hiện tại thôi. Ra ngoài xã hội này là nó hết xài được.
Nhưng một nền tảng đạo đức, một chuẩn mực đức hạnh từ tôn giáo và tâm linh lại bao quát cả con người vô biên. Nó nói về từng cá nhân, nhưng mối liên quan của nó là đến Cái Vô Biên; và nó cũng nói về cả xã hội – vì xã hội cũng chỉ là mấy cá nhân tụ lại với nhau; khi chuẩn mực đạo lý được áp dụng vào các cá nhân và mối quan hệ vĩnh cửu giữa họ, thì nó cũng tự động áp dụng cho toàn xã hội, bất kể thời gian nào, điều kiện nào. Vì thế, ta thấy rằng tôn giáo mang yếu tố tâm linh luôn là điều thiết yếu với nhân loại. Con người không thể lúc nào cũng chỉ nghĩ đến vật chất, dù có thích đến đâu.
Có người bảo, quá bận tâm đến mấy vấn đề tâm linh sẽ làm rối loạn các mối quan hệ thực tiễn trong thế giới này. Ngay từ ngày xưa ở Trung Quốc, Khổng Tử có bảo: “Cứ lo cái kiếp này, đợi chết rồi lo kiếp sau.” Đúng, chăm lo kiếp này là điều tốt. Nhưng nếu quá bận tâm vào tâm linh có thể làm rối loạn mối quan hệ thực tế, thì việc quá chú tâm vào cái gọi là đời sống thực tế cũng có thể hại cho cả kiếp này lẫn kiếp sau. Nó biến ta thành mấy người duy vật. Vì con người không nên xem bản chất/nature như mục tiêu, mà phải là cái gì cao hơn.
Con người là con người chừng nào còn chiến đấu để vượt qua bản chất, cả bản chất trong nội tâm lẫn ngoài xã hội. Nó không chỉ bao gồm mấy quy luật chi phối các phân tử vật chất bên ngoài và trong cơ thể ta, mà còn cả cái bản chất tế vi bên trong, chính bản chất đó mới thực sự chi phối thế giới bên ngoài. Chinh phục thế giới tự nhiên là tốt, nhưng sẽ vĩ đại hơn nếu chinh phục được bản thân bên trong ta. Hiểu quy luật điều khiển các vì tinh tú và hành tinh là tốt, nhưng sẽ tuyệt vời hơn nếu hiểu được quy luật điều khiển cảm xúc, đam mê và ý chí của con người. Chinh phục được con người nội tâm, hiểu được bí mật các hoạt động bên trong tâm trí, tất cả đều là tôn giáo.
Tác giả: Đại sư Vivekanada
XAMVN Originals | Sự cần thiết của TÔN GIÁO
Phần 1: https://xamvn.nl/r/xamvn-originals-su-can-thiet-cua-ton-giao-vo-than-ne-ra-dum-ik-p1-3.1302668/
Phần 2: https://xamvn.nl/r/xamvn-originals-su-can-thiet-cua-ton-giao-p2-3.1303140/

Cũng như bây giờ, những ai muốn truyền bá tôn giáo mà không cần đến trạng thái siêu cảm của tâm trí cũng phải mặc lại mấy cái ý tưởng cũ mèm của các tôn giáo cổ xưa, rồi gán cho chúng những cái tên mới, như kiểu “Quy Luật Đạo Đức”, “Nhất Thể Lý Tưởng” và mấy cái giống vậy… để chứng tỏ mấy cái trừu tượng này không phải là thứ có thể cảm nhận được bằng giác quan. Chẳng ai trong chúng ta đã thấy cái gọi là “Con Người Lý Tưởng”, nhưng lại bảo là phải tin vào nó. Chẳng ai trong chúng ta đã thấy cái gọi là con người hoàn hảo lý tưởng, nhưng nếu không có cái lý tưởng đó thì ta chẳng thể tiến bộ được.
Thế là, từ tất cả những tôn giáo khác nhau, có một sự thật nổi bật nhất: đó là có một Nhất Thể Lý Tưởng Trừu Tượng [Ideal Unit Abstraction] được đặt ra trước mặt ta, hoặc dưới dạng một Con Người, hoặc một Thực Thể Phi Nhân Cách [Impersonal Being], hoặc dưới dạng của một Quy Luật, hay một Bản Thể Tinh Yếu. Ta cứ phải cố gắng vươn tới cái lý tưởng đó. Ai cũng có một lý tưởng về năng lực vô biên. Hầu hết những công trình quanh ta, những hoạt động hiển hiện khắp nơi đều chỉ là việc cố gắng để đạt tới năng lực vô biên hay niềm vui vô biên thôi.

Nhưng chỉ có một số ít người nhanh chóng nhận ra rằng, dù họ đang cố vươn tới năng lực vô biên, họ chẳng thể đạt được nó qua các giác quan. Họ hiểu ngay rằng cái niềm vui vô biên không thể đạt được qua giác quan, vì giác quan và thể xác quá hạn chế để diễn đạt được Cái Vô Biên. Cái Vô Biên chẳng thể nào biểu đạt qua cái hữu hạn được, và con người rồi sẽ học cách từ bỏ việc cố gắng biểu đạt Cái Vô Biên qua cái hữu hạn.
Cái việc từ bỏ này – từ bỏ việc biểu đạt – chính là nền tảng của đạo đức học, là cơ sở của đạo đức học. Chả có bộ luật đạo đức nào không lấy việc từ bỏ đó làm nền tảng.
Đạo đức học luôn bảo: “Không phải Tao, mà là mày.” Phương châm của nó là “Không phải Tự Ngã, mà là Phi Ngã.” Mấy cái ý tưởng vớ vẩn về chủ nghĩa cá nhân mà người ta cứ bám vào khi cố đi tìm cái Năng Lực Vô Biên hay Niềm Vui Vô Biên bằng giác quan, phải từ bỏ đi – đạo đức học bảo vậy. Mày phải đặt mình xuống sau cùng, đặt mấy người khác lên trước. Các giác quan nói: “Mày trước.” Đạo đức học lại bảo: “Tao phải giữ lại sau cùng.” Cứ như vậy, tất cả các bộ luật đạo đức đều dựa trên sự từ bỏ đó; phá hủy, chứ không phải xây dựng cái cá nhân trên mặt vật chất. Cái Vô Biên sẽ chẳng bao giờ có thể diễn đạt được trên mặt vật chất đâu.

Vì thế, con người phải từ bỏ cái vật chất và vươn lên những bình diện khác để tìm cách diễn đạt Cái Vô Biên đó một cách sâu sắc hơn. Nhiều bộ luật đạo đức khác nhau đã được hình thành như thế, nhưng tất cả đều có một ý tưởng trung tâm, đó là sự xóa bỏ cái ngã. Sự xóa sổ cái ngã tuyệt đối chính là lý tưởng của đạo đức học. Mày sẽ ngạc nhiên khi được yêu cầu đừng nghĩ về bản sắc cá nhân của mình. Mày sẽ rất sợ khi phải bỏ đi cái mà mày gọi là cá tính của mình. Nhưng chính những người đó lại nói mấy lý tưởng cao cả của đạo đức học là chân chính, nhưng chẳng bao giờ nghĩ rằng mục tiêu, phạm vi, và ý tưởng của đạo đức học là phá hủy, chứ không phải xây dựng cái cá nhân.
Cái thuyết vị lợi không thể giải thích được mối quan hệ đạo đức giữa con người, bởi vì ngay từ đầu, ta chẳng thể rút ra được những quy luật đạo đức từ việc tính toán lợi ích. Nếu không có siêu nhiên hay không có sự cảm nhận siêu thức, như tao hay nói, thì chẳng có cái đạo lý nào hết. Nếu không có nỗ lực vươn tới Cái Vô Biên thì sẽ chẳng có lý tưởng nào cả. Bất kỳ hệ thống nào muốn gò bó con người vào giới hạn xã hội đều không thể giải thích được quy luật đạo lý của nhân loại. Mấy người theo thuyết vị lợi muốn mày bỏ luôn việc nỗ lực vươn tới Cái Vô Biên, bỏ luôn mọi nỗ lực đi tìm cõi siêu giác, vì cho đó là vô lý, nhưng lại bảo mày sống theo chuẩn mực đạo đức, làm cái tốt cho xã hội. Tại sao mày phải làm cái tốt? Làm cái tốt chẳng qua là chuyện nhỏ thôi. Mày phải có một lý tưởng. Đạo đức học chẳng phải là mục tiêu mà chỉ là công cụ giúp mày đạt được mục tiêu. Tại sao mày phải làm cái tốt cho người khác mà không làm tổn thương họ? Nếu hạnh phúc là mục tiêu của nhân loại thì tại sao tao lại không hưởng hạnh phúc và để kẻ khác chịu khổ? Cái gì ngăn cản tao?
Lý do thứ hai là nền tảng của thuyết vị lợi quá hẹp. Mọi hình thức xã hội hiện tại và mọi phương pháp đang áp dụng trong xã hội đều được rút ra từ xã hội này, nhưng những người theo thuyết vị lợi lấy quyền gì để nói rằng xã hội là vĩnh cửu? Nhiều kỷ nguyên trước xã hội đã không tồn tại, và có thể nó sẽ chẳng tồn tại sau này nữa. Chắc là chỉ là một giai đoạn tạm thời để đưa ta tới sự tiến hóa cao hơn, và bất kỳ quy luật nào chỉ rút ra từ xã hội này đều không thể vĩnh cửu, không thể bao quát hết bản chất con người. Những học thuyết vị lợi chỉ có thể áp dụng trong xã hội hiện tại thôi. Ra ngoài xã hội này là nó hết xài được.
Nhưng một nền tảng đạo đức, một chuẩn mực đức hạnh từ tôn giáo và tâm linh lại bao quát cả con người vô biên. Nó nói về từng cá nhân, nhưng mối liên quan của nó là đến Cái Vô Biên; và nó cũng nói về cả xã hội – vì xã hội cũng chỉ là mấy cá nhân tụ lại với nhau; khi chuẩn mực đạo lý được áp dụng vào các cá nhân và mối quan hệ vĩnh cửu giữa họ, thì nó cũng tự động áp dụng cho toàn xã hội, bất kể thời gian nào, điều kiện nào. Vì thế, ta thấy rằng tôn giáo mang yếu tố tâm linh luôn là điều thiết yếu với nhân loại. Con người không thể lúc nào cũng chỉ nghĩ đến vật chất, dù có thích đến đâu.

Có người bảo, quá bận tâm đến mấy vấn đề tâm linh sẽ làm rối loạn các mối quan hệ thực tiễn trong thế giới này. Ngay từ ngày xưa ở Trung Quốc, Khổng Tử có bảo: “Cứ lo cái kiếp này, đợi chết rồi lo kiếp sau.” Đúng, chăm lo kiếp này là điều tốt. Nhưng nếu quá bận tâm vào tâm linh có thể làm rối loạn mối quan hệ thực tế, thì việc quá chú tâm vào cái gọi là đời sống thực tế cũng có thể hại cho cả kiếp này lẫn kiếp sau. Nó biến ta thành mấy người duy vật. Vì con người không nên xem bản chất/nature như mục tiêu, mà phải là cái gì cao hơn.
Con người là con người chừng nào còn chiến đấu để vượt qua bản chất, cả bản chất trong nội tâm lẫn ngoài xã hội. Nó không chỉ bao gồm mấy quy luật chi phối các phân tử vật chất bên ngoài và trong cơ thể ta, mà còn cả cái bản chất tế vi bên trong, chính bản chất đó mới thực sự chi phối thế giới bên ngoài. Chinh phục thế giới tự nhiên là tốt, nhưng sẽ vĩ đại hơn nếu chinh phục được bản thân bên trong ta. Hiểu quy luật điều khiển các vì tinh tú và hành tinh là tốt, nhưng sẽ tuyệt vời hơn nếu hiểu được quy luật điều khiển cảm xúc, đam mê và ý chí của con người. Chinh phục được con người nội tâm, hiểu được bí mật các hoạt động bên trong tâm trí, tất cả đều là tôn giáo.
Tác giả: Đại sư Vivekanada
XAMVN Originals | Sự cần thiết của TÔN GIÁO
Phần 1: https://xamvn.nl/r/xamvn-originals-su-can-thiet-cua-ton-giao-vo-than-ne-ra-dum-ik-p1-3.1302668/
Phần 2: https://xamvn.nl/r/xamvn-originals-su-can-thiet-cua-ton-giao-p2-3.1303140/