• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Live Báu : bản ngã quá lớn / Giáp : đần độn ngu si

Loren kích

Phó thường dân
Brazil
Sau khi xem lại hết và tổng hợp thông tin, liên kết xâu chuỗi toàn bộ các sự kiện, tham khảo hết các ý kiến, phản hồi, dư luận từ bà con xung quanh, tao đưa ra kết luận sau đây :


1 / Thầy Minh Tuệ xử lý như vậy là đúng và chuẩn mực. Thầy có thể bị chậm và phải đi xa hoặc vất vả gian nan hơn để đến Tây Trúc lấy đc Chân Kinh nhưng với Đức và Hạnh sáng ngời vô biên vốn dĩ ẩn sâu tự nhiên bên trong con người thầy, thầy vẫn có thể đạt được Chánh Quả với nhiều sự giúp đỡ khác, nhiều cái Hữu duyên tốt đẹp sẽ giúp thầy hoàn thành Sứ mệnh lớn

(Lời khuyên : Thầy Minh Tuệ chẳng cần bất cứ lời khuyên nào, với Trí Hạnh siêu phàm có được tự nhiên, thầy chắc chắn sẽ đạt tới những thành tựu kinh ngạc mà ngay cả thầy cũng không ngờ đến - sức ảnh hưởng lớn của một Vỹ nhân thậm chí đứng đầu trong thế kỷ 20)



2 / Anh Báu đã có một lợi thế rất lớn, phải nói là sự khởi đầu tuyệt vời và may mắn hơn cả nghìn người khác khi ngay từ đầu anh đã tụ duyên, đến được cùng đi bên cạnh thầy Minh Tuệ. Phước đức tổ tiên dòng họ anh Báu ngàn năm tích lại được cơ hội này nhưng anh Báu không duy trì nó. Bản ngã quá lớn, tự cao tự đại và luôn cho rằng mình đúng - tất nhiên anh cũng có tài năng thực lực ứng chiến rất giỏi (vì những thằng giỏi đều là những thằng kiêu) Anh Báu có nhiều ưu điểm, khả năng xử lý tình huống nhanh nhẹn, tùy cơ ứng biến, đối ngoại tốt, ý chí và động lực cầu tiến cao, nhưng anh vẫn chưa làm chủ được hết Bản ngã của chính mình, sự tự ái, sân hận sinh ra đều là do cái Ngã (cái Tôi) của ta quá cao

(Lời khuyên : anh Báu hãy vứt bỏ cái Tôi của mình đi hoặc anh phải giảm bớt lòng tự trọng xuống, đừng quá quan trọng cái sỹ diện, hãy vứt bỏ cái thanh danh thị phi đi. Nếu làm được điều này thì anh sẽ làm nên Nghiệp lớn ko chỉ riêng anh mà rạng danh cả ngàn năm dòng họ. Hãy đến quì gối xin lỗi thầy Minh Tuệ và xin đi tiếp theo thầy, Thầy Tuệ luôn mỉm cười xí xoá hết. Không chỉ dừng Ấn Độ mà cả 5 Châu lục, 4 đại dương - và Điều thần kỳ sẽ xảy ra)



3 / Chú Giáp cũng đã có một lợi thế khởi đầu rất may mắn, hội tụ đủ hữu duyên, gặp được thầy Tuệ và anh Báu. Nhưng nếu chỉ có một mình Giáp phò trợ thầy qua cả trăm nghìn kiếp nạn thì Giáp không thể làm được. Năng lực của Giáp yếu hơn nhiều anh Báu mặc dù Giáp cũng là người hoà đồng, tốt tính và ít cái Tôi. Giáp rất yêu vợ yêu con và Giáp cũng có được cái Lộc rất lớn, cái lợi nhuận lớn của trời ban cho khi Hữu duyên đến gặp được thầy Tuệ (Không phải ai cũng có được +1tr sub trong 3 tháng như Giáp). Tuy nhiên Giáp là người không có Chính kiến, dễ adua, dễ bị lôi kéo và làm theo lời người khác. Đáng ra khi có bất đồng nội bộ, Giáp phải là người trung gian, hoà giải, giảm bớt cái tôi của Báu đi nhưng Giáp đã không làm, cuối cùng còn adua dỗi bỏ, rủ nhau cùng bỏ đi, đây là một sai lầm không hề nhỏ của Giáp

(Lời khuyên : Giáp có thể quay lại xin đi tiếp cũng được mà ở lại nhà với vợ con cũng được. Tùy Giáp. Vì thực ra vai trò của Giáp không quá lớn. Giáp cũng đã thừa đủ Lộc Trời ban cho, đủ sống và hài hoà rồi. Bản thân Giáp là người hoà nhã, tốt tính, ít chính kiến thì không nên và ko hợp khi tham gia thị phi nhiều)
 
Tóm tắt: Báu, Giáp tuổi loz, hóng Bác Tô vào so kèo

Tô Lâm và thể chế Đảng Cộng xản Việt Nam đã mất rất nhiều công sức bao nhiêu thế hệ thậm chí cả nửa thế kỷ từ 1975-2025 vẫn không cách nào hòa giải đoàn kết dân tộc được, không thể hóa giải hận thù dân tộc, trong nước ngoài nước hoặc gắn kết người dân Việt Nam khắp thế giới bằng một mình Ông Minh Tuệ đã làm. Đó chính là sự diệu kỳ của Phật pháp. Phật Pháp Nhiệm Mầu có thể gắn kết và hòa giải hiệu quả hơn nhiều các thể chế chính trị độc đoán

Người đàn ông nhỏ nhắn, không giữ bất kỳ một vị trí quyền lực nào, không có tài sản nào đáng giá, trong khoảng gần một năm qua đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ của hàng triệu người Việt Nam. Cũng chính con người này, chỉ bằng lối tu tập dung dị của mình, đã khiến các hội đoàn phật giáo của nhà nước bao phen rung chấn.


447674829_1171438294196705_6139392468149013064_n.jpg
 
Nhân duyên là một quy luật, tùy duyên là một cách sống. Minh Tuệ nhất quán điều này, tiếc rằng nhiều người không hiểu ông.
Trong nhận thức của một nhà tu hành, vạn sự trên đời đều có nhân duyên, không có gì tự dưng sinh ra hay tự dưng mất đi, vì thế họ chấp nhận chúng một cách vô điều kiện trong tâm thái bình đẳng và xả bỏ, kể cả tính mạng. Cũng vì thế, họ không cầu sự thuận lợi hay an toàn, tất cả với họ đều "tốt đẹp".

Điều này giải thích cho việc Minh Tuệ hoàn toàn thả lỏng trong mọi tình huống, từ việc bị đám đông đeo bám đến việc bị "úp sọt" ở Huế hay hành trình đi Ấn Độ. Việc Đoàn Văn Báu tự tìm đến cũng là nhân duyên, ông vui vẻ chấp nhận Báu, rồi Báu rời đi cũng là nhân duyên, ông bình thản gật đầu. Cũng bởi tư duy và ứng xử này, việc duy ý chí trong sắp đặt, chỉ đạo, can thiệp của Báu về chuyến hành trình là trái với lý nhân duyên và ngược với tinh thần tùy duyên của người tu. Tức là nó đụng đến cốt lõi của tư tưởng và ứng xử trên đường cầu đạo của họ. Một người đã có bản lĩnh như Minh Tuệ thì không sao, nhưng với Báu (và hầu hết facebook, youtube, xammer..) thì phiền não, một thứ phiền não tự chuốc lấy vì tham vọng dùng ý chí để “thu xếp” quy luật.

Bất biến, tùy duyên; tùy duyên nhưng bất biến. Nắng mưa, sương tuyết, ốm đau, sống chết..., cứ tùy theo cảnh duyên mà sống, không cưỡng cầu. Nhìn bề ngoài, tùy duyên giống với tùy tiện, nhưng sâu xa hơn nó thể hiện một tự do tinh thần tuyệt đối: không khởi tâm trước hoàn cảnh. Đây là điều ông Báu không hiểu, vì thế ông thường trách Minh Tuệ là trả lời nước đôi, không rõ ràng. Minh Tuệ nói, anh Báu ở lại cũng tốt đẹp mà đi cũng tốt đẹp! Báu không hiểu được. Ở lại cũng tốt đẹp vì duyên còn, đi cũng tốt đẹp vì duyên hết, và quan trọng là ở hay đi cũng không ảnh hưởng gì đến tâm ông. Minh Tuệ không dùng ý chí để đưa ra quyết định, “hợp thời” thì làm, thế thôi. Nó giải thích cho việc Minh Tuệ không ngăn cản cũng không mời gọi, ai muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, ai phỏng vấn cứ phỏng vấn, hỏi thì nói, không thì thôi. Điều ấy có nghĩa là nếu bây giờ vì lý do nào đó mà phải quay về, ông cũng bình thản như lúc khởi hành. Người ta khổ vì chống lại nhân duyên chứ không phải bởi bản thân hoàn cảnh.

Không bàn về sự hay dở của triết lý này, nhưng phải hiểu rằng đó là tư duy và lối sống của người tu hành. Vì cái họ cầu không phải là sự thuận lợi của hoàn cảnh (nhân duyên), mà là làm chủ được tâm mình: không xao động trước cuộc đời. Phải hình dung rằng họ hướng đến rèn luyện một cái tâm phẳng lặng như gương, phản chiếu mọi biến động của đời nhưng không bị hoen ố. Đến Ấn Độ không phải là mục đích, làm chủ cái tâm mới là tông chỉ.

Nay, nhiều người cũng hay nói “tùy duyên” nhưng kỳ thực nó giống với tùy tiện nhiều hơn, thậm chí chỉ dùng nó như là một sự ngụy tín nhằm trốn chạy, che đậy và thoái thác trách nhiệm với mình và tha nhân. Cốt tủy của tùy duyên là tự do: dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào anh vẫn là anh, bình thản, an nhiên, tự tại, không từ bỏ mục tiêu. Sống theo cảnh duyên nhưng tâm bất biến: trong sáng, không vướng lụy phiền. Đó chính là giải thoát...
 
Nhiệm vụ khó khăn nhưng mấy thằng này phải là những cán bộ rất ưu tú mới được chọn đi, ko biết tiền youtube mấy thằng này đơn vị nhận tiền hay mấy thằng này được bỏ túi nhỉ, được bỏ túi thì thơm quá
 
Nhiệm vụ khó khăn nhưng mấy thằng này phải là những cán bộ rất ưu tú mới được chọn đi, ko biết tiền youtube mấy thằng này đơn vị nhận tiền hay mấy thằng này được bỏ túi nhỉ, được bỏ túi thì thơm quá
Trong đầu mày lúc nào cũng chỉ có tiền thì mày không thể đến được Niết bàn đâu cu
 
Bọn mày theo dõi ông Minh Tuệ thật kỹ vào.
Bọn mày sẽ hiểu sâu sắc hơn về Phật giáo
Ông Tuệ đang thể hiện cho chúng sinh hiểu thế nào là bước thực hành cuối cùng của thiền tông là thõng tay vào chợ
Cho nên càng ồn ào càng xô bồ càng phức tạp thì nó càng là thử thách trên bước đường tu của ông ấy

Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỔ thõng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.
 

Tranh Chăn Trâu Đại Thừa và Thiền Tông

Thích Tuệ Sỹ​

phatdayluyentamnhuchantrau-content
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến từ đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các tòng lâm, thiền viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ “mục ngưu đồ” khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ và QUÁCH AM.
Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại : loại tranh theo khuynh hướng Đại Thừa, và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông. Trong hai loại, tranh vẽ sai khác nhau hết, nhưng bài tụng và chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.

A. TRANH ĐẠI THỪA

I. TRANH

Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.

Đó là tượng trưng cho phép tu TIỆM. Theo phép tu tiệm thì phải rất nhiều công phu mới tiến lên được từng nấc thang giác ngộ ; nhờ công phu, cái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang lâu ngày chầy tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy :

Nhật cửu công thâm thỉ chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực TIỆM điều nhu
(Công phu chầy tháng mới quay đầu
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)

Còn về thứ lớp thì bộ tranh Đại Thừa nào cũng mở đầu bằng bức họa vi mục (chưa chăn) vẽ con trâu hoang, và khép lại bằng bức họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Viên Giác. “Song dẫn” là dứt hết cả hai : trâu và mục đồng, tâm và cảnh, dứt được hết là hiển hiện ánh Chơn Như lung linh trong màu cỏ nội hoa ngàn:

Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng


nghĩa :

Người trâu chẳng thấy biệt mù tăm
Trăng sáng soi trùm muôn tượng không
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy
Um tùm cỏ nội với hoa đồng

Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ tranh chăn trâu loại Đại Thừa nầy trong cuốn Judo International của Liên Đoàn Nhu Đạo Pháp quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn các bài tụng và chú; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyễn Duy Cần (phần phụ lục) ; trong pho sách cổ “Mục ngưu đồ” bằng chữ Hán tại thư viện chùa Xá Lợi ; trong tập “Học làm Phật” của thầy Trường Lạc (chùa Linh Chưởng ấn hành, 1964) trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu Đại Thừa, vừa nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.

II. NỘI DUNG

Đề tài chung của các loại tranh chăn trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều, song không ngoài việc bắt tâm. Nên thập mục ngưu đồ có thể coi như là lời giải đáp cho câu hỏi trong kinh Kim Cương :

“Vân hà hàng phục kì tâm ?”
(Làm sao làm chủ được cái tâm?)

Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu nên có mục đồng. Vì có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại Thừa đều nhắm vào sự “cột” trâu, tức là “điều tâm” vậy. Tâm là con trâu hoang. Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng giây lòi tói v.v… Cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ đề v.v… Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức họa đầu : “vị mục, sơ điều, thọ chế, hồi thủ và tuần phục”. Đó là giai đoạn của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong giai đoạn kế.

Trong giai đoạn nầy, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng ngại.

Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp.

Đó là bước tu chứng của hàng tiểu thừa (thanh văn và duyên giác) diễn đạt bằng hai bức họa “vô ngại” và “nhiệm vận”.

Cần đi thêm bước nữa, khai thác HUỆ giác đến chỗ TÂM vô TÂM :
“Nhân vô tâm, ngưu diệc vô tâm”.

Đến đây mới phá được pháp chấp : pháp cũng không, mà ngã cũng không, trâu cũng mất mà người cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát, diễn tả bằng hai bức họa “tương vong” và “độc chiếu” :
“Tâm cảnh song vong nãi thị chân pháp”.

Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một vòng tròn : Viên Giác. Đó là ý nghĩa của bức tranh chót (song dẫn) khép lại quá trình tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệ, từ thanh văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm, từ chỗ tất cả đều có đến chân pháp đều không v.v… Đó là vô dư Niết Bàn.

Tóm lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại quá trình công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối cùng chỉ để tự tại thôi (être simplement). Cái vòng tròn cuối cùng (tranh 10 : song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của chúng ta, cắt đứt hẳn một trạng thái ý thức và hiện hữu mà thường chúng ta không được biết”.
(J. L. Jagarin : Le Judo International)

B. TRANH THIỀN TÔNG

tranh_chan_trau_thien_tong
I. TRANH

Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con trâu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa – ba cỗ xe – là xe dê, xe nai và xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn thì chỉ một thừa thôi – Phật thừa – trực tiếp đưa người vào cảnh giác. Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật. Thiền Tông chủ trương trực tiếp thành Phật là vậy.

Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.

Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực ; xưa nay chưa hề có Phật cấp bực bao giờ (Bổn lai vô thứ đệ Phật – Hy Vận), nên người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.

Còn về thứ lớp thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu, vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) và khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.

Riêng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên Thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là nhân ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người đều quên. Bảng đối chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh, về hình thức cũng như về nội dung :

TRANH ĐẠI THỪA TRANH THIỀN TÔNG

1. Vị mục : chưa chăn 1. Tầm ngưu : tìm trâu
2. Sơ điều : mới chăn 2. Kiến tích : thấy dấu
3. Thọ chế : chịu phép 3. Kiến ngưu : thấy trâu
4. Hồi thủ : quày đầu 4. Đắc ngưu : được trâu
5. Tuần phục : vâng chịu 5. Mục ngưu : chăn trâu
6. Vô ngại : không ngại 6. Kỵ ngưu qui gia : cỡi trâu về nhà
7. Nhiệm vận : tha hồ 7. Vong ngưu tồn nhân : quên trâu còn người
8. Tương vong : cùng quên 8. Nhân ngưu câu vong : người trâu đều quên
(vẽ vòng tròn)
9. Độc chiếu : soi riêng 9. Phản bổn hoàn nguyên : trở về nguồn cội
10. Song dẫn : dứt cả hai 10. Nhập triều thùy thủ : thõng tay vào chợ
(vẽ vòng tròn)

Chúng ta có thể thưởng thức loại tranh này tại chùa Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng Sài Gòn ; tranh vẽ lớn trên tường bằng sơn dầu, tại chánh điện ; tuy nét bút thiếu cổ kính, tranh cũng phản ảnh phần nào cái thiền phong ngày trước.

Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem nhiều loại khác trong các tác phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn, do giáo sư Thiền học Suzuki biên soạn :

- The Ten Oxherding Pictures,
- Manual of Zen Buddhism,
- Essays in Zen Buddhism, First Series.

Còn một loại tranh khác, rất cổ kính, in bằng mộc bản, do Paul Reps sưu tập trong tác phẩm Zenflesh Zen bones (Thiền cốt Thiền nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle Co – Rutland Vermont – Tokyo Japan – 1957). Chính từ tác phẩm này chúng tôi trích in lại mười bức họa sau đây.

II. NỘI DUNG

Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiền vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại Thừa là ngã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. “Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, là tư duy, là intellect, được coi là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì :

vô niệm : niệm tức chánh
hữu niệm : niệm thành tà
(Pháp bửu đàn kinh)

Do đó Thiền kỵ hý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng hoặc có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh ưa lý luận mà loài người chúng ta hằng tự phụ.​

***​

Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này.

Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng vẫn những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác : tu thì tiệm mà chứng thì đồn.​

***​

 
THẬP MỤC NGƯU ĐỔ của Thiền Tông cũng ghi lại bước tiến từng bực ấy trong thời gian và không gian.

Chúng tôi xin trình bày bước tiến ấy theo ba đoạn đường : sai tâm bắt tâm – tâm vô tâm – bình thường tâm.

1. SAI TÂM BẮT TÂM

Chú mục đồng đi tìm trâu (tranh 1). Tìm ở đâu ? Đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm, là nẻo dọc đường ngang, chỉ có tiếng ve kêu rộn rã đầu cành.

Rồi chú thấy dấu chân trâu (tranh 2), thấy thân trâu (tranh 3). Thì ra trâu có mất đi đâu, tại chú không thấy đó thôi. Trâu vẫn đứng đó một mình, tự thuở nào, đôi sừng lẫm liệt, mũi đụng mây xanh.

Rồi chú chụp lấy trâu (tranh 4), rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh, canh chừng không rời mắt, quyết dõng mãnh để mà chiến thắng. Lần lần trâu thuần tánh ngoan ngoãn theo chú như bóng theo hình (tranh 5). Rồi chú cỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, hát líu lo, lòng vui không nói được (tranh 6 : kỵ ngưu quy gia).

Cỡi trâu về nhà là cỡi tâm về chỗ ban sơ.

Người ta đi tìm trâu vì trong đôi giây phút khác thường nào đó, người ta đâm ngờ bản thân mình, cũng như ngờ những điều mắt thấy tai nghe. Có nghi mới có tìm. Có tìm ắt gặp dấu. Gặp dấu trong kinh sách, và nhất là trong những phút trống trải, cảnh vắng, đêm tàn, trí óc nhẹ suy tư, con người bỗng dưng như đối diện với chính mình trong một niềm đau thương và kỳ thú khó nói.

Thế là bắt được dấu, con người phăn mối đi tìm trâu. Đó là giai đoạn ngoại cầu. Ngoại cầu là “khiến Phật đi tìm Phật, sai tâm đi bắt tâm” (Hy Vận). Tâm ở đâu mà bắt ? Thử coi : lần lượt qua sáu bức họa, ta thấy khoảng cách giữa trâu và người chăn trâu cứ thâu ngắn lại mãi cho đến rốt cuộc người chăn trâu ngồi hẳn trên lưng trâu, trâu với người nhập làm một. Vậy nên hỏi rằng tâm ở đâu chẳng khác nào hỏi trâu ở đâu trong khi chính ta đang cỡi trên lưng trâu. Ta đã đuổi bắt tâm khắp đó đây, rốt cuộc mới nhận ra rằng tâm ở nơi ta ; ta chỉ cần dừng bước lại là nó hiện liền trước mắt, và sự vật hiện nguyên hình trong ánh sáng mới lạ.

Dừng bước lại : ai ngờ đâu cái việc làm hết sức là vô vi ấy lại có một thần lực nhiệm mầu có thể thay đổi cả cuộc diện của một kiếp người, cả một lớp người. Nếu thỉnh thoảng loài người chúng ta biết dừng chân lại vài phút, ngồi im một chỗ vài phút – vài phút thôi – thì khuôn mặt của thế gian nầy chắc không đến đỗi quá nhăn nhíu như ngày nay.

2. TÂM VÔ TÂM

Tuy nhiên, còn tâm là còn cảnh. Còn cảnh thì còn “xúc cảnh sanh tình”. “Tình sanh thì trí cách”. Tâm, cảnh, tình kết dính vào nhau trong cái thế liên hoàn, cái vòng nhơn duyên gây ray rứt, mâu thuẫn.

Đạo không có mâu thuẫn. Thiền là “bất nhị pháp môn”, không hai mà cũng không một.

Mâu thuẫn là do tâm, do niệm.

Ta niệm vì ta tưởng rằng mình thiếu một cái gì, nên đi tìm ở ngoài mình để đắp vào. Thiền dạy rằng ta không thiếu gì hết, tự đời thuở nào ta vốn là tròn đầy, ngàn trước, ngàn sau. Ta không thiếu. Trái lại ta có dư : cái hại là ở đó. Ta dư đủ thứ do niệm đặt bày ra, do suy tư vẽ vời thêm, đủ thứ. Những cái dư ấy, gọi chung là vô minh. Vô minh vốn không thật, nên không ai hoài công mà trừ nó bao giờ, mà chỉ cần tự tri tự giác thôi. Tự biết được “con người thật” của mình thì vô minh tan mất, như bóng tối tan trước vừng dương. Phật dạy trong kinh Viên Giác :

tri huyễn tức li
li huyễn tức giác
là vậy.

Cũng vậy, khi sư Huệ Khả ra mắt tổ Đạt Ma xin pháp an tâm, Tổ dạy : Người đem “tâm” lại đây ta “an” cho. Sư lính quýnh hồi lâu, sau đành thú thiệt : Con tìm mãi mà không thấy được tâm. Tổ dạy : Thầy đã “an” rồi cái “tâm” của con đó.

Như vậy, cái việc mà ta quen gọi là phá vọng không còn là một việc làm nữa – nếu không nói là một việc làm VÔ VI – mà xét cùng ra chỉ là một sự nhận thức thôi, một prise de conscience – nhận thức tánh Phật bổn lai ở trong ta.

Vậy, sau giai đoạn ngoại cầu, tiếp theo là giai đoạn tự tri tự giác. Tự tri không phải bằng suy niệm mà bằng dứt niệm; dứt niệm bằng những phép tu tập rất vô vi, như tịnh quán chẳng hạn. Bằng tịnh quán, con người thấy, – xin nói rõ là thấy, là kiến, là tri kiến, chớ không phải là học, là nghĩ, hay nghe nói, (tất cả bí quyết của sự chứng ngộ đều nằm ở chữ thấy đó) – thấy tâm không thật, thấy người không thật.

Thấy tâm không thật thì tâm dứt : trâu quên (tranh 7 : vong ngưu tồn nhân).
Thấy người không thật thì người quên nốt (tranh 8 : nhân ngưu câu vong).

Người và trâu đều quên, thì tự lòng đất dõng mãnh vọt lên mặt trời huệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn Viên Giác (tranh 8). Đó là Tâm vô Tâm. “Biết cái tâm là không tâm, ấy là hiểu suốt đạo Phật”.

Sau đây, chúng tôi xin mượn lời giáo sư Thiền học Suzuki đóng lại đoạn nầy :

”Đứng về mặt tâm lý, giác là vượt ra ngoài vòng ràng buộc của bản ngã”.
“Về mặt lý luận, giác là viên dung có và không”.
“Về mặt siêu hình, giác là trực ngộ được cái lẽ tự tại là luân hồi, luân hồi là tự tại”.

3. BÌNH THƯỜNG TÂM

Thiền cho rằng vô tâm chưa phải là đạo, mà còn phải qua một quan ải nữa:

Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhất trùng quan.
(Trần Thái Tôn)

Thật vậy, trong đêm cuối cùng, khi đức Phật ngồi ở cột bồ đề, Ngài lần lượt xuất gia và nhập ba từng cảnh giới tâm linh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) tức là Ngài đang chứng được cái tâm vô tâm. Song Ngài còn phải thức tỉnh dậy nữa, nhờ ánh sao mai, để mà trở về ý thức bình thường. Từ trạng thái “nhân cảnh câu đoạt”. Ngài phải trở về trạng thái “nhân cảnh câu bất đoạn” (Cảnh và người đều giữ nguyên.Chữ của Thiền Lâm Tế trong pháp “tứ liệu giản”) để trả lại tất cả cho cuộc sống thường nhiên.

Trở về là trở về với trời đất, với muôn sinh, với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để, như mọi người, “thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.

Trở về với trời đất – Trở về với trời đất, với Pháp giới : đó là ý nghĩa của bức họa số 9, đề “Phản bổn hoàn nguyên”, và vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.

Tự đời thuở nào, con người vốn là thanh tịnh, vốn là không, nên Thiền dạy khỏi phải làm hết, chỉ cần thấy tánh là được trở về để mà nhập cuộc.

Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự tự nhiên, không thỉ không chung của trời đất.

Trong trật tự ấy, chúng sanh là một pháp vô tâm nên vô sự. Viên sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi. Muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau trong pháp giới vô ngại : nước chảy, hoa trôi, trăng lên, gió mát. Muôn vật đều vô ngại nên tự tại, không phải tự tại ở Niết Bàn, không phải tự tại trong phiền não mà tự tại trong KHÔNG : Niết Bàn và phiền não chỉ là trò ảo thuật của tâm. Trong trạng thái KHÔNG ấy, những danh từ thánh phàm phải trái, tỉnh mê, đều mất nghĩa, tất cả đều là đại đồng, ứng hóa từ một giác tánh, nên :

Nhất thiết không Niết Bàn
Không có Niết Bàn Phật
Không có Phật Niết Bàn
(Lăng Già)

TẤT CẢ là MỘT. MỘT là TẤT CẢ

Một hột bụi chứ đủ ba ngàn thế giới. Bà ngàn thế giới là một hột bụi: đều là KHÔNG.

“Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Nhìn xem bóng nguyệt giòng sông,
Ai hay không có có không là vầy”.
(Huyền Quang tôn giả)

Đó là cái thấy của hàng bồ tát “quán tự tại”, nghĩa là quán đến chỗ cùng tột và tuyệt đối của sự vật.

Trở về với thế tục -… Dưới lớp áo của thế tục, đạo sĩ trộn lẫn vào cát bụi của tình đời. Vả, cát bụi cũng không thấy là bợn dơ nữa, mà chỉ còn là một diệu dụng, như hằng sa diệu dụng khác, của Giác Tánh Bồ Đề. Đạo sĩ không phải là Phật, là Bồ Tát, mà chỉ là một người thường, rất thường, một người vô tâm vô sự, vô tích sự, một người không là gì hết, một “vô vị chân nhân”.

“vào rừng không khua ua lá
vào nước không quậy sóng”
(nhập lâm bất động thảo
nhập thủy bất lập ba)

Trở về với thế tục là trở về với cái tâm bình thường. Thiền dạy : “Bình thường tâm thị đạo”.

Quốc sư Phù Vân đời nhà Trần nói :

“Lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình.
Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình”.

Cái muốn ấy chính là cái muốn mà đức Khổng Tử phải chờ đến bảy mươi tuổi mới dám muốn, sau khi chứng lý “vô ngã” :

“Thất thập tòng tâm chi sở dục”.

Chứng được đạo lý ấy thì làm gì cũng hiệp đạo, “không theo không lìa, không dừng không dính, tung hoành tự tại, đâu phải là đạo tràng” pháp nào là Phật pháp, đi đứng nằm ngồi cũng là Phật pháp, chém rắn giết mèo cũng là Phật pháp, đói ăn khát uống cũng là Phật pháp.

Cho nên Tổ Huệ Trung Trần Quốc Tảng, mới ung dung ngồi ăn thịt cá, khiến bà em là hoàng hậu Khâm Từ lấy làm lạ hỏi :

- Anh đi tu mà lại ăn cá thịt sao thành Phật được?

Ngài cười đáp :

- Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm ra Phật, cũng như Phật chẳng cần làm ra anh. Hoàng hậu chẳng nghe Cổ Đức nói “Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát” đó ư ?

Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỔ thõng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.

KẾT LUẬN

Để gom hết yếu lý chung của mười bức tranh chăn trâu, chúng tôi xin chép lại bài kệ sau đây thay lời kết luận :

Tầm ngưu tu phóng tích
Học đạo quí vô tâm
Tích tại, ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm


Nghĩa :

Tìm trâu cần phăn dấu
Học đạo cốt vô tâm
Dấu đâu thì trâu đó
Vô tâm đạo dễ tâm

Phước Châu Đại An hỏi :

- Tôi khao khát hiểu pháp Phật, đó như cái gì ? Bách Trượng đáp : Hệt như cỡi trâu tìm trâu.

Hỏi : Hiểu rồi thì như thế nào ?
Đáp : Như người cỡi trâu về nhà.

Hỏi : Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp ?
Đáp : Như người chăn trâu cầm roi giữ trâu mình đừng phạm đến lúa mạ của người.

______________

PHỤ LỤC

Thi tụng và Họa của các Thiền Sư về Tranh Chăn Trâu
.

TUỆ SỸ soạn tập

 
t đang some với phật và chúa trên niết bàn đây
đợi tụi m lên sau
Con gái của báu đó
Còn mày, chừng nào mày mới đến ?
Nhân duyên là một quy luật, tùy duyên là một cách sống. Minh Tuệ nhất quán điều này, tiếc rằng nhiều người không hiểu ông.
Trong nhận thức của một nhà tu hành, vạn sự trên đời đều có nhân duyên, không có gì tự dưng sinh ra hay tự dưng mất đi, vì thế họ chấp nhận chúng một cách vô điều kiện trong tâm thái bình đẳng và xả bỏ, kể cả tính mạng. Cũng vì thế, họ không cầu sự thuận lợi hay an toàn, tất cả với họ đều "tốt đẹp".

Điều này giải thích cho việc Minh Tuệ hoàn toàn thả lỏng trong mọi tình huống, từ việc bị đám đông đeo bám đến việc bị "úp sọt" ở Huế hay hành trình đi Ấn Độ. Việc Đoàn Văn Báu tự tìm đến cũng là nhân duyên, ông vui vẻ chấp nhận Báu, rồi Báu rời đi cũng là nhân duyên, ông bình thản gật đầu. Cũng bởi tư duy và ứng xử này, việc duy ý chí trong sắp đặt, chỉ đạo, can thiệp của Báu về chuyến hành trình là trái với lý nhân duyên và ngược với tinh thần tùy duyên của người tu. Tức là nó đụng đến cốt lõi của tư tưởng và ứng xử trên đường cầu đạo của họ. Một người đã có bản lĩnh như Minh Tuệ thì không sao, nhưng với Báu (và hầu hết facebook, youtube, xammer..) thì phiền não, một thứ phiền não tự chuốc lấy vì tham vọng dùng ý chí để “thu xếp” quy luật.

Bất biến, tùy duyên; tùy duyên nhưng bất biến. Nắng mưa, sương tuyết, ốm đau, sống chết..., cứ tùy theo cảnh duyên mà sống, không cưỡng cầu. Nhìn bề ngoài, tùy duyên giống với tùy tiện, nhưng sâu xa hơn nó thể hiện một tự do tinh thần tuyệt đối: không khởi tâm trước hoàn cảnh. Đây là điều ông Báu không hiểu, vì thế ông thường trách Minh Tuệ là trả lời nước đôi, không rõ ràng. Minh Tuệ nói, anh Báu ở lại cũng tốt đẹp mà đi cũng tốt đẹp! Báu không hiểu được. Ở lại cũng tốt đẹp vì duyên còn, đi cũng tốt đẹp vì duyên hết, và quan trọng là ở hay đi cũng không ảnh hưởng gì đến tâm ông. Minh Tuệ không dùng ý chí để đưa ra quyết định, “hợp thời” thì làm, thế thôi. Nó giải thích cho việc Minh Tuệ không ngăn cản cũng không mời gọi, ai muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, ai phỏng vấn cứ phỏng vấn, hỏi thì nói, không thì thôi. Điều ấy có nghĩa là nếu bây giờ vì lý do nào đó mà phải quay về, ông cũng bình thản như lúc khởi hành. Người ta khổ vì chống lại nhân duyên chứ không phải bởi bản thân hoàn cảnh.

Không bàn về sự hay dở của triết lý này, nhưng phải hiểu rằng đó là tư duy và lối sống của người tu hành. Vì cái họ cầu không phải là sự thuận lợi của hoàn cảnh (nhân duyên), mà là làm chủ được tâm mình: không xao động trước cuộc đời. Phải hình dung rằng họ hướng đến rèn luyện một cái tâm phẳng lặng như gương, phản chiếu mọi biến động của đời nhưng không bị hoen ố. Ngồi trên máy bay vài tiếng nhanh lắm Đến Ấn Độ không phải là mục đích, làm chủ cái tâm mới là tông chỉ. Hạnh phúc không phải là cái đích cuối của con đường. Mà hạnh phúc chính là con đường. Vậy nên mới gọi là Đạo
 
Tô Lâm và thể chế Đảng Cộng xản Việt Nam đã mất rất nhiều công sức bao nhiêu thế hệ thậm chí cả nửa thế kỷ từ 1975-2025 vẫn không cách nào hòa giải đoàn kết dân tộc được, không thể hóa giải hận thù dân tộc, trong nước ngoài nước hoặc gắn kết người dân Việt Nam khắp thế giới bằng một mình Ông Minh Tuệ đã làm. Đó chính là sự diệu kỳ của Phật pháp. Phật Pháp Nhiệm Mầu có thể gắn kết và hòa giải hiệu quả hơn nhiều các thể chế chính trị độc đoán

Người đàn ông nhỏ nhắn, không giữ bất kỳ một vị trí quyền lực nào, không có tài sản nào đáng giá, trong khoảng gần một năm qua đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ của hàng triệu người Việt Nam. Cũng chính con người này, chỉ bằng lối tu tập dung dị của mình, đã khiến các hội đoàn phật giáo của nhà nước bao phen rung chấn.


447674829_1171438294196705_6139392468149013064_n.jpg
Đã bgio muốn hoà giải dân tộc đâu
 

Tranh Chăn Trâu Đại Thừa và Thiền Tông
Thích Tuệ Sỹ​

phatdayluyentamnhuchantrau-content
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến từ đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các tòng lâm, thiền viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ “mục ngưu đồ” khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ và QUÁCH AM.
Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại : loại tranh theo khuynh hướng Đại Thừa, và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông. Trong hai loại, tranh vẽ sai khác nhau hết, nhưng bài tụng và chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.

A. TRANH ĐẠI THỪA

I. TRANH

Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.

Đó là tượng trưng cho phép tu TIỆM. Theo phép tu tiệm thì phải rất nhiều công phu mới tiến lên được từng nấc thang giác ngộ ; nhờ công phu, cái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang lâu ngày chầy tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy :

Nhật cửu công thâm thỉ chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực TIỆM điều nhu
(Công phu chầy tháng mới quay đầu
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)

Còn về thứ lớp thì bộ tranh Đại Thừa nào cũng mở đầu bằng bức họa vi mục (chưa chăn) vẽ con trâu hoang, và khép lại bằng bức họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Viên Giác. “Song dẫn” là dứt hết cả hai : trâu và mục đồng, tâm và cảnh, dứt được hết là hiển hiện ánh Chơn Như lung linh trong màu cỏ nội hoa ngàn:

Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng


nghĩa :

Người trâu chẳng thấy biệt mù tăm
Trăng sáng soi trùm muôn tượng không
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy
Um tùm cỏ nội với hoa đồng

Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ tranh chăn trâu loại Đại Thừa nầy trong cuốn Judo International của Liên Đoàn Nhu Đạo Pháp quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn các bài tụng và chú; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyễn Duy Cần (phần phụ lục) ; trong pho sách cổ “Mục ngưu đồ” bằng chữ Hán tại thư viện chùa Xá Lợi ; trong tập “Học làm Phật” của thầy Trường Lạc (chùa Linh Chưởng ấn hành, 1964) trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu Đại Thừa, vừa nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.

II. NỘI DUNG

Đề tài chung của các loại tranh chăn trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều, song không ngoài việc bắt tâm. Nên thập mục ngưu đồ có thể coi như là lời giải đáp cho câu hỏi trong kinh Kim Cương :

“Vân hà hàng phục kì tâm ?”
(Làm sao làm chủ được cái tâm?)

Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu nên có mục đồng. Vì có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại Thừa đều nhắm vào sự “cột” trâu, tức là “điều tâm” vậy. Tâm là con trâu hoang. Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng giây lòi tói v.v… Cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ đề v.v… Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức họa đầu : “vị mục, sơ điều, thọ chế, hồi thủ và tuần phục”. Đó là giai đoạn của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong giai đoạn kế.

Trong giai đoạn nầy, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng ngại.

Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp.

Đó là bước tu chứng của hàng tiểu thừa (thanh văn và duyên giác) diễn đạt bằng hai bức họa “vô ngại” và “nhiệm vận”.

Cần đi thêm bước nữa, khai thác HUỆ giác đến chỗ TÂM vô TÂM :
“Nhân vô tâm, ngưu diệc vô tâm”.

Đến đây mới phá được pháp chấp : pháp cũng không, mà ngã cũng không, trâu cũng mất mà người cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát, diễn tả bằng hai bức họa “tương vong” và “độc chiếu” :
“Tâm cảnh song vong nãi thị chân pháp”.

Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một vòng tròn : Viên Giác. Đó là ý nghĩa của bức tranh chót (song dẫn) khép lại quá trình tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệ, từ thanh văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm, từ chỗ tất cả đều có đến chân pháp đều không v.v… Đó là vô dư Niết Bàn.

Tóm lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại quá trình công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối cùng chỉ để tự tại thôi (être simplement). Cái vòng tròn cuối cùng (tranh 10 : song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của chúng ta, cắt đứt hẳn một trạng thái ý thức và hiện hữu mà thường chúng ta không được biết”.
(J. L. Jagarin : Le Judo International)

B. TRANH THIỀN TÔNG
tranh_chan_trau_thien_tong

I. TRANH

Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con trâu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa – ba cỗ xe – là xe dê, xe nai và xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn thì chỉ một thừa thôi – Phật thừa – trực tiếp đưa người vào cảnh giác. Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật. Thiền Tông chủ trương trực tiếp thành Phật là vậy.

Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.

Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực ; xưa nay chưa hề có Phật cấp bực bao giờ (Bổn lai vô thứ đệ Phật – Hy Vận), nên người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.

Còn về thứ lớp thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu, vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) và khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.

Riêng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên Thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là nhân ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người đều quên. Bảng đối chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh, về hình thức cũng như về nội dung :

TRANH ĐẠI THỪA TRANH THIỀN TÔNG

1. Vị mục : chưa chăn 1. Tầm ngưu : tìm trâu
2. Sơ điều : mới chăn 2. Kiến tích : thấy dấu
3. Thọ chế : chịu phép 3. Kiến ngưu : thấy trâu
4. Hồi thủ : quày đầu 4. Đắc ngưu : được trâu
5. Tuần phục : vâng chịu 5. Mục ngưu : chăn trâu
6. Vô ngại : không ngại 6. Kỵ ngưu qui gia : cỡi trâu về nhà
7. Nhiệm vận : tha hồ 7. Vong ngưu tồn nhân : quên trâu còn người
8. Tương vong : cùng quên 8. Nhân ngưu câu vong : người trâu đều quên
(vẽ vòng tròn)
9. Độc chiếu : soi riêng 9. Phản bổn hoàn nguyên : trở về nguồn cội
10. Song dẫn : dứt cả hai 10. Nhập triều thùy thủ : thõng tay vào chợ
(vẽ vòng tròn)

Chúng ta có thể thưởng thức loại tranh này tại chùa Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng Sài Gòn ; tranh vẽ lớn trên tường bằng sơn dầu, tại chánh điện ; tuy nét bút thiếu cổ kính, tranh cũng phản ảnh phần nào cái thiền phong ngày trước.

Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem nhiều loại khác trong các tác phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn, do giáo sư Thiền học Suzuki biên soạn :

- The Ten Oxherding Pictures,
- Manual of Zen Buddhism,
- Essays in Zen Buddhism, First Series.

Còn một loại tranh khác, rất cổ kính, in bằng mộc bản, do Paul Reps sưu tập trong tác phẩm Zenflesh Zen bones (Thiền cốt Thiền nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle Co – Rutland Vermont – Tokyo Japan – 1957). Chính từ tác phẩm này chúng tôi trích in lại mười bức họa sau đây.

II. NỘI DUNG

Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiền vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại Thừa là ngã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. “Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, là tư duy, là intellect, được coi là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì :

vô niệm : niệm tức chánh
hữu niệm : niệm thành tà
(Pháp bửu đàn kinh)

Do đó Thiền kỵ hý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng hoặc có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh ưa lý luận mà loài người chúng ta hằng tự phụ.​

***​

Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này.

Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng vẫn những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác : tu thì tiệm mà chứng thì đồn.​

***​

Xin đảnh lễ 🙏🙏🙏
 
Nhân duyên là một quy luật, tùy duyên là một cách sống. Minh Tuệ nhất quán điều này, tiếc rằng nhiều người không hiểu ông.
Trong nhận thức của một nhà tu hành, vạn sự trên đời đều có nhân duyên, không có gì tự dưng sinh ra hay tự dưng mất đi, vì thế họ chấp nhận chúng một cách vô điều kiện trong tâm thái bình đẳng và xả bỏ, kể cả tính mạng. Cũng vì thế, họ không cầu sự thuận lợi hay an toàn, tất cả với họ đều "tốt đẹp".

Điều này giải thích cho việc Minh Tuệ hoàn toàn thả lỏng trong mọi tình huống, từ việc bị đám đông đeo bám đến việc bị "úp sọt" ở Huế hay hành trình đi Ấn Độ. Việc Đoàn Văn Báu tự tìm đến cũng là nhân duyên, ông vui vẻ chấp nhận Báu, rồi Báu rời đi cũng là nhân duyên, ông bình thản gật đầu. Cũng bởi tư duy và ứng xử này, việc duy ý chí trong sắp đặt, chỉ đạo, can thiệp của Báu về chuyến hành trình là trái với lý nhân duyên và ngược với tinh thần tùy duyên của người tu. Tức là nó đụng đến cốt lõi của tư tưởng và ứng xử trên đường cầu đạo của họ. Một người đã có bản lĩnh như Minh Tuệ thì không sao, nhưng với Báu (và hầu hết facebook, youtube, xammer..) thì phiền não, một thứ phiền não tự chuốc lấy vì tham vọng dùng ý chí để “thu xếp” quy luật.

Bất biến, tùy duyên; tùy duyên nhưng bất biến. Nắng mưa, sương tuyết, ốm đau, sống chết..., cứ tùy theo cảnh duyên mà sống, không cưỡng cầu. Nhìn bề ngoài, tùy duyên giống với tùy tiện, nhưng sâu xa hơn nó thể hiện một tự do tinh thần tuyệt đối: không khởi tâm trước hoàn cảnh. Đây là điều ông Báu không hiểu, vì thế ông thường trách Minh Tuệ là trả lời nước đôi, không rõ ràng. Minh Tuệ nói, anh Báu ở lại cũng tốt đẹp mà đi cũng tốt đẹp! Báu không hiểu được. Ở lại cũng tốt đẹp vì duyên còn, đi cũng tốt đẹp vì duyên hết, và quan trọng là ở hay đi cũng không ảnh hưởng gì đến tâm ông. Minh Tuệ không dùng ý chí để đưa ra quyết định, “hợp thời” thì làm, thế thôi. Nó giải thích cho việc Minh Tuệ không ngăn cản cũng không mời gọi, ai muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, ai phỏng vấn cứ phỏng vấn, hỏi thì nói, không thì thôi. Điều ấy có nghĩa là nếu bây giờ vì lý do nào đó mà phải quay về, ông cũng bình thản như lúc khởi hành. Người ta khổ vì chống lại nhân duyên chứ không phải bởi bản thân hoàn cảnh.

Không bàn về sự hay dở của triết lý này, nhưng phải hiểu rằng đó là tư duy và lối sống của người tu hành. Vì cái họ cầu không phải là sự thuận lợi của hoàn cảnh (nhân duyên), mà là làm chủ được tâm mình: không xao động trước cuộc đời. Phải hình dung rằng họ hướng đến rèn luyện một cái tâm phẳng lặng như gương, phản chiếu mọi biến động của đời nhưng không bị hoen ố. Ngồi trên máy bay vài tiếng nhanh lắm Đến Ấn Độ không phải là mục đích, làm chủ cái tâm mới là tông chỉ. Hạnh phúc không phải là cái đích cuối của con đường. Mà hạnh phúc chính là con đường. Vậy nên mới gọi là Đạo
Xin đảnh lễ 🙏🙏🙏
 
Đã bgio muốn hoà giải dân tộc đâu
mày phải hiểu là Hòa giải dân tộc không phải cứ muốn là được, dùng sức mạnh quyền lực chính trị để cưỡng ép Hòa giải thù hận dân tộc thì sẽ không bao giờ đạt tới điều đó. Nó phải cần thời gian và phải hội tụ đủ cả Nhân Duyên giống như cách nói trong Phật pháp. Ông Minh Tuệ xuất hiện đã làm thay đổi lớn lịch sử này. Khi chúng mày bàn luận về Minh Tuệ, hiểu hơn được những ý nghĩa của sự tu tập, Chúng mày sẽ bớt tham sân si, Bớt chửi nhau đi, bớt lừa đảo, Bớt thủ dâm, bớt giết người, bớt chán nản, bữa ăn cắp Bớt suy nghĩ tiêu cực.. Số lượng người xem ông Minh Tuệ cực lớn, với mỗi giây phút như vậy thì hiệu quả đạt được là cực cao, khi con người sống thiện hơn thì bản chất tự nhiên Nhân chi sơ tính bản thiện sẽ hiện ra và sự hòa giải gắn kết đến từ đó, một cách tự nhiên nhất
 

Tranh chăn trâu đại thừa chỉ đến dứt cả hai tức trâu người đều quên là hết.
Tức tu cho bản thân mình đến không chấp vào bất cứ ngã nào đạt đến vô ngã là hết
Nhưng nó không có thõng tay vào chợ
Chỉ có thiền tông mới có
Tức là vào bùn đen mà vẫn giữ được bản tâm của mình
Ông tuệ đang thực hành bước này
Cho nên sắp tới ổng có nhận đầu trâu mặt ngựa thần bài hay cái dạng gì đi theo mình thì cũng đừng có ngạc nhiên
 

Tranh chăn trâu đại thừa chỉ đến dứt cả hai tức trâu người đều quên là hết.
Tức tu cho bản thân mình đến không chấp vào bất cứ ngã nào đạt đến vô ngã là hết
Nhưng nó không có thõng tay vào chợ
Chỉ có thiền tông mới có
Tức là vào bùn đen mà vẫn giữ được bản tâm của mình
Ông tuệ đang thực hành bước này
Cho nên sắp tới ổng có nhận đầu trâu mặt ngựa thần bài hay cái dạng gì đi theo mình thì cũng đừng có ngạc nhiên
images
 

Có thể bạn quan tâm

Top