Xin đảnh lễ 🙏🙏🙏mày phải hiểu là Hòa giải dân tộc không phải cứ muốn là được, dùng sức mạnh quyền lực chính trị để cưỡng ép Hòa giải thù hận dân tộc thì sẽ không bao giờ đạt tới điều đó. Nó phải cần thời gian và phải hội tụ đủ cả Nhân Duyên giống như cách nói trong Phật pháp. Ông Minh Tuệ xuất hiện đã làm thay đổi lớn lịch sử này. Khi chúng mày bàn luận về Minh Tuệ, hiểu hơn được những ý nghĩa của sự tu tập, Chúng mày sẽ bớt tham sân si, Bớt chửi nhau đi, bớt lừa đảo, Bớt thủ dâm, bớt giết người, bớt chán nản, bữa ăn cắp Bớt suy nghĩ tiêu cực.. Số lượng người xem ông Minh Tuệ cực lớn, với mỗi giây phút như vậy thì hiệu quả đạt được là cực cao, khi con người sống thiện hơn thì bản chất tự nhiên Nhân chi sơ tính bản thiện sẽ hiện ra và sự hòa giải gắn kết đến từ đó, một cách tự nhiên nhất
Thầy Tuệ đã đang đi đến những bước cuối cùng của vô biên đại pháp, sau khi tu thành sẽ thần hồn bất diệt, cơm sườn có tiêu diệt trăm lần cũng vô ích
Tranh chăn trâu đại thừa chỉ đến dứt cả hai tức trâu người đều quên là hết.
Tức tu cho bản thân mình đến không chấp vào bất cứ ngã nào đạt đến vô ngã là hết
Nhưng nó không có thõng tay vào chợ
Chỉ có thiền tông mới có
Tức là vào bùn đen mà vẫn giữ được bản tâm của mình
Ông tuệ đang thực hành bước này
Cho nên sắp tới ổng có nhận đầu trâu mặt ngựa thần bài hay cái dạng gì đi theo mình thì cũng đừng có ngạc nhiên
Sanh diệt là lẽ đương nhiên của vạn vật. Người liễu đạo xem sanh diệt như cơn gió xuân.Thầy Tuệ đã đang đi đến những bước cuối cùng của vô biên đại pháp, sau khi tu thành sẽ thần hồn bất diệt, cơm sườn có tiêu diệt trăm lần cũng vô ích
Cái không này không chỉ gói gọn trong phật giáo , nó là gốc của tất cả đó vốn không có nhưng nó chính là “đạo”
Tôi, Hoàng Phong đây.
Báu ảo tưởng sức mạnh, bị đám bodo tung hô dữ quá nên không còn giữ được mình, chưa kể Báu là người vô đạo vì thờ cơm sườn. Người có đạo rất khó đi chung với người vô đạo. Giờ Báu vẫn đang sống trên mây vì còn nhiều người ủng hộ. Nhưng càng về sau sẽ càng ân hận vì đã rời xa một bậc chân tu thật sự.Sau khi xem lại hết và tổng hợp thông tin, liên kết xâu chuỗi toàn bộ các sự kiện, tham khảo hết các ý kiến, phản hồi, dư luận từ bà con xung quanh, tao đưa ra kết luận sau đây :
1 / Thầy Minh Tuệ xử lý như vậy là đúng và chuẩn mực. Thầy có thể bị chậm và phải đi xa hoặc vất vả gian nan hơn để đến Tây Trúc lấy đc Chân Kinh nhưng với Đức và Hạnh sáng ngời vô biên vốn dĩ ẩn sâu tự nhiên bên trong con người thầy, thầy vẫn có thể đạt được Chánh Quả với nhiều sự giúp đỡ khác, nhiều cái Hữu duyên tốt đẹp sẽ giúp thầy hoàn thành Sứ mệnh lớn
(Lời khuyên : Thầy Minh Tuệ chẳng cần bất cứ lời khuyên nào, với Trí Hạnh siêu phàm có được tự nhiên, thầy chắc chắn sẽ đạt tới những thành tựu kinh ngạc mà ngay cả thầy cũng không ngờ đến - sức ảnh hưởng lớn của một Vỹ nhân thậm chí đứng đầu trong thế kỷ 20)
2 / Anh Báu đã có một lợi thế rất lớn, phải nói là sự khởi đầu tuyệt vời và may mắn hơn cả nghìn người khác khi ngay từ đầu anh đã tụ duyên, đến được cùng đi bên cạnh thầy Minh Tuệ. Phước đức tổ tiên dòng họ anh Báu ngàn năm tích lại được cơ hội này nhưng anh Báu không duy trì nó. Bản ngã quá lớn, tự cao tự đại và luôn cho rằng mình đúng - tất nhiên anh cũng có tài năng thực lực ứng chiến rất giỏi (vì những thằng giỏi đều là những thằng kiêu) Anh Báu có nhiều ưu điểm, khả năng xử lý tình huống nhanh nhẹn, tùy cơ ứng biến, đối ngoại tốt, ý chí và động lực cầu tiến cao, nhưng anh vẫn chưa làm chủ được hết Bản ngã của chính mình, sự tự ái, sân hận sinh ra đều là do cái Ngã (cái Tôi) của ta quá cao
(Lời khuyên : anh Báu hãy vứt bỏ cái Tôi của mình đi hoặc anh phải giảm bớt lòng tự trọng xuống, đừng quá quan trọng cái sỹ diện, hãy vứt bỏ cái thanh danh thị phi đi. Nếu làm được điều này thì anh sẽ làm nên Nghiệp lớn ko chỉ riêng anh mà rạng danh cả ngàn năm dòng họ. Hãy đến quì gối xin lỗi thầy Minh Tuệ và xin đi tiếp theo thầy, Thầy Tuệ luôn mỉm cười xí xoá hết. Không chỉ dừng Ấn Độ mà cả 5 Châu lục, 4 đại dương - và Điều thần kỳ sẽ xảy ra)
3 / Chú Giáp cũng đã có một lợi thế khởi đầu rất may mắn, hội tụ đủ hữu duyên, gặp được thầy Tuệ và anh Báu. Nhưng nếu chỉ có một mình Giáp phò trợ thầy qua cả trăm nghìn kiếp nạn thì Giáp không thể làm được. Năng lực của Giáp yếu hơn nhiều anh Báu mặc dù Giáp cũng là người hoà đồng, tốt tính và ít cái Tôi. Giáp rất yêu vợ yêu con và Giáp cũng có được cái Lộc rất lớn, cái lợi nhuận lớn của trời ban cho khi Hữu duyên đến gặp được thầy Tuệ (Không phải ai cũng có được +1tr sub trong 3 tháng như Giáp). Tuy nhiên Giáp là người không có Chính kiến, dễ adua, dễ bị lôi kéo và làm theo lời người khác. Đáng ra khi có bất đồng nội bộ, Giáp phải là người trung gian, hoà giải, giảm bớt cái tôi của Báu đi nhưng Giáp đã không làm, cuối cùng còn adua dỗi bỏ, rủ nhau cùng bỏ đi, đây là một sai lầm không hề nhỏ của Giáp
(Lời khuyên : Giáp có thể quay lại xin đi tiếp cũng được mà ở lại nhà với vợ con cũng được. Tùy Giáp. Vì thực ra vai trò của Giáp không quá lớn. Giáp cũng đã thừa đủ Lộc Trời ban cho, đủ sống và hài hoà rồi. Bản thân Giáp là người hoà nhã, tốt tính, ít chính kiến thì không nên và ko hợp khi tham gia thị phi nhiều)
Hiểu hơn về phật tức là siêu độ người âm? Kí chữ kí tặng fan? Phật nào chủ động gọi chụp ảnh? Phật nào dạy bỏ cha bỏ mẹ, phật nào dạy báo hiếu là cầu nguyện mõm cho cha mẹ? Phật nào nói học là dục lạc, phiền não? Phật nào dạy khỉ cho đồ khất thực? Ngã mạn, vô minh khi đòi tu thành phật a di đà? Thầy của mày đi vào ma đạo, thì có tết congo cũng ko đắc đạo.Bọn mày theo dõi ông Minh Tuệ thật kỹ vào.
Bọn mày sẽ hiểu sâu sắc hơn về Phật giáo
Ông Tuệ đang thể hiện cho chúng sinh hiểu thế nào là bước thực hành cuối cùng của thiền tông là thõng tay vào chợ
Cho nên càng ồn ào càng xô bồ càng phức tạp thì nó càng là thử thách trên bước đường tu của ông ấy
Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỔ thõng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.
Tà đạo. Làm sao để mày nhìn nhận lại phật hả bản đồ? Sao mày u mê, vô minh vậy? Trời ơi, mày nói mày nghiên cứu phật giáo nguyên thủy mà. Thoát khỏi u mê đi mày ơi.
Tranh Chăn Trâu Đại Thừa và Thiền Tông
Thích Tuệ Sỹ
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến từ đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các tòng lâm, thiền viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ “mục ngưu đồ” khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ và QUÁCH AM.![]()
Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại : loại tranh theo khuynh hướng Đại Thừa, và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông. Trong hai loại, tranh vẽ sai khác nhau hết, nhưng bài tụng và chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.
A. TRANH ĐẠI THỪA
I. TRANH
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
Đó là tượng trưng cho phép tu TIỆM. Theo phép tu tiệm thì phải rất nhiều công phu mới tiến lên được từng nấc thang giác ngộ ; nhờ công phu, cái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang lâu ngày chầy tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy :
Nhật cửu công thâm thỉ chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực TIỆM điều nhu
(Công phu chầy tháng mới quay đầu
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)
Còn về thứ lớp thì bộ tranh Đại Thừa nào cũng mở đầu bằng bức họa vi mục (chưa chăn) vẽ con trâu hoang, và khép lại bằng bức họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Viên Giác. “Song dẫn” là dứt hết cả hai : trâu và mục đồng, tâm và cảnh, dứt được hết là hiển hiện ánh Chơn Như lung linh trong màu cỏ nội hoa ngàn:
Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng
nghĩa :
Người trâu chẳng thấy biệt mù tăm
Trăng sáng soi trùm muôn tượng không
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy
Um tùm cỏ nội với hoa đồng
Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ tranh chăn trâu loại Đại Thừa nầy trong cuốn Judo International của Liên Đoàn Nhu Đạo Pháp quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn các bài tụng và chú; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyễn Duy Cần (phần phụ lục) ; trong pho sách cổ “Mục ngưu đồ” bằng chữ Hán tại thư viện chùa Xá Lợi ; trong tập “Học làm Phật” của thầy Trường Lạc (chùa Linh Chưởng ấn hành, 1964) trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu Đại Thừa, vừa nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.
II. NỘI DUNG
Đề tài chung của các loại tranh chăn trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều, song không ngoài việc bắt tâm. Nên thập mục ngưu đồ có thể coi như là lời giải đáp cho câu hỏi trong kinh Kim Cương :
“Vân hà hàng phục kì tâm ?”
(Làm sao làm chủ được cái tâm?)
Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu nên có mục đồng. Vì có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại Thừa đều nhắm vào sự “cột” trâu, tức là “điều tâm” vậy. Tâm là con trâu hoang. Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng giây lòi tói v.v… Cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ đề v.v… Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức họa đầu : “vị mục, sơ điều, thọ chế, hồi thủ và tuần phục”. Đó là giai đoạn của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong giai đoạn kế.
Trong giai đoạn nầy, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng ngại.
Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp.
Đó là bước tu chứng của hàng tiểu thừa (thanh văn và duyên giác) diễn đạt bằng hai bức họa “vô ngại” và “nhiệm vận”.
Cần đi thêm bước nữa, khai thác HUỆ giác đến chỗ TÂM vô TÂM :
“Nhân vô tâm, ngưu diệc vô tâm”.
Đến đây mới phá được pháp chấp : pháp cũng không, mà ngã cũng không, trâu cũng mất mà người cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát, diễn tả bằng hai bức họa “tương vong” và “độc chiếu” :
“Tâm cảnh song vong nãi thị chân pháp”.
Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một vòng tròn : Viên Giác. Đó là ý nghĩa của bức tranh chót (song dẫn) khép lại quá trình tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệ, từ thanh văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm, từ chỗ tất cả đều có đến chân pháp đều không v.v… Đó là vô dư Niết Bàn.
Tóm lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại quá trình công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối cùng chỉ để tự tại thôi (être simplement). Cái vòng tròn cuối cùng (tranh 10 : song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của chúng ta, cắt đứt hẳn một trạng thái ý thức và hiện hữu mà thường chúng ta không được biết”.
(J. L. Jagarin : Le Judo International)
B. TRANH THIỀN TÔNG
![]()
I. TRANH
Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con trâu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa – ba cỗ xe – là xe dê, xe nai và xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn thì chỉ một thừa thôi – Phật thừa – trực tiếp đưa người vào cảnh giác. Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật. Thiền Tông chủ trương trực tiếp thành Phật là vậy.
Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.
Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực ; xưa nay chưa hề có Phật cấp bực bao giờ (Bổn lai vô thứ đệ Phật – Hy Vận), nên người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.
Còn về thứ lớp thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu, vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) và khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.
Riêng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên Thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là nhân ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người đều quên. Bảng đối chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh, về hình thức cũng như về nội dung :
TRANH ĐẠI THỪA TRANH THIỀN TÔNG
1. Vị mục : chưa chăn 1. Tầm ngưu : tìm trâu
2. Sơ điều : mới chăn 2. Kiến tích : thấy dấu
3. Thọ chế : chịu phép 3. Kiến ngưu : thấy trâu
4. Hồi thủ : quày đầu 4. Đắc ngưu : được trâu
5. Tuần phục : vâng chịu 5. Mục ngưu : chăn trâu
6. Vô ngại : không ngại 6. Kỵ ngưu qui gia : cỡi trâu về nhà
7. Nhiệm vận : tha hồ 7. Vong ngưu tồn nhân : quên trâu còn người
8. Tương vong : cùng quên 8. Nhân ngưu câu vong : người trâu đều quên
(vẽ vòng tròn)
9. Độc chiếu : soi riêng 9. Phản bổn hoàn nguyên : trở về nguồn cội
10. Song dẫn : dứt cả hai 10. Nhập triều thùy thủ : thõng tay vào chợ
(vẽ vòng tròn)
Chúng ta có thể thưởng thức loại tranh này tại chùa Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng Sài Gòn ; tranh vẽ lớn trên tường bằng sơn dầu, tại chánh điện ; tuy nét bút thiếu cổ kính, tranh cũng phản ảnh phần nào cái thiền phong ngày trước.
Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem nhiều loại khác trong các tác phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn, do giáo sư Thiền học Suzuki biên soạn :
- The Ten Oxherding Pictures,
- Manual of Zen Buddhism,
- Essays in Zen Buddhism, First Series.
Còn một loại tranh khác, rất cổ kính, in bằng mộc bản, do Paul Reps sưu tập trong tác phẩm Zenflesh Zen bones (Thiền cốt Thiền nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle Co – Rutland Vermont – Tokyo Japan – 1957). Chính từ tác phẩm này chúng tôi trích in lại mười bức họa sau đây.
II. NỘI DUNG
Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiền vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại Thừa là ngã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. “Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, là tư duy, là intellect, được coi là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì :
vô niệm : niệm tức chánh
hữu niệm : niệm thành tà
(Pháp bửu đàn kinh)
Do đó Thiền kỵ hý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng hoặc có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh ưa lý luận mà loài người chúng ta hằng tự phụ.
***
Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này.
Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng vẫn những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác : tu thì tiệm mà chứng thì đồn.
***
Niết bàn đạt được quả vị bồ tát hay la hán sẽ thoát khỏi luân hồi sanh diệtSanh diệt là lẽ đương nhiên của vạn vật. Người liễu đạo xem sanh diệt như cơn gió xuân.
Thì để lên hình cho đẹp, xin chữ kí thầy mày chưa?ý chí của thầy như nồi inox mà thầy mang theo, lúc nào cũng sáng bóng như mới
Không, niết bàn là trạng thái tâm tịch tịnh, thấy rõ các pháp, là tâm đã đoạn tận tham sân si...chứ không phải là cái để đạt vì bản chất thật sự của tâm là niết bàn.Niết bàn đạt được quả vị bồ tát hay la hán sẽ thoát khỏi luân hồi sanh diệt
Vậy mật tông, nam tông, bắc tông, hoà hảo không phải Phật?Hiểu hơn về phật tức là siêu độ người âm? Kí chữ kí tặng fan? Phật nào chủ động gọi chụp ảnh? Phật nào dạy bỏ cha bỏ mẹ, phật nào dạy báo hiếu là cầu nguyện mõm cho cha mẹ? Phật nào nói học là dục lạc, phiền não? Phật nào dạy khỉ cho đồ khất thực? Ngã mạn, vô minh khi đòi tu thành phật a di đà? Thầy của mày đi vào ma đạo, thì có tết congo cũng ko đắc đạo.
Mày u mê quá bản đồ ơi.
Mày đã bắt đầu giác ngộ phật là ntn rồi đó, đừng u mê như thằng bản đồ nghe chưa? Phật là tu tập, là đoạn diệt khổ đau, thoát khỏi luân hồi, chứ đéo có phật nào đi độ, cầu siêu cho người âm, cho ma quỉ hết. Đó là tà đạo Bà la môn.Không, niết bàn là trạng thái tâm tịch tịnh, thấy rõ các pháp, là tâm đã đoạn tận tham sân si...chứ không phải là cái để đạt vì bản chất thật sự của tâm là niết bàn.
Đúng, đó là tà đạo. Phật Thích Ca ko cổ súy cho thiền định để đắc đạo, ko cổ súy mê tín, ko niệm phật để về cõi vãng sanh cực lạc. Ko hề có phật nào gọi là phật a di đà.Vậy mật tông, nam tông, bắc tông, hoà hảo không phải Phật?
Cá nhân tao gặp nhiêù người cố hướng đường tu về Phật giáo nguyên thủy. Thậm chí mạt sát người khác vì không tu giống họ. Cái này là sân si nó ăn vào máu. Dễ làm mình trầm mê.
Sau khi xem lại hết và tổng hợp thông tin, liên kết xâu chuỗi toàn bộ các sự kiện, tham khảo hết các ý kiến, phản hồi, dư luận từ bà con xung quanh, tao đưa ra kết luận sau đây :
1 / Thầy Minh Tuệ xử lý như vậy là đúng và chuẩn mực. Thầy có thể bị chậm và phải đi xa hoặc vất vả gian nan hơn để đến Tây Trúc lấy đc Chân Kinh nhưng với Đức và Hạnh sáng ngời vô biên vốn dĩ ẩn sâu tự nhiên bên trong con người thầy, thầy vẫn có thể đạt được Chánh Quả với nhiều sự giúp đỡ khác, nhiều cái Hữu duyên tốt đẹp sẽ giúp thầy hoàn thành Sứ mệnh lớn
(Lời khuyên : Thầy Minh Tuệ chẳng cần bất cứ lời khuyên nào, với Trí Hạnh siêu phàm có được tự nhiên, thầy chắc chắn sẽ đạt tới những thành tựu kinh ngạc mà ngay cả thầy cũng không ngờ đến - sức ảnh hưởng lớn của một Vỹ nhân thậm chí đứng đầu trong thế kỷ 20)
2 / Anh Báu đã có một lợi thế rất lớn, phải nói là sự khởi đầu tuyệt vời và may mắn hơn cả nghìn người khác khi ngay từ đầu anh đã tụ duyên, đến được cùng đi bên cạnh thầy Minh Tuệ. Phước đức tổ tiên dòng họ anh Báu ngàn năm tích lại được cơ hội này nhưng anh Báu không duy trì nó. Bản ngã quá lớn, tự cao tự đại và luôn cho rằng mình đúng - tất nhiên anh cũng có tài năng thực lực ứng chiến rất giỏi (vì những thằng giỏi đều là những thằng kiêu) Anh Báu có nhiều ưu điểm, khả năng xử lý tình huống nhanh nhẹn, tùy cơ ứng biến, đối ngoại tốt, ý chí và động lực cầu tiến cao, nhưng anh vẫn chưa làm chủ được hết Bản ngã của chính mình, sự tự ái, sân hận sinh ra đều là do cái Ngã (cái Tôi) của ta quá cao
(Lời khuyên : anh Báu hãy vứt bỏ cái Tôi của mình đi hoặc anh phải giảm bớt lòng tự trọng xuống, đừng quá quan trọng cái sỹ diện, hãy vứt bỏ cái thanh danh thị phi đi. Nếu làm được điều này thì anh sẽ làm nên Nghiệp lớn ko chỉ riêng anh mà rạng danh cả ngàn năm dòng họ. Hãy đến quì gối xin lỗi thầy Minh Tuệ và xin đi tiếp theo thầy, Thầy Tuệ luôn mỉm cười xí xoá hết. Không chỉ dừng Ấn Độ mà cả 5 Châu lục, 4 đại dương - và Điều thần kỳ sẽ xảy ra)
3 / Chú Giáp cũng đã có một lợi thế khởi đầu rất may mắn, hội tụ đủ hữu duyên, gặp được thầy Tuệ và anh Báu. Nhưng nếu chỉ có một mình Giáp phò trợ thầy qua cả trăm nghìn kiếp nạn thì Giáp không thể làm được. Năng lực của Giáp yếu hơn nhiều anh Báu mặc dù Giáp cũng là người hoà đồng, tốt tính và ít cái Tôi. Giáp rất yêu vợ yêu con và Giáp cũng có được cái Lộc rất lớn, cái lợi nhuận lớn của trời ban cho khi Hữu duyên đến gặp được thầy Tuệ (Không phải ai cũng có được +1tr sub trong 3 tháng như Giáp). Tuy nhiên Giáp là người không có Chính kiến, dễ adua, dễ bị lôi kéo và làm theo lời người khác. Đáng ra khi có bất đồng nội bộ, Giáp phải là người trung gian, hoà giải, giảm bớt cái tôi của Báu đi nhưng Giáp đã không làm, cuối cùng còn adua dỗi bỏ, rủ nhau cùng bỏ đi, đây là một sai lầm không hề nhỏ của Giáp
(Lời khuyên : Giáp có thể quay lại xin đi tiếp cũng được mà ở lại nhà với vợ con cũng được. Tùy Giáp. Vì thực ra vai trò của Giáp không quá lớn. Giáp cũng đã thừa đủ Lộc Trời ban cho, đủ sống và hài hoà rồi. Bản thân Giáp là người hoà nhã, tốt tính, ít chính kiến thì không nên và ko hợp khi tham gia thị phi nhiều)
Vầng, xin đảnh lễ 🙏🙏🙏Mày đã bắt đầu giác ngộ phật là ntn rồi đó, đừng u mê như thằng bản đồ nghe chưa? Phật là tu tập, là đoạn diệt khổ đau, thoát khỏi luân hồi, chứ đéo có phật nào đi độ, cầu siêu cho người âm, cho ma quỉ hết. Đó là tà đạo Bà la môn.
Mày dám nói ông Minh Tuệ vậy à, ko sợ thằng bản đồ nó chửi khi dám nhận định idol nó là chưa định được? Haha. Thầy mày còn nhiều ái luyến, tham, sân, si lắm, thầy mày đang đi con đường tà đạo mà mày đéo dám thừa nhận. Thầy mày ngã mạn, thích nối tiếng, nhưng rất khôn khéo che lấp nó bằng việc buông bỏ, ko chấp, nhưng ko giấu được đâu, nó biểu hiện ra hết như là mày thấy 1 phần đó.Mầy nhận định gần giống với tao.
- Sư Tuệ vẫn là 1 chân tu, tu tập giữ giới tốt. Tuy nhiên, trong 2-3 ngày gần đây, tao thấy sư vẫn chưa "định" được. Khi phỏng vấn liên quan đến Báu là nét mặt, thái độ có sự thay đổi. Rõ ràng là vẫn còn ít nhiều "loạn, động". Ổng vẫn là con người đang tu tập thôi, không phải vấn đề lớn, tao tin ổng sẽ khắc phục được
- Báu: tự cao, kiêu ngạo, nóng tính đã làm mờ tâm trí. Báu vẫn còn mang bản chất của một công an CS VN: hay hù dọa, nhiều lần dối trá, thích ép buộc, áp đặt, muốn kiểm soát tất cả. Tất nhiên Báu cũng rất giỏi, sáng suốt biết phân biệt sai trái, chứ không ngu như tụi bò đỏ. Tao nghĩ bản tính tự cao, nóng tính của Báu không thể thay đổi liền được. Nên Báu về là hợp lý cho cả Báu và đoàn.
- Giáp: khá hiền lành. Có vẻ nó biết nó không giỏi, không có chánh kiến, nên nó chọn theo Báu 100%. Sự lựa chọn an toàn, hợp lý. Tao ko có gì chê trách, vì nó cũng chẳng làm gì sai.