• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Ghi chép của Ngô Bảo Châu về thời gian học thiền ở Huyền Không Sơn Thượng...

T mới đọc đc cái ghi chép ngắn này của ông Châu. Kính Mời các cao tăng chùa Bì Đì giúp diễn giải luận thêm phật pháp để cho tôi đây có thêm góc nhìn độc đáo của quý tăng ạ.

Phần 1
====================
Hè năm ngoái tôi có dịp nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một tuần ở Huyền Không Sơn Thượng. Đây là ghi chép của tôi trong thời gian ở trong tu viện. Ghi chép lan man, không có nội dung gì đặc biệt, nhưng tôi muốn chia sẻ với nhiều người vì thời gian sống trong tu viện đã thay đổi tôi phần nào, có lẽ theo hướng tốt hơn.

Huyền Không Sơn Thượng là một thiền viện nằm trong địa bàn của huyện Hương Trà. Tu viện nằm sâu trong rừng, trên độ cao vừa phải. Tu viện lúc đầu là nơi Minh Đức Triều Tâm Ảnh chọn làm nơi lánh xa thế nhân, khi đó là đồi trọc hoang vu. Sau này, nhiều sư trẻ xin về theo, trong đó có sư Chơn Tín. Lúc đầu thầy Tâm Ảnh không nhận họ, nhưng họ quyết ở lại giúp thầy trồng cây, làm ruộng ... Sau hai mươi mấy năm, xung quanh thiền viện đã hình thành một cánh rừng nguyên sinh. Ở trên cao là thông, phía dưới là keo, xung quang chùa và thiền viện có nhiều tre, trúc, bàng, lộc vừng và nhiều cây cảnh.

Anh Bi, anh Linh và anh Thuyết đưa tôi đến thiền viện chiều thứ hai 6/8/2018. Trên đường đi, anh Thuyết dừng xe ở phố buôn bán để anh Bi xuống mua cho tôi mấy gói mì đề phòng khi đói. Anh Bi chỉ kém anh Thuyết hai tuổi nhưng luôn gọi anh Thuyết là thầy. Anh Bi vốn là hiệu trưởng trường chuyên cấp hai Nguyễn Tri Phương là người có nhiều quan hệ và biết tổ chức sắp xếp công việc. Mọi việc lớn nhỏ của cộng đồng nhỏ các anh toán ở Huế đều do anh Bi sắp xếp. Anh Thuyết vì là thầy của anh Bi, và cũng là người có học vị cao nhất nên nghiễm nhiên là thủ lĩnh của nhóm. Lúc mới gặp, tôi không thích anh Thuyết lắm, có lẽ vì mái tóc nhuộm đen nháy của anh. Tôi có cảm tình với anh Hiếu ốm nhách hơn. Chơi với nhau lâu, tôi yêu quý tất cả các anh. Các anh luôn mong tôi vào Huế để các anh đưa đi chơi, đi ăn, uống ca phe nói chuyện toán. Dần dần tôi cũng thích chia sẻ thời gian của mình với các anh.

Trước khi đi, tôi có để số điện thoại của anh Thuyết cho mẹ tôi để mẹ liên lạc khi có việc gấp vì có thể mạng di động không phủ đến khu vực của thiền viện. Không bất ngờ lắm khi mẹ tôi gọi ngay cho anh Thuyết để dặn dò và nhờ anh mua cho tôi mấy thứ thuốc mà do vội tôi không mang đi. Mẹ tôi là như thế, một nỗi lo nho nhỏ trong đầu có thể làm bà bồn chồn, và phải giải quyết triệt để nó thì mới có thể nghĩ đến việc khác. Đặc biệt khi nỗi lo đó liên quan đến con trai của bà.

Thầy Chơn Tín đợi chúng tôi ở Am Mây Tía. Thầy Chơn Tín dáng vóc phương phi, ít cười, nhưng vẻ mặt toát ra sự khảng khái, chân thực. Thầy phổ biến cho tôi một số nội quy cho cuộc sống trong thiền viện. Ở đây, các sư tụng kinh hai lần mỗi ngày, một lần lúc 4:30 sáng khi vừa ngủ dạy, một lần lúc 6:00 chiều, xong rồi mọi người về am cốc của mình nghỉ ngơi. Chùa nấu cho ăn vào buổi sáng và buổi trưa. Ở đây các sư theo Phật giáo nam tông, có thủ tục đi xếp bát khất thực. Khi đi khất thực người ta cho ăn gì phải ăn nấy, cho nên các sư ăn mặn, không ăn chay. Thầy Chơn Tín đã để sẵn trong cốc nhiều mì gói, bánh quy, sữa đề phòng đói bụng vào buổi tối. Sau đó thầy phăng phăng xách cái va li nhỏ và đưa tôi về cốc.

Cốc là một ngôi nhà nhỏ, nằm trên vách núi. Các sư trẻ ở trong khu nhà chung. Các sư tu tập lâu ngày ở trong cốc như vậy. Cốc tôi ở gọi là Cốc Sư Thiện. Sư Chơn Hạnh, em trai của sư Chơn Tín nói với tôi rằng sư Thiện đã vào miền nam. Để đi lên Cốc Sư Thiện phải dò theo những bậc đá gập ghềnh mà các sư đẽo vào núi. Leo chừng ba mươi bước thì đến một tấm đá nhẵn thín, bắc ngang qua ao cá nhỏ uốn vòng quanh cốc. Ao nhỏ nhưng nước rất trong. Trong đó có ếch, nhái, rắn nước và những con cá nhỏ sống. Xung quanh ao, sư Thiện trồng nhiều cây dương xỉ, một loài cây tôi mà tôi ưa thích. Ở bên trái am còn có một bụi trúc vàng, thân trúc vàng óng, khoẻ mạnh. Chếch góc ao, có cả một cây chuối rất đẹp. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cả buồng chuối và hoa chuối. Thông thường ở các loài cây khác, hoa rụng thì mới kết quả. Cây chuối của sư Thiện mang một buồng chuối đã chín lắm, màu đã chuyển sang đen xì, vậy mà ở cuống của nó vẫn còn một bông hoa chuối rất tươi.

Cốc có hai phòng. Phòng trong là phòng ngủ, có cả điều hoà nhiệt độ. Phòng ngoài có một cái bàn đá màu trắng để thưởng trà và đọc sách. Ở góc phòng có một cái bàn nhỏ nơi thầy Chơn Tín đã xếp đủ sữa, nước, mì gói, bánh quy cho tôi đủ dùng cả tháng. Sau khi chia tay anh Bi, anh Linh và anh Thuyết, tôi đóng cửa và suy nghĩ mình sẽ làm gì với thời gian năm ngày ở trong thiền viện. Vào lúc đó, tôi để ý thấy ba quả thị mà thầy Chơn Tín để lại cho tôi ở trên cái bàn đá. Cầm một quả thị lên ngửi thấy hương thật thơm. Tâm trí tôi bỗng trở nên thanh thản lạ lùng. Tôi tự bảo mình thay vì việc đặt ra cho mình một thời gian biểu chặt chẽ, hay là tôi cứ ngồi đây ngắm ba quả thị, dõi theo quá trình biến đổi của nó. Bây giờ còn đang tươi tắn, thơm hương như thế, năm ngày nữa thì sẽ thế nào.

Chiều hôm đó, tôi đi bộ dọc theo con đường mòn vào sâu trong rừng trước giờ tụng kinh. Đi đường bị muỗi cắn khắp người mới sực nhớ ra rằng mình vào rừng ở mà quên không máng thuốc sức chỗng muỗi. Đường khó đi, thỉnh thoảng lại có cây đổ ngang đường. Ven đường có các cốc còn đang xây dở. Không quá lâu, con đường mòn đẫn đến một cái cốc khá khang trang, trồng nhiều hoa theo hàng lối. Ngại làm phiền, tôi không dám đi xuyên qua cái cốc đó để xem đường mòn còn tiếp tục hay không.

Trở lại sân chùa trước giờ rung chuông, tôi thấy một Tỳ kheo tươi tắn, đi cùng hai con chó đi đến chào. Sư tự giới thiệu mình là Chơn Hạnh, em trai của sư Chơn Tín. Chơn Hạnh hỏi tôi có thiếu gì trên cốc không. Tôi nói không hiểu sao trên đó không có màn, mà có nhiều muỗi quá. Chơn Hạnh nói muỗi rừng ra nhiều tầm 5-6 giờ, trước giờ tụng kinh. Sau giờ đó chúng về rừng, đêm không cắn người. Tôi nghe lạ quá vì muỗi ở Hà nội cắn người bất kể giờ giấc. Nhưng quả thật đêm đó tôi ngủ ngon, không bị muỗi cắn. Ngồi đọc sách ở trong cốc chỉ bị muỗi đến quấy vào đầu giờ sáng và cuối giờ chiều.

Chuông trên tháp gióng độ 10 phút thì một tỳ kheo bắt đầu thỉnh chuông trong chánh điện. Các tỳ kheo khác lục tục về chỗ mình ngồi. Tôi được xếp ngồi ở góc bên phải cùng các novice. Các sư đọc kinh pali chừng 15 phút rồi chuyển sang ngồi thiền. Tiếng tụng kinh pali của các tỳ kheo vảng vào đầu tôi như ngọn gió Tây nóng và khô thổi sạch đi những bụi bặm, ẩm ướt lưu cữu lâu ngày trên bề mặt của tâm hồn. Đèn phụt tắt khi các tỳ kheo đưng tụng kinh để thiền. Tôi cố bất động thân và tâm, tập trung theo dõi nhịp thở nhưng vì gối tê, lưng mỏi, tâm phiêu diêu, tôi cảm thấy mệt mỏi muốn đứng dạy chi sau 10 phút. Vì không muốn làm xáo trộn sự tập trung của các tỳ kheo, tôi cố chịu đau ngồi đến cùng. Tôi nhận ra rằng học thiền cơ bản là phải kiên nhẫn, chứ không cần nỗ lực gò ép mình quá đáng. Đến cuối tuần, tôi có thể ngồi được lâu hơn, không còn cảm giác đau mỏi như hôm đầu. Tâm vẫn khởi lên những suy nghĩ này nọ, nhưng nó cũng mau quay lại với nhịp thở hơn.

Buổi tụng kinh và thiền ở chánh thất kết thúc sau 7 giờ tối. Lúc đó ngoài trời đã tối đen. Lúc đấy tôi mới nhớ tới điều anh Bi nói lúc chia tay: đáng ra phải mang cho Châu cái đèn pin. Không đợt tôi hỏi, thầy Chơn Tín vào Am mây tía lấy cho tôi mượn một cái đèn pin. Nhờ vào nó tôi mới dò dẫm đi về cốc của mình.

Đêm ở trong rừng không hề yên tĩnh như ta nghĩ. Chỉ về đêm ta mới thấy rừng là nơi trú ngụ của trăm ngàn sinh linh. Ồn ào nhất là tiếng ễnh uông. Nó kêu như tiếng thanh tre gõ lên một dãy ống tre, từng đợt cách nhau chừng nửa phút. Bắt nhịp là một tiếng chim, hơi thảng thốt, nhưng vì rất đều đặn, nên không gây ra cảm giác bi ai. Con ễnh uông và con chim nhỏ hoà tấu với nhau như thế cho đến lúc toàn bộ dàn nhạc rừng oà lên cùng một lúc để rồi lại lặng đi ngay. Trong đêm rừng tối đen, ta chỉ còn thính giác để tiếp nhận các tín hiệu của rừng. Tâm hồn ta lắng xuống trong cảm giác dễ chịu đã được rừng tiếp nhận, dường như đã trở thành một phần hữu cơ của rừng.


====================
 
Quả nhiên nói chuyện v người thông minh k phí sức chút nào. Xin phép mượn lời anh để bày tỏ quan điểm. Các giáo sư và người từng trải rõ ràng k giống cái máy, nên người giác ngộ cũng vậy. Cái máy vô tri k có cảm xúc nên chẳng cần điều tiết làm gì, nhưng bậc giác ngộ có tri giác và cảm xúc đầy đủ, chẳng qua họ chế ngự cực giỏi, tự thuần hóa chính bản thân mình. Nói cho dễ hình dung thì như mình học chuyên ngành nào thì phải tập trung cho giỏi chuyên môn, bậc giác ngộ đã có cái bằng Ph.D "chuyên ngành giác ngộ" thì chuyên môn làm chủ cảm xúc phải gọi là thuộc hàng đỉnh. Tóm lại, tuy rằng k phải chỉ có người giác ngộ mới hàm dưỡng, ung dung, nhưng anh gộp người ta vào hội giáo sư, người từng trải thì đc chứ đừng gộp các ngài vào hội AI, khổ lắm. Giác ngộ mà giống AI là giác ngộ rởm, học vẹt giáo lý thôi anh, em lấy kinh nghiệm của kẻ từng quyết sinh quyết tử theo đạo để chia sẻ với anh THỰC TU khó lắm, nhiều khi nhắt nc mắt ra chứ k phải cả ngày an yên tĩnh tọa ngồi chơi xơi nc, "sắc bất dị k, k bất dị sắc..." là ok đâu.


Cái này e đồng tình vs anh vì ý em "kinh qua thương hải tang điền" là khi gặp chuyện long trời lở đất mà vẫn giữ bình tĩnh để xử lý ấy, chứ k phải lúc nào cũng thế.


Anh muốn minh chứng cho cái "càng thiền cái tôi càng lớn" thì cho anh minh chứng sống luôn nè, hehe. Who?
Me!
Kỳ thực anh đặt cái vấn đề vào ngay lõi luôn rồi đó, bản thân em vì chính cùng 1 câu hỏi như anh mà năm ấy đành dứt áo rời bỏ con người em từng 1 lòng tôn kính bái ngưỡng là sư phụ em đấy.
Vì trả lời câu này hơi dài nên hsau em quay lại sau, hnay xin phép nói đến đây thôi.
Bọn tôn giáo cũ và cả triết học cũ đều mắc căn bệnh 'siêu hình' hoặc 'thần học' là kiếm 1 phương pháp, 1 cách thức rốt ráo để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống. Về hiệu quả tức thời với cá nhân là có thể đạt đc một số mặt tích cực nào đó về tâm lý và cảm xúc nhưng về lâu dài là khó thích nghi với môi trường, xã hội luôn biến động liên tục và có thể gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực. Khi đem các phương pháp theo kiểu bí truyền đó ra áp dụng vô những đối tượng khác trong xã hội cũng khó có đc những kết quả tương ứng vì nó éo rõ ràng và mạch lạc như khoa học thực chứng hiện đại.
Thế nên muốn sống tốt thì bỏ trò tu tiên đi, tích cực trò truyện với người thân xung quanh. Kiếm tìm ý nghĩa, niềm vui trong từng công việc mình làm. Theo đuổi cái "giác ngộ" éo bao giờ có hồi kết mà chỉ là trò bỏ bùa, dối gạt bản thân và lừa gạt nhau thôi :)
 
@titoe anh cười cái quần
thời đại bây giờ éo ai thiến cho mèo nữa đâu
một liều hormon ngược giới trong time động dục là xong.(anh thăm hỏi các phòng khám thú y tư nhân là biết)
các ni thì dùng thuốc kích dục nam, bổ sung testosteron
các sư thì ăn đậu phụ
 
Bọn tôn giáo cũ và cả triết học cũ đều mắc căn bệnh 'siêu hình' hoặc 'thần học' là kiếm 1 phương pháp, 1 cách thức rốt ráo để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống. Về hiệu quả tức thời với cá nhân là có thể đạt đc một số mặt tích cực nào đó về tâm lý và cảm xúc nhưng về lâu dài là khó thích nghi với môi trường, xã hội luôn biến động liên tục và có thể gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực. Khi đem các phương pháp theo kiểu bí truyền đó ra áp dụng vô những đối tượng khác trong xã hội cũng khó có đc những kết quả tương ứng vì nó éo rõ ràng và mạch lạc như khoa học thực chứng hiện đại.
Thế nên muốn sống tốt thì bỏ trò tu tiên đi, tích cực trò truyện với người thân xung quanh. Kiếm tìm ý nghĩa, niềm vui trong từng công việc mình làm. Theo đuổi cái "giác ngộ" éo bao giờ có hồi kết mà chỉ là trò bỏ bùa, dối gạt bản thân và lừa gạt nhau thôi :)
mục đích an vui là được
nên nhắm vào cái đích cuối cùng
đừng nên sau một thời gian là nhầm cái cách thức là cái mục đích
 
mục đích an vui là được
nên nhắm vào cái đích cuối cùng
đừng nên sau một thời gian là nhầm cái cách thức là cái mục đích
Cảm xúc của mày là yêu, ghét, buồn, vui, giận, đau khổ.... Vậy mà mày đòi loại hết chỉ còn lại an vui thì nhạt nhẽo quá :)). Cuộc đời phải mix nhiều loại mới là đúng là sống
 
Anh @KhiemCung có bao giờ từng gặp 1 người mà kinh qua bao chuyện thương hải tang điền mặt đều không biến sắc, vẫn điềm tĩnh ung dung thong thả, nghiêm nghị nhưng không hà khắc, không giận tự uy chưa? Em nghe nói phong thái toát ra từ 1 người giác ngộ thực sự là như thế. Nói hoa văn 1 chút thì gọi là "như nhàn vân nhã hạc".
Cho nên chắc chắn người giác ngộ khác hẳn cái máy.
"Giác ngộ" là một trạng thái rất cá nhân. Không một kinh sách nào tự nhận là miêu tả dc trạng thái "giác ngộ". ".... mặt đều không biến sắc, vẫn điềm tĩnh ung dung thong thả, nghiêm nghị nhưng không hà khắc, không giận tự uy ..." _ cái đoạn này t thấy là đa số để miêu tả bọn làm việc lớn, làm đại sự theo kiểu Tàu chứ đâu có sách nào ghi là giác ngộ?
 
...
"Giác ngộ" là một trạng thái rất cá nhân. Không một kinh sách nào tự nhận là miêu tả dc trạng thái "giác ngộ". ".... mặt đều không biến sắc, vẫn điềm tĩnh ung dung thong thả, nghiêm nghị nhưng không hà khắc, không giận tự uy ..." _ cái đoạn này t thấy là đa số để miêu tả bọn làm việc lớn, làm đại sự theo kiểu Tàu chứ đâu có sách nào ghi là giác ngộ?
Mấy cái mà điềm tĩnh ung dung có thể do thói quen khi đã trải qua nhiều lần, hoặc tập luyện mà thành. Ví dụ như nhân viên dọn xác thì quen thấy máu me, xác chết nên không còn cảm giác kinh sợ; traders lâu năm trải qua nhiều lần vùi dập của thị trường thì mất dần cảm xúc tiếc nuối, dằn vặt...

Còn "giác ngộ" theo tao thì là những khoảnh khắc tức thời. Tùy theo quá trình tập luyện, hoàn cảnh xung quanh mà duy trì được những khoảnh khắc đó dài hay ngắn. Những trạng thái tinh thần đó có thể giả lập bằng chơi chất kích thích, chất ảo giác :))
 
...

Mấy cái mà điềm tĩnh ung dung có thể do thói quen khi đã trải qua nhiều lần, hoặc tập luyện mà thành. Ví dụ như nhân viên dọn xác thì quen thấy máu me, xác chết nên không còn cảm giác kinh sợ; traders lâu năm trải qua nhiều lần vùi dập của thị trường thì mất dần cảm xúc tiếc nuối, dằn vặt...

Còn "giác ngộ" theo tao thì là những khoảnh khắc tức thời. Tùy theo quá trình tập luyện, hoàn cảnh xung quanh mà duy trì được những khoảnh khắc đó dài hay ngắn. Những trạng thái tinh thần đó có thể giả lập bằng chơi chất kích thích, chất ảo giác :))
tml @Archangel Samael theo đuổi "giác ngộ" nè
 
"Giác ngộ" là một trạng thái rất cá nhân. Không một kinh sách nào tự nhận là miêu tả dc trạng thái "giác ngộ". ".... mặt đều không biến sắc, vẫn điềm tĩnh ung dung thong thả, nghiêm nghị nhưng không hà khắc, không giận tự uy ..." _ cái đoạn này t thấy là đa số để miêu tả bọn làm việc lớn, làm đại sự theo kiểu Tàu chứ đâu có sách nào ghi là giác ngộ?
"Phong thái" khác "trạng thái" anh gì ơi, anh hiểu sai cả ngữ nghĩa nên em chịu thua k trả lời đc ca này của anh nhé
 
Em tu tiên luyện đạo ah? Sư phụ ko dạy em món phòng trung thuật ah mà dứt áo vậy?
Thế nên muốn sống tốt thì bỏ trò tu tiên đi, tích cực trò truyện với người thân xung quanh. Kiếm tìm ý nghĩa, niềm vui trong từng công việc mình làm. Theo đuổi cái "giác ngộ" éo bao giờ có hồi kết mà chỉ là trò bỏ bùa, dối gạt bản thân và lừa gạt nhau thôi :)
Câu trên vừa hỏi em tu tiên à câu dưới anh đã dứt khoát chốt cho em tu tiên rồi. Em thấy ngoài bệnh yếu sinh lý ra anh còn thêm cái bệnh chụp mũ lung tung nữa đấy nhé, anh về trị dứt điểm 2 bệnh 1 thể đi chứ kẻo để lâu lại tòi ra cái bệnh gì nữa lại chữa k kịp
 
Câu trên vừa hỏi em tu tiên à câu dưới anh đã dứt khoát chốt cho em tu tiên rồi. Em thấy ngoài bệnh yếu sinh lý ra anh còn thêm cái bệnh chụp mũ lung tung nữa đấy nhé, anh về trị dứt điểm 2 bệnh 1 thể đi chứ kẻo để lâu lại tòi ra cái bệnh gì nữa lại chữa k kịp
Iêu iem, hí hí. Ysl ko là bệnh mà là 1 phong thái điềm đạm an nhiên tịch mịch mà mọi xammer mong cầu nha. Em nhầm giữa phong thái và bệnh thế này là do sai khác giữa văn hóa tu tiên với văn hóa xammer rồi.
Ngôn ngữ vốn đầy ma thuật, diễn đạt 1 câu để người khác hiểu đúng ý đã khó mà em lại còn cắt trích câu của a để quote thía này thì bảo sao ko ép nó méo mó từ 1 phong thái đĩnh đạc thành dạng bệnh :))
Thiệt ra anh cũng là người tu đạo: đạo đụ. Giác ngộ của đạo này là liệt dương, ysl là sắp đắc đạo đó em ;))
 
Những từ đầy ma thuật như "giác ngộ", "đắc đạo", "phong thái".... ko có định nghĩa rõ ràng nha. Nên với những từ kiểu này sẽ dễ phát sinh hiểu lầm lớn khi các bạn ở các môi trường văn hóa, chuyên ngành khác bọt và hệ hình tư duy khác biệt.
Hiểu đc điều này nên phật giáo mới có cái thuyết vô ngã, hỏi cc gì cũng trả lời là 0, không, ko,....
 
Hiểu đc điều này nên phật giáo mới có cái thuyết vô ngã, hỏi cc gì cũng trả lời là 0, không, ko,....
Anh quote lời Phật chỗ ngài nói cái cc gì cũng k, k, k xem nào? Đm anh, hình dung cái cảnh người ta đến hỏi đạo bị ông Gotama ngồi phun "không, không, không" vào mặt như thằng mát giữa đường mà muốn hộc cmn máu.
Mà thôi thế này cho nhanh nhé,
Iêu iem, hí hí.
ĐÉO yêu!
Anh lượn mẹ đi cho nc nó trong, đang tính tranh thủ nghỉ lễ đàm vài câu đạo mà h nghe mấy câu comment ẹo ẹo dẹo dẹo cụt hết cả hứng
 
Tất cả các giáo pháp của đạo phật chính thống đều có 3 yếu tố gọi là tam pháp ấn : Vô Thường Vô Ngã Niết Bàn..giống như các tài liệu luật pháp cần có người làm chứng thì các phép thực tập trong đạo phật phải có chứng tích ba dấu ấn này.
 
Phật nói trong kinh người bắt rắn(Ratnakuta): "Nếu bạn kẹt vào ý niệm hiện hữu hay không hiện hữu( Có hay Không ) thì ý niệm về trống rỗng giúp cho bạn được tự do , nhưng khi bạn kẹt vào ý niệm trống rỗng thì hết hy vọng" .Giáo lý về sự trống rỗng là một dụng cụ giúp bạn có cái hiểu thật sự về Không , nhưng nếu bạn coi dụng cụ đó là sự giác ngộ thì bạn đã kẹt vào ý niệm đó rồi.
 
Những từ đầy ma thuật như "giác ngộ", "đắc đạo", "phong thái".... ko có định nghĩa rõ ràng nha. Nên với những từ kiểu này sẽ dễ phát sinh hiểu lầm lớn khi các bạn ở các môi trường văn hóa, chuyên ngành khác bọt và hệ hình tư duy khác biệt.
Hiểu đc điều này nên phật giáo mới có cái thuyết vô ngã, hỏi cc gì cũng trả lời là 0, không, ko,....
Bạn đang lấy vài người xuất gia đại diện cho Phật giáo?
 
Anh quote lời Phật chỗ ngài nói cái cc gì cũng k, k, k xem nào? Đm anh, hình dung cái cảnh người ta đến hỏi đạo bị ông Gotama ngồi phun "không, không, không" vào mặt như thằng mát giữa đường mà muốn hộc cmn máu.
Mà thôi thế này cho nhanh nhé,

ĐÉO yêu!
Anh lượn mẹ đi cho nc nó trong, đang tính tranh thủ nghỉ lễ đàm vài câu đạo mà h nghe mấy câu comment ẹo ẹo dẹo dẹo cụt hết cả hứng
Xin lỗi nếu làm em mất nhã hứng, anh sẽ ko quote vì đó ko phải là lời của phật tổ và đến bây giờ phật tổ có thật hay ko vẫn chưa có bằng chứng xác thực. Và nội dung của nó trong học thuyết vô ngã của ông Long Thọ, sau ông Thích Ca ko rõ thật giả, có tồn tại hem rất lâu nhóe :v.
Chúc iêm nghỉ lễ vui vẻ, iêu iêm. A chim cút đây
 
Nếu đọc về kinh phật mà không hành thiền thì cũng không có giá trị gì, ananda là anh em họ của phật, theo phật từ những ngày đầu tiên, gần như kinh phật toàn bộ do ông này ghi chép lại hơn nữa lại là người cực kì thông minh, vậy mà đắc đạo muộn nhất trong các đệ tử phật vì không thực hành thiền định. Thằng nào cảm thấy nghi ngờ thì có thể làm một khóa thiền vipasanna ở hồng trung sơn trải nghiệm cũng hay, khóa này sẽ không xung đột với bất kì tôn giáo nào mà chúng mày đang theo.
Thân.
 
Xin lỗi nếu làm em mất nhã hứng, anh sẽ ko quote vì đó ko phải là lời của phật tổ và đến bây giờ phật tổ có thật hay ko vẫn chưa có bằng chứng xác thực. Và nội dung của nó trong học thuyết vô ngã của ông Long Thọ, sau ông Thích Ca ko rõ thật giả, có tồn tại hem rất lâu nhóe :v.
Chúc iêm nghỉ lễ vui vẻ, iêu iêm. A chim cút đây
thà anh nói sớm cái này tôi khỏi tốn time quote anh.
 
Nếu đọc về kinh phật mà không hành thiền thì cũng không có giá trị gì, ananda là anh em họ của phật, theo phật từ những ngày đầu tiên, gần như kinh phật toàn bộ do ông này ghi chép lại hơn nữa lại là người cực kì thông minh, vậy mà đắc đạo muộn nhất trong các đệ tử phật vì không thực hành thiền định. Thằng nào cảm thấy nghi ngờ thì có thể làm một khóa thiền vipasanna ở hồng trung sơn trải nghiệm cũng hay, khóa này sẽ không xung đột với bất kì tôn giáo nào mà chúng mày đang theo.
Thân.
chuẩn nè
sadhu sadhu
 
T chỉ muốm biết thêm về lời giảng của cụ thiền sư nào đó ở trên, rằng lòng từ bi không có giá trị gì trong giác ngộ. Như vậy nếu điều đó là đúng, phải chăng thiền theo kiểu phật giáo có phần ích kỷ?
Em xin phép giải quyết xong luận điểm từ bi, nếu không còn vướng víu gì thêm thì sau đó hẵng bàn đến thực trạng ích kỷ do thiền gây ra.
Có 1 điều em k biết anh @KhiemCung có đang hiểu lầm không nên muốn làm rõ trc, nếu có gì k phải a bỏ qua cho e nhé. Đó là việc: từ bi, thiền, vô ngã, vân vân... đều chỉ là tập hợp con của Giác ngộ thôi, em hy vọng anh không đặt dấu = vào giữa 2 khái niệm này
(bởi có vài trường hợp đạt đc thiền hoặc từ bi nhưng chưa giác ngộ )

Trở lại với từ bi, khái niệm từ bi là bắt nguồn từ đạo Phật, bắt nguồn từ chính Đức Phật, nên anh có thể yên tâm là đạo Phật chân chính chủ trương từ bi anh nhé.
Chẳng hạn trong Kinh Trung bộ(thuộc đại tạng kinh Nikaya), phẩm Bát thành, Phật dạy 11 cửa đưa đến giải thoát(giác ngộ), trong đó có 4 cửa là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, tức "Từ - Bi - Hỷ - Xả"
"Từ" trong hiền từ, nhân từ, lương y như từ mẫu, ...
"Bi" trong bi mẫn, thương xót, ...
Cái từ của Đạo nếu không phải để nhập thiền thì về cơ bản giống đời, người tu cũng thương người và giúp người giống như anh @KhiemCung thôi, khác ở cái chỗ "vô lượng" này(mà nếu a có từ tâm rồi có thêm cái vô lượng nữa thì từ của anh cũng chính là từ của Đạo giác ngộ rồi).
So sánh 1 chút cho dễ hiểu: "từ" của người đời tiêu biểu có "từ mẫu", người mẹ thương con vô điều kiện là "từ", nhưng kỳ thực cái vô điều kiện này cần điều kiện - phải là con của mình, con người khác thì không được như vậy, sự phân biệt ấy là nguồn gốc phát sinh xung đột và đau khổ trong đời thường.
Người tu khác, họ trải tình thương cho tất cả không phân biệt vì ai là ai mà thương ít thương nhiều, có thương hoặc không thương. Như Phật giảng "phóng tâm đó đi một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, rồi phía trên, phía dưới, xung quanh mình. Người đó phóng tâm đi khắp thế giới, chiếu rọi khắp nơi với tâm từ, tâm thức vô lượng vắng bóng sân hận và phiền não".
Hướng trên thì các loài chim chóc, hướng dưới thì giun bọ, hướng ngang thì tất cả mọi loài trên mặt đất,.. v..v"
"Vô lượng" là không có giới hạn mà, cho nên sự từ bi của Đạo là k có giới hạn hay ràng buộc, nên nó không gây hệ lụy đau khổ gì. (Tương tự với tâm Bi)

Kể cho anh nghe, lưu truyền trong giới Phật tử có 1 câu chuyện, nguồn gốc thì chắc k phải từ thời Đức Phật nhưng nhiều người theo đuổi con đường giác ngộ nghe xong ai cũng tấm tắc khen ngợi từ tâm của vị tăng trong chuyện này. (Em kể phiên phiến chứ k nhớ chính xác tiểu tiết nhé).
Có hai vị tăng tu hành đang trên đường đi khất thực, đến 1 bờ suối nọ 2 vị bắt gặp 1 cô gái đang lúng túng tìm cách qua suối mà mãi k đc. Hỏi thì mới hay, con suối vốn không sâu, nhưng cô gái ăn vận váy áo trang trọng để đi lễ, nếu lội qua ắt sẽ dơ hết đồ k đi lễ đc, mà nếu k qua suối thì cũng k còn con đường nào khác nữa, còn dùng dằng mãi sẽ trễ giờ mất.
Nghe xong, vị sư huynh không hỏi thêm gì mà im lặng rời đi, vì giới luật dạy người xuất gia k đc đụng chạm người nữ, nếu bây giờ giúp cõng cô gái qua suối thì phạm giới rồi, cho nên ông k giúp. Vị tăng còn lại thì cũng im lặng, nhưng là im lặng xắn tay áo cõng cô gái 1 mạch qua luôn. Ông sư huynh thấy vậy bực mình lắm, nghĩ cái thằng sư đệ mình sao nó ngang nhiên phạm giới vậy ta. Khi cô gái vừa khuất lập tức quở trách sư đệ, nào là: sao đệ dám đụng chạm nữ giới, đã tu hành mà sao còn hám sắc như vậy, mất hết cả oai nghi tế hạnh của người tu như thế, ... Sư đệ vì k muốn đôi co nên im lặng k lời qua tiếng lại gì, ai ngờ cho đến tận lúc về cổng chùa mà ông sư huynh vẫn chưa chịu dừng rầy la. Lúc này, sư đệ dừng trước cổng, chỉ buông 1 câu làm sư huynh chết lặng, cứng lưỡi ú a ú ớ, ông nói:
"Ta đã bỏ cô gái ấy ở nơi bờ suối rồi, sao huynh thì còn ôm ấp cô ta trong lòng cho đến tận giờ thế?"

Có thể thấy, cái từ không phân biệt của người tu là vậy. Giúp người, dù là phạm vào giới luật nhưng lòng thanh thản, còn hơn giữ khư khư cái giới luật tưởng mình trong sạch nhưng kỳ thực là đã ô nhiễm rồi.
 
Bọn tôn giáo cũ và cả triết học cũ đều mắc căn bệnh 'siêu hình' hoặc 'thần học' là kiếm 1 phương pháp, 1 cách thức rốt ráo để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống. Về hiệu quả tức thời với cá nhân là có thể đạt đc một số mặt tích cực nào đó về tâm lý và cảm xúc nhưng về lâu dài là khó thích nghi với môi trường, xã hội luôn biến động liên tục và có thể gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực. Khi đem các phương pháp theo kiểu bí truyền đó ra áp dụng vô những đối tượng khác trong xã hội cũng khó có đc những kết quả tương ứng vì nó éo rõ ràng và mạch lạc như khoa học thực chứng hiện đại.
Thế nên muốn sống tốt thì bỏ trò tu tiên đi, tích cực trò truyện với người thân xung quanh. Kiếm tìm ý nghĩa, niềm vui trong từng công việc mình làm. Theo đuổi cái "giác ngộ" éo bao giờ có hồi kết mà chỉ là trò bỏ bùa, dối gạt bản thân và lừa gạt nhau thôi :)
Kiểu đập hết xây lại chứ không phải sửa lại hả ?
 
Top