• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

[Góc nhìn cũ - lăng kính mới]: Thế giới qua góc nhìn của tưởng tri

Thế giới qua góc nhìn của tưởng tri
"​
"Khi Đức Phật mới thành đạo, Ngài nhận thấy việc hiểu thấu và giác ngộ đạo của Ngài rất khó khăn. Ngài không có ý định đi hoằng pháp vì thấy rằng tuyệt đại đa số chúng sinh không thể chịu đựng hoặc hiểu nổi lời dạy của Ngài."

Khi Ngài nói rằng : "Không có hạnh phúc, chỉ có giải pháp cho đau khổ" thì người ta không thể nào chấp nhận được.

Họ sẽ nghĩ rằng: Tôi yêu người đó, tôi cưới người đó về, tôi rất hạnh phúc, sao lại nói là không có hạnh phúc ?

Thực ra không phải là không có lạc thọ (niềm vui ở cơ thể) hay hỉ thọ (niềm vui của tâm lý).
Nhưng hai thứ đó có được từ sự hiểu lầm.

Có điều khá kỳ cục, ngoài đời người ta nói rằng: tôi hiểu người đó, người đó hiểu tôi, chúng tôi coi nhau là tri kỷ, chúng tôi yêu nhau và lấy nhau.

Nhưng nếu nói theo tinh thần Phật pháp:

- Vì không hiểu nhau, vì hiểu lầm nhau hoặc không hiểu nhau nên mới lấy nhau.

- Nếu hiểu nhau đến nơi đến chốn thì không thể nào lấy nhau được.

- Nếu biết rõ mọi sự đang diễn ra trong tấm thân, trong tư tưởng của người kia thì rất khó mà sống chung với nhau.

=> Vì cứ nghĩ người kia đẹp, có ánh mắt đẹp, có nụ cười đẹp, do ảo giác đó nên người ta mới gắn bó và sống chung cả đời.

Niềm an lạc của phàm phu trong đời này là do sự hiểu lầm:
"do nghiệp và khuynh hướng tâm lý".

Do nghiệp nên người ta phải chấp nhận hoàn cảnh sống. Khi chấp nhận hoàn cảnh, họ cảm thấy hạnh phúc. Con chim cú cảm thấy hạnh phúc khi bắt được con chuột chù để ăn vì nghiệp đã đưa nó làm con chim cú, nó cảm thấy ngon miệng và ăn được hoài.

Cái biết tạm được chia làm 2 loại :

- Biết bằng thức là cái biết đơn thuần của năm giác quan.

- Biết của tưởng là biết dựa trên hồi ức, kinh nghiệm, trí nhớ cũ.


Đại đa số thời gian trong cuộc đời này, chúng ta chỉ sống bằng tưởng.
Đó chính là bi kịch nhân gian !

Tạm dẫn chứng một vài ví dụ sau:

- Tôi là người Cơ đốc giáo, học giáo lý nhà thờ từ hồi nhỏ. Từ đó tôi nhìn thế giới này qua lăng kính của một tín hữu Công giáo.

- Tôi là một Phật tử Bắc Tông, từ bé đã được dạy niệm Phật Di Đà, niệm Quán Âm để thoát nạn. Khi vào đời dù tôi nghiên cứu bao nhiêu kinh sách đi nữa, thì ám ảnh trong đầu tôi vẫn là niệm Phật Di Đà cầu vãng sinh, niệm Quán Âm cầu tai nạn khỏi, niệm Địa Tạng để thoát địa ngục.

- Tôi là một người Hồi giáo, mỗi ngày tôi quỳ cầu nguyện năm lần, suy nghĩ gì cũng dựa trên kinh Qur’an.

-Tôi là người Do Thái giáo, tôi học sách Talmud từ bé, tôi không ăn các loại cá da trơn. Tất cả nền tảng suy nghĩ của tôi lúc nào cũng dựa trên kinh Talmud.

- Người Phật tử Nam Tông có học Vi diệu pháp, suy nghĩ gì cũng không ra khỏi A-tỳ-đàm.

Đời sống của chúng ta suy cho cùng đều dựa trên những hồi ức, kỷ niệm, kinh nghiệm mình đã trải qua.

Hiếm khi nào chúng ta dành thời gian để suy nghĩ lại và nghi ngờ con đường dưới chân mình.


Tôn giáo đã vậy, chính trị, văn hóa, triết học, xã hội, giáo dục.... cũng thế !

Chúng ta được ăn học và đào tạo trong một môi trường nào đó, rồi không dám nghi ngờ nó vì sợ mình lạc đường và cứ thế sống cho đến ngày tàn hơi. Người như vậy thì không có khá. Khổ một nỗi, nếu sống mà không có hồi ức, chúng ta tự cho rằng mình không có kiến thức, không có học thức, không có đủ kinh nghiệm.

Thực ra, toàn bộ kiến thức học đường chỉ là kinh nghiệm của người khác truyền lại cho mình. Sau khi ra trường, thành bác sĩ, thành kỹ sư rồi cộng thêm một số kinh nghiệm mới thông qua những cái biết mới, nhưng đời sống của mình vẫn dựa vào cái biết cũ, đó gọi là tưởng - tưởng uẩn.
 
Top