• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Như thế nào là 1 người bạn đúng nghĩa ?

Hôm nay rảnh + hứng nên soạn 1 số bài Kinh tao đọc mà cảm thấy tâm đắc. Vì Kinh Phật thường trình bày theo lối văn nói của ngôn ngữ cổ + văn phạm Ấn nên sẽ hơi khó hiểu. Tao sẽ chú thích lại và viết theo ngôn ngữ hiện đại kèm theo.

Note :
(1) Người bạn tốt là người có đạo đức và phẩm chất tốt đẹp, luôn đồng hành và hỗ trợ chúng ta trong mọi lời nói, hành động và việc làm.

(2) Họ là người luôn hướng suy nghĩ và hành động của mình theo những điều tốt đẹp, noi gương và học hỏi từ những người có đức hạnh.

(3) Người bạn thực sự dễ gần, dễ bảo, luôn lắng nghe và sẵn sàng tiếp thu lời khuyên chân thành.

(4) Họ cũng là người biết nhẫn nhịn, không nổi nóng hay giận dữ ngay cả khi bị phê bình một cách gay gắt.

(5) Quan trọng hơn, họ đón nhận lời khuyên với thái độ nghiêm túc và tôn trọng. Thay vì bỏ qua hoặc phớt lờ, họ sẽ chân thành yêu cầu sự chỉ dẫn và biết trân trọng những lời dạy bảo, xem đó như kim chỉ nam để hoàn thiện bản thân.

Bài Kinh hôm nay tao giới thiệu tên là Kinh Hổ Thẹn (Hirisuttaṃ ).

Nội dung bài Kinh này nói ngắn gọn là cách Đức Phật hay góc nhìn Phật giáo định nghĩa như thế nào là 1 người bạn đúng nghĩa !

Toàn bộ bài Kinh chỉ ngắn gọn như này, tất nhiên là đọc trực tiếp vào mà không giải thích thì sẽ không hiểu nổi :

Phần 1: Nội dung bài Kinh hổ thẹn :

255. Kẻ (nào) vượt qua sự hổ thẹn, kinh tởm sự hổ thẹn, trong khi nói rằng: "Tôi là bạn", (nhưng) không nhận lấy các việc làm trong khả năng, nên nhận biết về kẻ ấy rằng: ‘Người này không là (bạn) của tôi.’

256. Kẻ nào thể hiện lời nói trìu mến ở giữa bạn bè nhưng không làm theo, các bậc sáng suốt biết rõ là kẻ nói mà không làm.

257. Kẻ nào thường xuyên chú ý, nghi ngờ sự chia rẽ, chuyên soi mói khuyết điểm, kẻ ấy không phải là bạn. Và ở người nào (có thể) trông cậy được tựa như đứa con trai nằm dựa vào ngực (cha), người ấy quả thật là bạn, người ấy không bị chia cắt bởi những kẻ khác.

258. Trong khi gồng gánh phận sự của nam nhân, người mong cầu Quả Vị làm tăng trưởng (sự tinh tấn), nền tảng tạo ra sự hoan hỷ, (làm tăng trưởng) sự an lạc (Niết Bàn), nguồn mang lại sự khen ngợi.

259. Sau khi đã uống hương vị của sự ẩn cư và hương vị của sự an tịnh, người uống hương vị hoan hỷ của Giáo Pháp trở nên không còn buồn bực, không còn ác xấu.


Phần 2: Vì sao có bài Kinh này (Duyên Sự) :

Tóm tắt nội dung :

Bối cảnh câu chuyện : Một vị Bà La Môn giàu có tại Kinh Thành Sāvatthī để lại khối tài sản lớn cho con trai duy nhất. Sau khi cha mẹ qua đời, chàng trai nhận ra tài sản không thể mang theo sau khi chết, từ đó quyết tâm tích lũy thiện hạnh thay vì chỉ giữ tài sản. Vì vậy, anh ta tổ chức bố thí lớn, sau đó quyết định từ bỏ đời sống gia đình để xuất gia.

Bất chấp sự phản đối của người thân, anh trở thành một đạo sĩ thuộc hạng Vantamuttikā (cao quý nhất trong tám hạng đạo sĩ).Tám hạng đạo sĩ được liệt kê, từ hạng thấp nhất (Saputtabhariyā) đến hạng cao nhất (Vantamuttikā), với chi tiết về cách mỗi hạng sống và tu tập.

Gặp gỡ Đức Phật:

Trong khi sống tại núi Himavanta, đạo sĩ nghe nói về Đức Phật và quyết định đến diện kiến. Anh mang theo bốn câu hỏi tâm đắc để thỉnh giáo.

Nội dung của 4 câu hỏi :

(1) Những câu hỏi liên quan đến bạn bè không nên kết giao,
(2) bạn bè nên thân cận,
(3) cách thực hành đúng đắn,
và (4) điều tối thượng.

Đức Phật trả lời các câu hỏi với trí tuệ và từ bi, bắt đầu bằng câu kệ “Vượt qua khỏi sự hổ thẹn”.


Chi tiết :

Gọi là “Vượt qua khỏi sự hổ thẹn” tức là Kinh Hổ Thẹn. Phát sanh trong trường hợp nào? Khi Đức Thế Tôn chưa xuất hiện, tại Kinh Thành Sāvatthì có một vị Bà La Môn đại phú hào nọ có sự giàu sang phú quý với tài sản của cải lên đến Tám Trăm Triệu đồng tiền vàng. Và người con trai độc nhất của Bà La Môn đó rất khả ái và đáng yêu. Bà La Môn đó trong khi nuôi nấng trưởng thành con trai bằng những phương tiện hoàn hảo vi tế, với nhiều phương pháp khác nhau giống như một Thiên Tử vậy, nhưng số tài sản đó là không giao cho con trai, rồi đã cùng với người vợ lần lượt qua đời. Liền sau đó, sau khi Cha Mẹ của chàng thanh niên qua đời, người quản gia đã mở căn phòng quý nhất, trong khi giao lại số tài sản đó, đã nói rằng: “Thưa chủ nhân! Phần này chúng là tài sản của Cha Mẹ Ngài! Phần này là tài sản của Ông Nội và Ông Cố Nội, và phần này đến từ sự kế thừa của bảy gia tộc.”

Chàng trai trẻ sau khi nhìn thấy số tài sản đó, đã suy nghĩ rằng: “Việc nhìn thấy được đối với chính số tài sản này, đối với những người nào đã tích lũy số tài sản này, những người đó đều không nhìn thấy được, tất cả đã ra đi theo mãnh lực của Tử Thần. Trong khi ra đi thì đã ra đi mà không mang theo được bất cứ thứ gì từ đây, nên mới gọi là như vầy phải đi đến thế giới khác sau khi từ bỏ những tài sản, không thể ra đi và mang theo bất cứ gì ngoại trừ với những thiện hạnh. Chắc chắn là thế, sau khi ta bỏ lại sau lưng số tài sản này, cần phải nắm bắt lấy với những tài sản thiện hạnh, và có thể ra đi và mang theo những thiện hạnh đó.” Thế là hằng ngày, vị đó trong khi phân phát một trăm ngàn đồng tiền vàng, và rồi đã có suy nghĩ rằng: “Số tài sản này quá dồi dào, tại sao bằng sự từ bỏ ít oi như vầy đối với số tài sản này chứ, chắc chắc rằng Ta phải bố thí một cuộc Đại Thí.”

Thế là Vị Ấy đã thông báo đến Đức Vua rằng: “Tâu Đại Vương! Có rất nhiều tài sản trong gia đình của Thần, Thần mong mỏi bố thí một cuộc Đại Thí đối với số tài sản đó. Lành thay! Tâu Đại Vương! Hãy cho thông báo trong Kinh Thành!” Đức Vua đã cho làm theo đúng như vậy. Vị Ấy sau khi làm cho vun đầy lên đối với những vật đựng của tất cả những người đã đi đến, đến ngày thứ bảy cũng đã bố thí xong tất cả những tài sản, sau khi bố thí thì lại suy nghĩ rằng: “Sau khi đã tạo việc đại từ bỏ như vậy, thì sự sinh sống trong gia đình thật không thích hợp, chắc chắc rằng Ta cần phải xuất gia.”

Liền sau đó, đã thông báo mục đích đó đến cho những người hầu hạ tùy tùng. Những người tùy tùng đã vội nói rằng: “Thưa Chủ Nhân! Ngài không nên suy nghĩ rằng đã khánh kiệt tài sản’ chỉ cần với chút ít thời gian thích hợp và với nhiều phương pháp khác nhau, chúng tôi sẽ tạo được sự tích lũy về tài sản” rồi đã khẩn cầu vị ấy với rất nhiều hình thức khác nhau. Thế nhưng, Vị ấy vẫn không nắm giữ những lời cầu xin của họ, rồi đã xuất gia thành Đạo Sĩ.

Ở đây, những Bậc Đạo Sĩ có 8 hạng là : (1) Saputtabhariyā, (2) Uñchācārikā, (3) Sampattakālikā, (4) Anaggipakkikā, (5) Asmamuṭṭhikā, (6) Dantaluyyakā, (7) Pavattaphalikā và hạng (8) Vantamuttikā.
(dĩ. ni. attha. Ở 1.280).

- Ở đây, gọi là “Hạng Saputtabhariyā” tức là sau khi xuất gia cùng với vợ con, trong khi nuôi sống sinh mạng bằng việc trồng tỉa hoặc là thương mại, chẳng hạn như Đạo Sĩ Tóc Bện Keniya.

- Gọi là “Hạng Uñchācārika” tức là sau khi cho kiến tạo am thất tại nơi cổng thành, tại nơi đó sau khi dạy học với những loại nghiệp nghệ cho những vị dòng Vua Chúa, những vị Bà La Môn, hoặc là những vị Hoàng Tử. Đã từ chối những loại vàng và bạc, và là người chỉ nhận lấy những vật phẩm thích hợp chẳng hạn như là hạt mè hay hạt gạo, những vị này xuất sắc hơn đối với hạng Saputtabhariyā.

- Gọi là “Hạng Sampattakālikā” tức là khi đã đến thời gian thọ thực, sau khi nhận lấy những vật thực, những vị này sinh sống như vậy, họ xuất sắc hơn hạng Unchacārikā.

- Gọi là “Hạng Anaggipakkika” tức vị ấy vẫn trú tại nơi đó, những vị ấy không bao giờ rời đi ngoại trừ với mục đích vật thực chỉ là như vậy. Trong khi thực hiện chí nguyện thuộc về những chi phần Uposatha, và tu tiến về Đề Mục Phạm Trú, những vị ấy xuất sắc hơn đối với hạng Dantaluyyakā.

- Gọi là “Hạng Vanţamuttikā” tức là những vị này ăn chỉ với những lá cây đã rơi xuống mặt đất với sự lìa khỏi cuống lá, còn lại cũng giống như các vị trước, những vị ấy xuất sắc hơn tất cả.

Lại nữa, con trai của Gia Tộc Bà La Môn này suy nghĩ rằng: “Ta sẽ xuất gia hạng xuất gia cao thượng trong số những hạng xuất gia làm Đạo Sĩ này” nên sau khi xuất gia với chính hạng xuất gia Vantamuttikā, đã vượt qua hai ba quả núi trong dãy núi Himavanta, sau khi kiến tạo chỗ trú ngụ đã sinh sống tại đó. Thế rồi, Đức Thế Tôn sau khi xuất hiện trong thế gian, tuần tự chuyển vận Pháp Luân Cao Thượng, rồi đã về đến Kinh Thành Sāvatthi và cư ngụ trong Ngôi Chùa Jetavana của Trưởng Giả Anāthapindika. Vào lúc bấy giờ, có một người dân sinh sống tại Kinh Thành Sāvatthì trong khi tìm kiếm những lõi trầm hương trong những dãy núi, đã đi đến được nơi trú ngụ của Đạo Sĩ, sau khi vái chào đã đứng một bên.

Đạo Sĩ nhìn thấy người đó, đã hỏi rằng: “Ngươi từ đâu đến?” “Bạch Ngài!

Người đó : Từ Kinh Thành Sāvatthī!” “

Đạo Sĩ: Có gì đang diễn ra tại nơi đó không?” “Bạch Ngài!

Người đó : Tại nơi đó mọi người thực hiện những việc phước chẳng hạn như là Bố Thí một cách rất thận trọng.”

Đạo Sĩ: “Sau khi nghe theo lời giáo hóa của Vị nào?”

Người đó : “Của Đấng Như Lai! Của Đức Phật!”

Đạo Sĩ đã rất đỗi ngạc nhiên với âm tiết “Đức Phật” liền hỏi rằng “Này người kia! Bạn đã nói là Đức Phật?” và đã hỏi đến ba lần tương tự như đã đề cập trong Kinh Āmagandha, rồi nghĩ rằng: “Ngay cả âm thanh này, điều đó cũng là khó có được” rồi trở nên hoan hỷ muốn đi đến để diện kiến Đức Phật.

Nhưng rồi đã suy nghĩ rằng: “Việc đi đến diện kiến Đức Phật với tay không như thế này thật không thích hợp, nên đi sau khi cầm theo gì đó.”

Thế nhưng, đã suy nghĩ lại rằng: “Gọi là Chư Phật thì không phải là những người đặt nặng về tài vật, thật thế, Ta sẽ đi sau khi mang theo vật biếu tặng là Pháp.”

Rồi đã chuẩn bị sửa soạn bốn câu hỏi rằng:


(1) Bạn thế nào, thì không đáng giao du?
(2) Bạn thế nào thì rất nên thân cận?
(3) Thực hành nào cần phải nên ứng dụng?
(4) Như thế nào là tối thắng các vị?”


Đạo Sĩ ấy sau khi nắm bắt những câu hỏi đó, rồi đã đi về vùng đất ở giữa ngay hướng trước mặt, tuần tự thứ lớp cũng đã đến được Kinh Thành Sāvatthi và đi vào Jetavana. Vào lúc bấy giờ, chính Đức Thế Tôn đang ngồi tại chỗ ngồi với mục đích để thuyết giảng Giáo Pháp. Đạo Sĩ ấy, sau khi nhìn thấy Đức Thế Tôn, đã không vái chào rồi đã đứng sang một bên.

Đức Thế Tôn đã vui vẻ bằng cách hỏi thăm rằng: “Này Đạo Sĩ, ngươi có khỏe không?”

Đạo Sĩ ấy sau khi hoan hỷ đáp trả lại bằng cách như vầy: “Thưa Ngài Gotama, tôi vẫn khỏe. rồi chính bằng Tâm Ý đã hỏi về những câu hỏi đó với Đức Thế Tôn rằng: “Nếu như trở thành Đức Phật, Ngài sẽ trả lời bằng lời nói cho những câu hỏi đã được hỏi bằng Tâm Ý!”

Đức Thế Tôn trong khi trả lời chính câu hỏi đầu tiên đã được hỏi bởi Bà La Môn ấy, sau khi bắt đầu rằng “Vượt qua khỏi sự hổ thẹn” rồi đã nói thêm với hai câu kệ ngôn rưỡi nữa.

Phần 3 : Giải thích bài Kinh :

Giải thích ý nghĩa câu thứ 1 :



256. “Vượt hổ thẹn, trong khi đang ghê tởm,
Rồi nói rằng “Tôi cũng chính là bạn”
Không giữ lấy những việc làm có thể
Cần nhận biết đó không bạn của tôi.”


- “Vượt hổ thẹn, trong khi đang ghê tởm” : "Vượt qua khỏi sự hổ thẹn"
ở đây chỉ những người không có sự xấu hổ hay không có cảm giác hổ thẹn đối với những điều sai trái. Họ xem thường những chuẩn mực đạo đức. “Ghê tởm”: Chỉ việc nhìn nhận những người không biết xấu hổ như là bất tịnh và nhơ bẩn, giống như một trạng thái tâm lý khinh ghét những gì trái đạo lý. Những người không có hổ thẹn thường không đáng để kết giao.

- “Rồi nói rằng Tôi cũng chính là bạn” : Những người như vậy có thể dùng lời nói để giả vờ làm bạn. Họ thể hiện sự thân thiện, mong muốn điều tốt lành, thậm chí sẵn sàng hy sinh bản thân vì bạn bè. Nhưng thực tế, lời nói chỉ là bề ngoài, không xuất phát từ lòng chân thành.

- “Không giữ lấy những việc làm có thể” : Dù họ đã nói những lời tốt đẹp, nhưng khi có cơ hội giúp đỡ hoặc làm điều thiện cho bạn, họ lại không hành động. Điều này cho thấy sự thiếu chân thành, không thực hiện đúng trách nhiệm của một người bạn. Thay vì giúp đỡ, họ chỉ làm cho tình hình trở nên tệ hơn, bộc lộ sự giả tạo và thiếu tình thương thực sự.

-“Cần nhận biết đó không bạn của tôi”:: Những người như vậy không phải bạn thực sự. Họ chỉ giả vờ làm bạn và không đáng để tin tưởng. Bậc Hiền Trí nên nhận ra bản chất của họ và không kết giao.

Giải thích ý nghĩa câu thứ 2 :

257. “Không hành theo với lời nói yêu thương,
Ai thể hiện với bạn bè như thế,
Trong khi nói không thực hành theo vậy,

Những Hiền Trí, các Ngài thật biết rõ.”


- “Không hành theo với lời nói yêu thương” :
Người này hứa hẹn hoặc bày tỏ tình cảm bằng những lời nói yêu thương, nhưng thực tế lại không làm theo những gì đã nói. “Không hành theo”: Chỉ sự thiếu nhất quán giữa lời nói và hành động. Họ tuyên bố sẽ giúp đỡ, sẽ làm điều gì đó, nhưng sau cùng không thực hiện.

- “Ai thể hiện những lời nói yêu thương đối với bạn bè”: Những người này chỉ dùng lời nói bóng bẩy, ngọt ngào để đối đãi với bạn bè. Họ có thể viện dẫn những lý do liên quan đến quá khứ hoặc tương lai, hoặc thể hiện sự tiếp đón không chân thành. Những lời nói yêu thương chỉ là phương tiện để họ tạo ra một hình ảnh tốt đẹp, không phải là tình cảm thật sự.

- “Trong khi nói lại không thực hiện”: Những lời hứa hoặc tuyên bố dù nghe có vẻ tốt đẹp, nhưng không được biến thành hành động. Đây là sự bất nhất giữa ngôn ngữ và thực tế. Bậc Hiền Trí nhận biết rằng những người như vậy chỉ “giỏi lời nói nhưng không giỏi hành động”. Họ không phải là bạn chân chính mà chỉ giả vờ là bạn.

- “Những Bậc Hiền Trí thật biết rõ”: Bậc Hiền Trí với sự sáng suốt và hiểu biết, dễ dàng nhận ra bản chất của những người này. Họ hiểu rằng những người chỉ xuất sắc trong lời nói mà không có hành động thực chất thì không đáng để kết giao.

Giải thích ý nghĩa câu thứ 3 :

258. “Nó không bạn, là ai thường để ý,
Chia rẽ, khả nghi, và tìm kiếm lỗi lầm,
Đối với ai, tựa con ngủ trên ngực,
Bạn của mình, nó không rời bởi kẻ khác.”

- “Ai thường xuyên để ý, chia rẽ khả nghi và tìm kiếm những lỗi lầm, người đó không phải là bạn” :
Một người luôn quan sát, soi mói và chú ý đến những lỗi lầm của người khác không thể là bạn thật sự.

Biểu hiện:

Người này thờ ơ, vô trách nhiệm với hành vi của bản thân.
Mang tâm lý nghi ngờ, chia rẽ thay vì hợp tác, đoàn kết.
Hành động không chú tâm hoặc cố ý tìm kiếm lỗi để sau này chỉ trích người khác.

=> Người như vậy không đáng kết bạn vì họ luôn ẩn chứa ý đồ xấu.

- “Khi nào người đó trách móc tôi, khi đó tôi sẽ quở trách trả lại người đó bằng chính những điều này”: Đây là kiểu người giữ tâm lý thù hằn, luôn chờ cơ hội để trả thù khi bị phê bình hay chỉ trích. Đức Thế Tôn dạy rằng những người có suy nghĩ và hành động như vậy không phải là bạn đáng giao du.

- “ Đối với ai, tựa con ngủ trên ngực”:

Ý nghĩa sâu xa
: Đức Thế Tôn dùng hình ảnh ẩn dụ về một người con trai ngủ trên ngực cha, biểu thị mối quan hệ tin tưởng tuyệt đối.

Giải thích hình ảnh:

- Một đứa trẻ ngủ trên ngực cha không lo lắng về bất kỳ điều gì, không nghi ngờ hay sợ hãi.

- Người bạn thật sự là người tạo được niềm tin tương tự, làm bạn yên tâm ngay cả khi giao phó những điều quý giá như tài sản, gia đình hay mạng sống.

- “Người đó không chia lìa rời bỏ”: Một người bạn thật sự sẽ không bao giờ rời xa bạn, bất kể bị người khác gây chia rẽ hoặc nói xấu với nhiều lý do. Tình bạn thật sự được duy trì dù có bất kỳ khó khăn hay sự can thiệp từ bên ngoài.

Giải thích ý nghĩa câu thứ 4:

259. “Là phương pháp, tạo bày niềm hạnh phúc
Là lạc an, mang đến sự ngợi khen,
Người phát triển Quả cho quả tốt đẹp,

Khi gánh đỡ nhiệm vụ một con người.

- “Tạo bày niềm hạnh phúc”:
Người bạn đáng giao du là người tạo ra niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Cách để tạo niềm hạnh phúc là sự Tinh Tấn. Tinh Tấn: Là nỗ lực, chuyên chú vào các pháp, từ đó dẫn đến trạng thái hoan hỷ, hân hoan và an lạc.

Dẫn chứng:Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này Chư Tỳ Khưu! Trong Pháp và Luật đã được khéo tuyên thuyết, ai bắt đầu với sự tinh cần cố gắng, người đó sống được an lạc.” (a. ni. 1.319).

- “Mang đến sự ngợi khen”: Người đáng làm bạn là người mang lại sự ca tụng và ngợi khen từ cả nhân gian lẫn chư thiên. Sự ngợi khen này không chỉ giới hạn ở đời sống hiện tại mà còn dẫn đến Niết Bàn, trạng thái an lạc tối thượng.

- “Quả cho quả tốt đẹp”: Kết quả tốt đẹp bắt đầu từ sự an lạc trong hiện tại và dẫn đến sự giải thoát tối hậu. Người bạn đáng giao du là người giúp bạn phát triển các phẩm chất tích cực, đạt được quả tốt đẹp cả trong đời này và đời sau.

-“Trong khi gánh đỡ nhiệm vụ một con người”: Một người đáng làm bạn là người thực hiện tốt những nhiệm vụ của con người, tức là sống theo đúng bổn phận và đạo lý.Thực hành Chánh Tinh Tấn, luôn cố gắng, nỗ lực để thực hiện những điều thiện lành. Góp phần phát triển và lan tỏa các phương pháp dẫn đến hạnh phúc cho mình và người khác.

Nói tóm lại : Người bạn đáng thân cận là người:
  • Tạo niềm hạnh phúc và an lạc cho người khác.
  • Mang lại sự ca tụng, ngợi khen bằng những hành động thiện lành.
  • Giúp người khác đạt được những kết quả tốt đẹp, cả ở đời sống hiện tại và sự giải thoát tối hậu.
  • Gánh vác đúng nhiệm vụ của một con người, luôn sống trong Chánh Tinh Tấn.

Giải thích ý nghĩa câu thứ 5:

260. “Sau khi nếm hương vị của Viễn Ly,
Và đã nếm hương vị sự an tịnh,
Là không sợ và không còn ác xấu,
Và đang nếm hương vị là Pháp Hỷ.”



- “Hương vị của sự viễn ly”: "Viễn ly" (seclusion) là trạng thái tách rời khỏi các Kiết Sử Phiền Não (mental fetters), mang lại sự giải thoát cao nhất. Hương vị của viễn ly là Quả Vị Tối Thượng (Supreme State), biểu hiện qua niềm an lạc sâu sắc và thỏa mãn hoàn toàn. Quả vị viễn ly: Trạng thái an lạc này được khởi sinh khi con người xa lìa các ràng buộc phiền não và đạt đến sự tĩnh lặng nội tâm.

- “Hương vị của sự an tịnh”: "An tịnh" (tranquility) là trạng thái tâm thanh thản, đạt được nhờ làm lắng dịu các Kiết Sử Phiền Não. Trạng thái an tịnh: Có thể xuất hiện trong khoảnh khắc đạt đến Niết Bàn (Nibbana) – nơi không còn đau khổ, hoàn toàn yên bình.

-“Hương vị của Pháp Hỷ” : Pháp Hỷ (joy of the Dhamma) là niềm vui và sự hoan hỷ xuất hiện khi nếm trải chân lý của Pháp (Dhamma), đặc biệt trong trạng thái Niết Bàn. Đây là niềm hoan lạc vượt qua tất cả các hương vị thế gian.

Trạng thái không sợ hãi và không còn ác xấu:

Không sợ hãi
: Sau khi nếm trải hương vị viễn ly, người đó không còn lo sợ vì các Kiết Sử Phiền Não đã bị đoạn trừ hoàn toàn.

Không còn ác xấu: Trạng thái này đạt được khi mọi điều bất thiện (ác xấu) đã bị tiêu diệt tận gốc.
  1. Pháp Hỷ – Tối Thượng trong các hương vị: Pháp Hỷ được xem là hương vị cao nhất vì nó không chỉ mang lại niềm vui mà còn dẫn đến giải thoát hoàn toàn khỏi mọi đau khổ và phiền não.

  2. Các yếu tố hỗ trợ hương vị viễn ly:
    • Thân viễn ly: Thân không còn bị ràng buộc bởi dục lạc hay phiền não.
    • Tâm viễn ly: Tâm đạt được sự tách biệt hoàn toàn với các trạng thái bất thiện.
    • Sanh y viễn ly: Cuộc sống được thiết lập trên nền tảng sự buông bỏ, không dính mắc.
    • Thiền phản khán Niết Bàn: Thiền tập dẫn đến sự nhận thức rõ ràng về chân lý và Niết Bàn.

Tóm lại :

Người thực hành đúng theo lời Phật dạy sẽ nếm trải được ba hương vị tối thượng: viễn ly, an tịnh và Pháp Hỷ.

Đây là những yếu tố cốt lõi giúp đạt được sự giải thoát và an lạc chân thật, vượt xa mọi hương vị vật chất của đời sống thế gian.

Hãy thực hành thân viễn ly, tâm viễn ly và sống một cuộc đời dựa trên tinh thần buông bỏ để hướng đến giải thoát hoàn toàn.


Kết thúc bài Kinh :

Như vậy, Đức Thế Tôn trong khi trả lời câu hỏi thứ tư, Ngài đã hoàn tất thời Pháp với đỉnh cao là Quả Vị A La Hán. Chấm dứt Thời Pháp, Bà La Môn sau khi xuất gia hầu cận Đức Thế Tôn, chỉ trong vài ngày sau đó, đã trở thành Vị A La Hán thành tựu Tuệ Phân Tích.
 
Sửa lần cuối:

Có thể bạn quan tâm

Top