• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Giới thiệu về Tịnh Ðộ Tông

Giới thiệu về Tịnh Ðộ Tông​

Thích Viên Giác



A- Dẫn nhập

Tịnh độ là một trong những pháp môn tu tập phổ biến đối với người Phật tử tại nhiều nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam. Giáo nghĩa Tịnh độ tông thuộc hệ tư tưởng Ðại thừa và xuất hiện vào thời kỳ Phật giáo Phát triển.

Phật giáo Nguyên thủy chú trọng tự lực, Phật giáo Phát triển (Ðại thừa) đa dạng hóa đường lối tu tập nên có những pháp môn chú trọng tha lực, tức nhờ vào Phật lực mà thành tựu đạo quả hoặc vượt thoát khổ đau, lý tưởng như pháp môn Tịnh độ. Vì vậy, Tịnh độ là một đường lối tu tập phổ biến, đáp ứng nhu cầu tâm linh về một đời sống vĩnh cửu và hoàn toàn giải thoát khổ đau của con người.


B- Nội dung

I. Lịch sử và sự truyền thừa Tịnh độ tông

Lý thuyết Tịnh độ được phát triển ở Ấn Ðộ, là một đường lối tu tập nhưng không thiết lập tông phái, chỉ khi các kinh điển Tịnh độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh độ trở thành tông phái.

Phật giáo truyền vào Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ nhất cho đến đầu thế kỷ thứ hai nhưng những kinh luận thuộc giáo nghĩa Tịnh độ phải đến thế kỷ thứ ba mới xuất hiện. Vào thời Ngụy (250), ngài Khang Tăng Ngãi (Sanghavarman) dịch kinh Vô Lượng Thọ, cư sĩ Chí Khiếm (thời Tôn Quyền) dịch bộ Ðại A Di Ðà kinh. Ðến đời Diêu Tần (thế kỷ IV), ngài La Thập dịch Phật thuyết A Di Ðà kinh, còn gọi là tiểu kinh A Di Ðà, ngài Phật Ðà Bạt Ðà La (Giác Hiền) dịch Tân Vô Lượng Thọ kinh, Quán Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm dịch Tịnh độ tam muội. Thời Lưu Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas) dịch Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Bồ Ðề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô Lượng Thọ kinh luận. Ðặc biệt, ngài Thế Thân trước tác Vãng sinh Tịnh độ luận..., đến đây giáo nghĩa Tịnh độ tông tương đối hoàn chỉnh. Ba tác phẩm được coi là nền tảng của Tịnh độ tông là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Ðà, cộng thêm tác phẩm Vãng sinh Tịnh độ luận của Thế Thân. Mặc dù chỉ một vài bộ kinh triển khai giáo lý Tịnh độ, nhưng rất nhiều kinh luận trong hệ thống giáo lý Ðại thừa ca ngợi tư tưởng Tịnh độ, làm cho Tịnh độ tông trở nên phổ biến và nổi bật trong nền tư tưởng Phật học Trung Hoa.

Lịch sử truyền thừa của Tịnh độ tông không theo đường lối thông thường là người trước truyền cho người sau như các tông phái khác, mà chỉ căn cứ vào sự đóng góp nhiều ít công cuộc xiển dương giáo lý Tịnh độ.

Tịnh độ tông Trung Hoa, ngài Huệ Viễn (333-416) được coi là người sáng lập. Ngài quê ở Nhạn Môn, 21 tuổi xuất gia làm môn đệ của ngài Ðạo An. Ngài thông minh xuất chúng, được ngài Ðạo An khen ngợi. Vì hoàn cảnh loạn lạc, Ngài di cư xuống Tương Dương, sau đó trên đường hành đạo, Ngài đến Lô Sơn, thấy cảnh trí u tịch, phù hợp với chí nguyện tu hành, Ngài ở lại đó và thành lập chùa Ðông Lâm. Ngài chủ trương tu tập pháp môn niệm Phật, ẩn dật tu hành không màng thế sự..., nhất là quan hệ gần gũi với vua chúa. Ðể phản đối sắc lệnh của nhà vua về việc người xuất gia vào chầu phải lạy, Ngài viết bộ Sa môn bất bái vương giả luận. Năm 402, Ngài lập ra Hội Niệm Phật tại Lô Sơn, lấy tên là Bạch liên xã, đây là một hình thức tổ chức quần chúng tu tập, manh nha một đường lối tu Tịnh độ cho tứ chúng về sau. Tổ chức Bạch liên xã không phân biệt tại gia hay xuất gia, cách tu đơn giản là thành kính lễ bái và niệm hồng danh Ðức Phật A Di Ðà. Pháp tu của ngài Huệ Viễn đã tạo nên đường lối của Tịnh độ tông.

Ðến thế kỷ sau, ngài Ðàm Loan (476-542) tiếp nối xiển dương pháp môn Tịnh độ. Ngài cũng là người ở Nhạn Môn, tu học rất tinh cần, chuyên nghiên cứu chú giải kinh sách nhưng nửa chừng bị bệnh nặng, Ngài tìm thầy chữa bệnh, nhân đó gặp đạo sĩ Ðạo Hoằng Cảnh dạy cho tiên thuật và giao cho 10 cuốn tiên kinh. Trên đường về phương Bắc gặp được ngài Bồ Ðề Lưu Chi (Bodhiruci) trao cho Ngài những tác phẩm pháp môn Tịnh độ, căn cứ vào đó Ngài chuyên tu Tịnh độ. Ngài trước tác những bộ: Vãng sinh luận chú, Tán Phật A Di Ðà kệ... Ngài dạy chúng tu học và xiển dương giáo lý Tịnh độ, chú trọng yếu tố "Tín tâm niệm Phật", đây cũng là sắc thái khác của Tịnh độ tông.

Ngài Ðạo Xước (562-645) có nhân duyên với ngài Ðàm Loan dù sống cách nhau vài chục năm. Ngài đã tiếp nhận pháp môn Tịnh độ trong trường hợp đặc biệt. Ngài Ðạo Xước xuất gia năm 14 tuổi, chuyên nghiên cứu về Niết bàn tông, một hôm đến chùa Huyền Trung núi Thạch Bích, đọc bia đá ghi chép sự tích ngài Ðàm Loan thì lòng sinh cảm kích, Ngài quay sang tu Tịnh độ và thường giảng dạy Quán Vô Lượng Thọ kinh. Ngài nỗ lực giáo hóa dân chúng trong vùng tu Tịnh độ và là người chế ra tràng hạt để dạy cách trì danh niệm Phật. Ðối với nông dân, Ngài bày cách lấy hạt đậu đếm số niệm Phật gọi là "tiểu đậu niệm Phật". Ngài trước tác An lạc tập và một số tác phẩm khác, triển khai ý nghĩa tu dễ và tu khó để kết luận rằng tu Tịnh độ là dễ. Ngài biện minh ý nghĩa tha lực của Ðức Phật A Di Ðà làm cho mọi người đều thích thú pháp môn này. Ðệ tử của Ngài khá đông, xuất sắc gồm có Thiện Ðạo, Ðạo Phủ, Tăng Ðiền...

Ngài Thiện Ðạo (613-681) nối chí thầy mình xiển dương giáo lý Tịnh độ. Phật giáo đời Ðường rất hưng thịnh, Tịnh độ tông cũng phát triển mạnh mẽ, phần lớn nhờ công lao của Thiện Ðạo. Ngài là người ở Lâm Truy, khi xuất gia tìm thầy học đạo, Ngài gặp Ðạo Xước học pháp môn Tịnh độ. Sau khi thầy mất, Ngài về Trường An trụ trì chùa Quang Minh và chùa Từ Ân, giảng dạy và truyền bá pháp môn Tịnh độ. Ngài viết 10 vạn cuốn kinh A Di Ðà và vẽ 300 đồ hình tả cảnh Tịnh độ, làm cho thế giới Tịnh độ trở nên sống động và hiện thực trong tâm người tu nên họ theo rất đông. Ngài trước tác nhiều kinh sách như Quán Vô Lượng Thọ kinh sớ, Vãng sinh lễ tán, Quán niệm pháp môn, Ban châu tán. Ðường lối tu tập của Ngài được đời sau ca ngợi và trở thành một phương thức đặc trưng của Tịnh độ tông.

Ngài Từ Mẫn (680-748) là một hành giả Tịnh độ khá nổi tiếng vào đời Ðường, Ngài noi gương các vị tiền bối, lên đường "nhập Trúc cầu pháp". Ngài ra đi năm 702 (thời Võ Tắc Thiên), đến Bắc Thiên Trúc (Ấn Ðộ) gặp được hóa thân của Quán Thế Âm Bồ tát trao cho pháp môn Tịnh độ. Ngài ở Ấn Ðộ 18 năm mới về nước, được vua Huyền Tôn tặng danh hiệu "Từ Mẫn tam tạng". Ngài trước tác Vãng sinh Tịnh độ tập để truyền bá pháp môn Tịnh độ mà Ngài đã lãnh hội trên đất Ấn, trở thành một dòng tư tưởng Tịnh độ độc lập. Tuy nhiên, hệ thống của Ngài không hưng thịnh lâu.

Như vậy, hệ thống truyền thừa pháp môn Tịnh độ từ sơ khởi cho đến đời Ðường không tiếp nối đời này qua đời khác mà tùy thuận vào nhân duyên của mỗi hành giả. Bắt đầu từ đời Ðường mới có sự truyền thừa, và rõ nét nhất phải chờ đến đời Tống. Sau này, các học giả phân chia đường hướng tu tập của pháp môn Tịnh độ thành 4 hệ thống: Huệ Viễn chú trọng "Quán tưởng niệm Phật", Ðàm Loan chú trọng "Tín tâm niệm Phật", Thiện Ðạo chú trọng "Khẩu xưng niệm Phật", Từ Mẫn thiên về "Thiện căn niệm Phật".

Ðến đời Tống (960-1279), Phật giáo vẫn duy trì các hệ tư tưởng và truyền thống tu tập của các tông phái. Tịnh độ tông mặc dù vẫn duy trì truyền thống độc lập của mình, nhưng vẫn bị ảnh hưởng tác động của các hệ tư tưởng khác. Vào thời kỳ này, các tông phái nói chung đều có xu hướng dung hợp, ví dụ Thiên thai tông chủ trương kiêm tu Tịnh độ, đại biểu cho chủ trương này có ngài Tuân Thức, Từ Lễ, Trí Viên. Luật tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Nguyên Chiếu chủ trương. Thiền tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Diên Thọ chủ trương... cho nên sắc thái Tịnh độ muôn màu muôn vẻ. Những hội niệm Phật đua nhau xuất hiện, nổi bật là hội "Tịnh hạnh xã" của ngài Tĩnh Thường.

Ðời Minh (1360-1661), Tịnh độ tông được phát triển do các đại sư Vân Thê, Liên Trì, Trí Húc, nhất là hàng cư sĩ tu Tịnh độ phát triển mạnh phổ cập sâu rộng trong quần chúng. Ðến đời Thanh, tư tưởng Tịnh độ dung hợp trong mọi pháp môn, tông phái. Những đại sư xiển dương Tịnh độ có ngài Tĩnh An, Thực Hiền (1686-1734). Ngài Êẽn Quang ở cuối đời Thanh là một bậc cao đức truyền bá pháp môn Tịnh độ. Pháp môn Tịnh độ hưng khởi ở Trung Quốc, sau đó được truyền qua các nước Tây Tạng, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, được tiếp nhận nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ.


II. Giáo nghĩa Tịnh độ tông

Tịnh độ tông lấy 3 bộ kinh và 1 bộ luận làm nền tảng cho tư tưởng của mình: kinh "Vô Lượng Thọ" nói về tiền thân Ðức Phật A Di Ðà khi còn là Pháp Tạng Tỳ kheo đã phát nguyện 48 lời nguyện để cứu độ chúng sanh, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rõ phép quán tưởng niệm Phật, kinh A Di Ðà miêu tả thế giới Cực lạc đẹp đẽ trang nghiêm có Ðức Phật A Di Ðà đang thuyết pháp, và bộ luận Vãng sinh Tịnh độ của ngài Thế Thân tán thán và giảng về ý nghĩa của ba bộ kinh trên.

Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì giáo lý Tịnh độ đã được Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết cho hoàng hậu của nước Kosala là Videhi. Bà bị chính con trai bà giam lỏng và chán nản vô cùng trước cảnh thế thái nhân tình. Bà cầu mong Ðức Phật cứu giúp vượt qua nỗi khốn khổ này, Ðức Phật đã xuất hiện và giới thiệu các quốc độ chỉ có an lạc không có khổ đau, bà chọn cõi Phật A Di Ðà. Ðức Phật dạy bà phương pháp niệm danh hiệu Phật để được vãng sanh về cõi ấy. Trong kinh tạng Nguyên thủy không đề cập đến chi tiết ấy, có thể nói kinh tạng Nguyên thủy ít quan tâm đến yếu tố tha lực. Ðến thời kỳ đầu của Phật giáo Phát triển, ngài Nagasena đã đưa lý thuyết Phật cứu độ vào trong lý luận của mình, trở thành tiền đề cho tư tưởng Phật lực về sau.

Cực lạc thế giới, Hán dịch từ tiếng Phạn Sukhànatì, là nơi có hạnh phúc mà không có khổ đau. Cõi giới này do Ðức Phật A Di Ðà giáo hóa. Có thể nói thế giới Cực lạc là một khái niệm khác của Niết bàn, vì Niết bàn (Nirvana) có nghĩa là dập tắt mọi phiền não khổ đau. Trong ý nghĩa hẹp hơn thì đó là một thế giới hiện thực ở phương Tây, khác với thế giới Ta bà đầy đau khổ này mà kinh A Di Ðà gọi là "ngũ trược ác thế".

Thế giới Cực lạc có những ưu điểm tiêu biểu như không có ô uế, không có phiền não, thọ mạng lâu dài, ăn uống tự có, có các thần thông... Ðất nước rất đẹp được cấu tạo bằng các chất quý báu như vàng, ngọc, lưu ly...; cây cối, ao hồ, cung điện, đường sá đều bằng các thứ báu, có ca nhạc như âm nhạc cõi trời, các loài chim hót ca như thuyết pháp... Tóm lại, đó là một thế giới lý tưởng, là môi trường tốt cho sự tu hành và đạt được hạnh phúc tối thượng.

Ðức Phật A Di Ðà là vị giáo chủ của thế giới Cực lạc. A Di Ðà là danh từ dịch âm của Amitàbha, dịch nghĩa là Vô lượng quang, còn Amitàyus là Vô lượng thọ. Vô lượng quang chỉ cho ánh sáng vô lượng, biểu tượng cho trí tuệ viên mãn hay cho Pháp thân (Dharma-kàya). Vô lượng thọ chỉ cho đời sống vĩnh cửu, biểu tượng của đại định hay còn gọi là Giải thoát thân (Vinuktikàya). Với ý nghĩa danh hiệu như vậy, Ðức Phật A Di Ðà tượng trưng cho sự sống vĩnh cửu và giải thoát hoàn toàn khổ đau, đó là mục đích cao cả và hấp dẫn đối với con người ở mọi thời đại.

Theo kinh Vô Lượng Thọ thì Ðức Phật A Di Ðà từng là một nhà vua. Sau khi ngộ đạo, Ngài phát tâm xuất gia và trở thành vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng (Dharmàkara). Ngài quyết tâm tu hành thành Phật và phát nguyện độ hết chúng sanh trong cõi Cực lạc của mình. Ngài lập 48 lời nguyện giúp chúng sanh giải thoát. Những nguyện quan trọng là nguyện thứ 18: "Ví con được thành Phật, mười phương chúng sanh muốn sanh về cõi nước con mà chí tâm tin mến niệm từ một niệm cho đến mười niệm, nếu không được sinh thì con không thành bậc Chánh giác. Chỉ trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp". Nguyện thứ 19: "Ví con được thành Phật, mười phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện muốn sanh về cõi nước con, đến lúc mạng chung, ví con chẳng cùng đại chúng vây quanh hiện thân trước người đó, thì con không thành bậc Chánh giác". Nguyện thứ 20: "Ví con được thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con, nhớ nghĩ quốc độ con, vun trồng các công đức, rồi dốc lòng hồi hướng muốn sanh về cõi nước con, nếu không được toại nguyện thì con không thành bậc Chánh giác" (Kinh Vô Lượng Thọ, Chân Thường dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992).

Qua nội dung 48 lời nguyện cho thấy con đường tu tập Tịnh độ dựa vào nguyện lực của Ðức Phật A Di Ðà và nhất tâm niệm Phật là con đường tu dễ nhất, đó là lý do tại sao Tịnh độ tông được truyền bá rộng rãi nhất.

Con đường tu tập của pháp môn Tịnh độ dựa trên ba nguyên tắc:

1- Niềm tin (Tín): Ðây là điều kiện tiên quyết, không có niềm tin hay niềm tin không đủ mạnh thì không thể tu Tịnh độ được. Sự tin tưởng là nền tảng khởi lên ước muốn và hướng tâm về thế giới Cực lạc. Như tất cả các pháp môn khác, niềm tin là mẹ của các thiện pháp và phát sinh công đức.

Niềm tin của hành giả Tịnh độ rất rõ, tin rằng Ðức Phật A Di Ðà và thế giới Cực lạc là có thực, Ðức Phật và Thánh chúng luôn sẵn sàng tiếp độ chúng ta, chỉ cần chuyên tâm tin tưởng và niệm Phật quyết chí vãng sanh thì chắc chắn được vãng sanh. Vì vậy, các kinh sách Tịnh độ và các hành giả Tịnh độ thường nói xác quyết chứ không có thái độ lưỡng lự, phân hai.

2- Nguyện lực hay tâm mong muốn (Nguyện): Niềm tin ổn định sẽ đưa đến ước muốn vãng sanh gọi là ước nguyện. Mọi hoạt động tâm lý đều hướng về Tịnh độ, mọi ước muốn đều được kích thích bằng sự nhàm chán đối với đời sống uế trược và bất an này. Nếu ta còn ham muốn vật chất, tình cảm, tư tưởng của cuộc đời này thì ước muốn vãng sanh không mạnh. Nghiệp liên kết với đời sống này không giảm thì Tịnh độ không hấp dẫn ta được, nên có chán Ta bà mới ước mong mãnh liệt về Tịnh độ được. Ðó cũng là lý do tại sao người lớn tuổi ưa tu Tịnh độ hơn là giới trẻ.

Biểu hiện của ước nguyện về Tịnh độ là mọi hành vi, lời nói và tâm ý đều phải thể hiện ước nguyện đó. Với lời nguyện mạnh mẽ từ bỏ uế độ vãng sanh Tịnh độ, mong có khả năng để cứu độ chúng sanh. Tâm nguyện như vậy mới tương ứng với tâm nguyện của Tịnh độ, mới có cảm ứng với Phật và Thánh chúng ở Cực lạc.

3- Hành trì (Hạnh): Khi tâm nguyện hướng về Tịnh độ thì mọi hành động, ngôn ngữ đều được tu tập liên tục, nghĩa là thực hành phương pháp niệm Phật, quán tưởng... đều đưa đến hợp nhất thân khẩu ý, không để cho các đối tượng của trần gian lôi kéo làm tâm bị tán loạn. Mọi công đức, thiện pháp ta có đều hồi hướng về Tịnh độ, thường thì hành giả thiết lập cho mình một thời khóa tu niệm, ví dụ như trong một ngày một đêm chia thành sáu thời khóa để tụng niệm, tạo cho mình tiêu chuẩn niệm bao nhiêu lần, nhờ hành trì mà hành giả có thể đắc định, thấy Phật và Thánh chúng cõi Cực lạc.


III. Phương pháp niệm Phật

Mục đích của pháp niệm Phật A Di Ðà là đưa đến nhất tâm, chế ngự mọi vọng tưởng của tâm. Niệm Phật là thực hành chánh niệm, như vậy về mặt bản chất, pháp môn niệm Phật không khác biệt với thiền quán, là cốt lõi của các pháp môn.

Phương pháp niệm Phật có bốn cách:

1- Trì danh niệm Phật: Niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, hoặc niệm thầm hoặc phát âm thanh.

2- Quán tượng niệm Phật: Niệm Phật và chăm chú nhìn vào tượng Phật, thấy rõ tướng tốt của Phật, hoặc tướng tốt của các Bồ tát và Thánh chúng.

3- Quán tưởng niệm Phật: Quán tưởng hình ảnh của Ðức Phật A Di Ðà cho đến khi thấy được linh ảnh của Ðức Phật. Pháp quán này khác với quán tượng là không sử dụng hình ảnh bên ngoài. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đề cập đến 16 pháp quán.

4- Thật tướng niệm Phật: Niệm Phật đạt đến chỗ vô niệm, không còn chủ thể và đối tượng. Pháp quán này mang sắc thái Thiền hơn là Tịnh độ cho nên không phổ biến được.

Phương pháp tu Tịnh độ được nhiều người chấp nhận và hành trì, nhất là Trì danh niệm Phật, ai thực hành cũng được, có thể niệm lớn tiếng gọi là Cao thanh trì, niệm thầm gọi là Mặc trì, mấp máy môi mà không ra tiếng gọi là Kim cang trì. Người xưa còn đưa ra 4 sắc thái niệm Phật: Hòa hoãn niệm là niệm từ từ không cần gấp, không nôn nóng, chỉ cần bền bỉ, có thể vừa làm việc vừa niệm Phật, không cần "tu mau kẻo trễ"; thứ hai là Truy đảnh niệm, là đưa câu niệm Phật nằm trên đỉnh cao của dòng tâm thức, nghĩa là niệm Phật luôn hiện tiền, không bị chi phối bởi công việc, quyết chí cao, ấn định thời gian và cần có kết quả rõ; thứ ba là Thiền định niệm, tức trụ tâm vào định rồi sử dụng tâm định ấy mà niệm Phật. Ðây là lối tu dựa trên cơ sở truyền thống nguyên thủy, khi tâm đạt định, hướng tâm ấy về tam minh, ở đây hành giả hướng tâm về cõi Tịnh độ và Ðức Phật A Di Ðà; thứ tư là Tham cứu niệm, là cách niệm Phật ảnh hưởng thiền công án, như nêu câu hỏi: Niệm Phật là gì? Sự nung nấu nghi tình đến đỉnh cao sẽ bùng vỡ ý thức và giác ngộ. Sắc thái này mang dấu ấn của Thiền hơn là của Tịnh độ.


C- Kết luận

Tịnh độ tông chú trọng vào niềm tin của cá nhân và sự cứu độ của Ðức Phật A Di Ðà. Pháp tu chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A Di Ðà và quán tưởng đến thế giới Cực lạc. Ðây là một tông phái được phổ biến rộng rãi nhất và cũng được nhiều tông phái khác phổ biến và hành trì. Pháp môn niệm Phật là con đường tu tập khá phù hợp với nhiều căn cơ khác nhau. Thực ra, pháp môn niệm Phật có từ thời Phật giáo Nguyên thủy, Ðức Phật dạy các đối tượng quán niệm trong đó niệm Phật là đứng đầu, vì đây là đối tượng dễ đưa tâm vào chánh niệm, trong Phật giáo Nguyên thủy, ý nghĩa về Phật lực đã được bao hàm trong pháp niệm Phật. Qua thời kỳ tiền Ðại thừa, luận sư Nagasena (Na Tiên Tỳ kheo) chủ trương thuyết cứu độ qua cuộc vấn đạo của vua Milinda (hoàng đế Hy Lạp). Vua cho rằng không thể chấp nhận được khi một người ác lại được cứu độ nếu y tin tưởng vào một vị Phật vào đêm trước ngày chết. Nagasena đáp: "Một hòn đá dầu nhỏ cách mấy vẫn chìm trong nước, nhưng một tảng đá vẫn nổi trên nước nếu đặt lên thuyền". Về sau, các luận sư Ðại thừa triển khai triệt để hơn về thuyết Phật cứu độ và qua kinh điển, Tịnh độ tông tiêu biểu rõ cho luận thuyết ấy.

Con đường giải thoát của đạo Phật căn bản là ở tâm, tức là nỗ lực cá nhân, pháp môn Tịnh độ vẫn không ngoài đường lối ấy, hòn đá lớn nhờ thuyền chở mà nổi trên nước, nhưng vận chuyển hòn đá ấy lên thuyền phải là công phu tự thân, để có được 10 niệm nhất tâm và sự cứu độ của Phật, hành giả phải có công phu tích lũy lớn, nghĩa là có một quá trình tu tập. Sau này, khi các tông phái khác phát triển đã ảnh hưởng đến tư tưởng Tịnh độ, nhất là tư tưởng Tịnh độ tại tâm như "Tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh độ" làm cho pháp môn Tịnh độ có tính tự lực nhiều hơn nhưng có lẽ đó không phải là bản ý của Tịnh độ tông.

Ðể kết luận, xin dẫn lời bàn về niệm Phật của nhà vua, Thiền sư Việt Nam thời Trần là Trần Thái Tông trong tác phẩm Khóa hư lục: "Người niệm Phật có ba bậc: bậc thượng trí thì tâm tức Phật chẳng nhờ tu chứng, thân Phật là thân ta không có hai tướng, tánh tướng không hai, tịch mà thường còn, còn mà chẳng biết. Ðó là hoạt Phật. Bậc trung trí phải nương vào niệm Phật, chú ý chuyên cần, niệm Phật không quên tự nhiên thuần thiện. Niệm thiện đã hiện niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu duy còn niệm thiện. Bởi niệm ý niệm niệm niệm tất diệt. Khi niệm đã diệt, ắt về chánh đạo. Tới khi mạng chung được vui Niết bàn. Bậc hạ trí thì miệng chuyên niệm lời Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng không thoái chuyển. Sau khi mạng chung thì nhờ thiện niệm đó được sinh sang nước Phật, nghe Phật nói pháp mà chứng đạo Bồ đề" (Khóa hư lục, HT. Thanh Kiểm dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992). Ngài kết luận ba hạng người trên đây sâu cạn khác nhau nhưng mục đích và kết quả là một, tuy nhiên bậc thượng trí nói thì dễ làm thì khó, bậc trung trí nếu chuyên cần nỗ lực sẽ thành tựu trong đời này nhưng nếu nghiệp nặng chưa dứt thì khó thành tựu, bậc hạ trí lối tu lấy niệm Phật làm nấc thang bước từng bước vững chắc được qua nước Phật rồi thì chí nguyện sẽ thành. Vậy muốn thành tựu cái siêu việt phải bắt đầu bằng cái đơn giản./.

-oOo-
5 điều kiện để được sinh về cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà

Tôi mơ cõi nước của Phật Di Đà


Tây Phương Cực Lạc Là Gì? Có Thật Hay Không?? - Bích Tọa Đàm


KHAI THỊ]: Khẳng Định Thế Giới Tây Phương Cực Lạc Là Có Thật, A Di Đà Phật  Là Có Thật.
 
Sửa lần cuối:
CÁC HỆ TAM TẠNG PHẬT GIÁO THẾ GIỚI

Kinh điển nguyên thủy của Phật Giáo được gọi là Tam Tạng. Qua nhiều thế hệ truyền thừa, trong cái gọi là Tam Tạng đó chắc chắn có những dị biệt quan trọng với những phần thêm thắt, cắt xén, hoặc bị gán cho những đánh giá khinh thị. Nhưng sao cũng mặc, điều tối quan trọng là tất cả chúng ta làm gì cũng vẫn phải nhận rằng dù ở dạng tinh khôi trong sáng hay vá víu tật nguyền đến mấy, bất cứ bộ Tam Tạng nào, của bất luận hệ phái Phật Giáo, đều đáng được trân trọng và nghiên cứu, dù chỉ là một lần để mắt ngó qua đại lược. Chuyện Gạn Đục Khơi Trong luôn thuộc về trí tuệ và sự bình tĩnh của mỗi cá nhân. Vận mệnh của Phật giáo, một phần tương lai văn hoá tâm linh của nhân loại và cả phúc phận của từng người học Phật đều nằm gọn trong con đường học đạo của chúng ta. Chúng tôi ở đây chỉ có thể làm mỗi công việc giới thiệu một thư tịch Phật Giáo. Vì Phật Giáo chính là Tam Tạng kinh điển, và Tam Tạng kinh điển chính là con đường duy nhất để chúng ta tìm về một trong những cội nguồn tâm linh u huyền và lợi lạc nhất của loài người.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tạm thời trưng dẫn nội dung tổng lược của ba bộ Đại Tạng vẫn được xem là căn bản, phổ cập và uy tín nhất trong giới học Phật toàn cầu : Tam Tạng Tây Tạng, Tam Tạng Hán Văn và Tam Tạng Pali.

I. TAM TẠNG TIẾNG TÂY TẠNG:

Phật giáo du nhập vào đất Tây Tạng từ thế kỷ thứ bảy dưới triều vua Tùng Tán Can Bố (Srongsen Gambo) qua hai cuộc hôn nhân của vua với công chúa Văn Thành (nhà Đường, Trung Hoa) và một công chúa Nepal, cả hai đều là những Phật tử. Vua Tùng Tán Can Bố cùng hai vị vua khác của Tây Tạng là vua Trisrong Detsen (thế kỷ thứ tám) và vua Ralpachen (thế kỷ thứ chín) đã lần lượt triệu thỉnh các bậc cao tăng thạc học thực hiện công trình phiên dịch kinh điển Phật giáo từ tiếng Sanskrit sang Tạng Ngữ, đồng thời tạo ra thứ tiếng Tây Tạng hoàn chỉnh còn dùng đến nay ở Tây Tạng, đặc biệt trong các công trình văn hoá. Trước sau, từ thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ thứ chín, số lượng dịch giả được huy động cho công trình phiên dịch kinh điển vĩ đại của Tây Tạng lên đến tám trăm năm mươi vị ( 475 vị đến từ Ấn Độ và 375 là người Tây Tạng). Điểm danh trong số đó, ta thấy ra những tên tuổi lừng lẫy như các ngài Atisa Dipankara, Santaraksita, Padmasambhava, Naropa,...
Toàn bộ Tam Tạng Tạng Ngữ được phân thành hai phần chính : Kanjur và Tanjur. Nội dung từng phần dĩ nhiên được sắp xếp theo lối phân loại có ẩn ý của các dịch giả. Sau đây là phần liệt kê :

A. KANJUR (BKANGJUR) :
- Luật Tạng (Vinaya) : Gồm 13 (mười ba) cuốn.
- Đại Kinh Bát Nhã (Prajnaparamita) : Gồm 21( hai mươi mốt) cuốn.
- Hoa Nghiêm (Avatamsaka) : Gồm 6 (sáu) cuốn.
- Bảo Tích ( Ratnakuta) : Gồm 6 (sáu )cuốn.

- Khế Kinh (Sutta) : Gồm ba mươi cuốn. Trong đây có 270 (hai trăm bảy mươi kinh), 75% thuộc kinh điển Bắc Truyền (Mahàyàna ) và 25% bị xem là kinh điển Nam Truyền (Hìnayàna).
- Mật Giáo Bộ (Tantra) : Gồm hai mươi hai cuốn chứa hơn 300 (ba trăm )kinh.

Theo số ấn bản của Narthang thì phần Kanjur này được in thành 98 (chín mươi tám) cuốn.

B. TANJUR (BSTAN-‘GYUR):

Nội dung chính của Tanjur gồm ba phần chính :
• Phần một, một cuốn Stotra gồm 64 (sáu mươi bốn) Tán Kinh.
• Phần hai, 86 (tám mươi sáu) cuốn Chú Sớ Mật Giáo Bộ (Tantra) gồm ba ngàn không trăm năm mươi lăm (3055) kinh.
• Phần ba là 137 (một trăm ba mươi bảy) cuốn chú giải cho cái gọi là Khế Kinh (Sutta) theo định nghĩa của Phật Giáo Tây Tạng, chứa năm trăm sáu mươi bảy kinh. Sau đây là phần chi tiết :

- Chú Sớ kinh Bát Nhã : Gồm mười sáu cuốn.
- Giảng luận Trung Quán (Madhyamaka) : Gồm mười bảy cuốn.
- Giảng luận Du Già (Yogàcàra) : Gồm hai mươi chín cuốn.
- Chú sớ A Tỳ Đàm (Abhidharma) : Gồm tám cuốn.
- Tạp Kinh : gồm bốn cuốn.
- Chú sớ Luật tạng (Vinaya) : Gồm mười sáu cuốn.
- Kịch Truyện Phật Giáo Tây Tạng : Gồm bốn cuốn.
- Luận Lý học Phật giáo : Gồm hai mươi mốt cuốn.
- Ngữ Pháp : một cuốn.
- Từ Điển học và Thi Pháp : Một cuốn.
- Y Học Tây Tạng : Năm cuốn.
- Hoá Học và Đan Thuật Tây Tạng : Một cuốn.
- Thư Tịch : Mười bốn cuốn.
Ngoài ra, tác phẩm của các bậc long tượng trong Phật giáo Tây Tạng như tôn giả Padmasambhava, Milarepa, Tson-Kha-Pa, Marpa, Naropa,... cũng đều được kể vào kho tàng kinh điển truyền thống.​
 
Nghe lạ vậy bạn.
Khái niệm này lần đầu mình nghe. Câu này lấy ở đâu vậy.
Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ Trí tuệ – Tuệ giác và đức tướng của Như Lai (Nhất thiết chúng sinh cụ hữu Như Lai trí huệ đức tướng)
Trí tuệ này từ "tự tánh" thanh tịnh bộc phát ra, ko phải tri thức học hỏi mà có đc. Đọc Kinh cũng là học hỏi mà thôi.
"Nhất tâm bất loạn" niệm Phật trong Tịnh độ cũng như "Minh tâm kiến tánh" trong Thiền tông.
Lục Tổ Huệ Năng khi Giác ngộ đã thốt lên "Nào ngờ tự tánh vốn đầy đủ"
 
Theo tôi hiểu thì vãng sanh về Tây Phương tịnh thổ để tu hành tiếp chứ có phải thành Phật ngay đâu nhỉ. Nếu vậy thì có thể coi Tịnh Thổ so với Ta-bà giống như ngôi chùa vắng lặng so với chợ đời ồn ào. Vào đó, về đó dễ tu hơn.

Một thời có câu châm chọc về mô hình học tập giảng dạy: “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Học Đại học tại chức có ngu hay không khoan bàn đến, theo luật giáo dục thì tốt nghiệp ĐH tại chức vẫn được học tiếp lên cao học bảo vệ luận văn Thạc sĩ như học ĐH chính quy.

Anh em nhiều chữ thì nghiên cứu kinh văn tam tạng. Người ít chữ hay mù chữ thì niệm phật cũng được chứ sao. Chẳng lẽ mù chữ không được tu hành à? Hoặc anh em thân thể toàn vẹn thì ngồi thiền, tôi cụt chân không ngồi được thì niệm phật cũng được chứ sao. Cụt không thành phật được à?

Càng kỳ thị lẫn nhau lại chẳng thấy đúng chút nào. Xin hãy thương xót, thấy hiểu, đồng cảm lẫn nhau 🙏
 
Theo tôi hiểu thì vãng sanh về Tây Phương tịnh thổ để tu hành tiếp chứ có phải thành Phật ngay đâu nhỉ. Nếu vậy thì có thể coi Tịnh Thổ so với Ta-bà giống như ngôi chùa vắng lặng so với chợ đời ồn ào. Vào đó, về đó dễ tu hơn.

Một thời có câu châm chọc về mô hình học tập giảng dạy: “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Học Đại học tại chức có ngu hay không khoan bàn đến, theo luật giáo dục thì tốt nghiệp ĐH tại chức vẫn được học tiếp lên cao học bảo vệ luận văn Thạc sĩ như học ĐH chính quy.

Anh em nhiều chữ thì nghiên cứu kinh văn tam tạng. Người ít chữ hay mù chữ thì niệm phật cũng được chứ sao. Chẳng lẽ mù chữ không được tu hành à? Hoặc anh em thân thể toàn vẹn thì ngồi thiền, tôi cụt chân không ngồi được thì niệm phật cũng được chứ sao. Cụt không thành phật được à?

Càng kỳ thị lẫn nhau lại chẳng thấy đúng chút nào. Xin hãy thương xót, thấy hiểu, đồng cảm lẫn nhau 🙏
Bạn hiểu hoàn toàn đúng. Tây phương Cực lạc là chiều không gian mà nếu ta đến đó quan trọng nhất là được kéo dài Thọ mạng để có thời gian tiếp tục tu học thành Phật.
Thọ mạng người nơi đó nhìn thọ mạng người trái đất ngắn như cái chớp mắt
Tây Phương cũng như một trường Đại học ở đó có các bạn học cùng cảnh giới, vùng chí hướng
 
Theo tôi hiểu thì vãng sanh về Tây Phương tịnh thổ để tu hành tiếp chứ có phải thành Phật ngay đâu nhỉ. Nếu vậy thì có thể coi Tịnh Thổ so với Ta-bà giống như ngôi chùa vắng lặng so với chợ đời ồn ào. Vào đó, về đó dễ tu hơn.

Một thời có câu châm chọc về mô hình học tập giảng dạy: “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Học Đại học tại chức có ngu hay không khoan bàn đến, theo luật giáo dục thì tốt nghiệp ĐH tại chức vẫn được học tiếp lên cao học bảo vệ luận văn Thạc sĩ như học ĐH chính quy.

Anh em nhiều chữ thì nghiên cứu kinh văn tam tạng. Người ít chữ hay mù chữ thì niệm phật cũng được chứ sao. Chẳng lẽ mù chữ không được tu hành à? Hoặc anh em thân thể toàn vẹn thì ngồi thiền, tôi cụt chân không ngồi được thì niệm phật cũng được chứ sao. Cụt không thành phật được à?

Càng kỳ thị lẫn nhau lại chẳng thấy đúng chút nào. Xin hãy thương xót, thấy hiểu, đồng cảm lẫn nhau 🙏
Tôi chỉ vì lòng thương tưởng đến chúng sinh 🙏🙏🙏

Xin hãy biết thêm về 4 Đế 🙏
 
Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ Trí tuệ – Tuệ giác và đức tướng của Như Lai (Nhất thiết chúng sinh cụ hữu Như Lai trí huệ đức tướng)
Trí tuệ này từ "tự tánh" thanh tịnh bộc phát ra, ko phải tri thức học hỏi mà có đc. Đọc Kinh cũng là học hỏi mà thôi.
"Nhất tâm bất loạn" niệm Phật trong Tịnh độ cũng như "Minh tâm kiến tánh" trong Thiền tông.
Lục Tổ Huệ Năng khi Giác ngộ đã thốt lên "Nào ngờ tự tánh vốn đầy đủ"
Vô ngã với tánh không thì còn tự tánh đầy đủ nào nữa?
 
Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ Trí tuệ – Tuệ giác và đức tướng của Như Lai (Nhất thiết chúng sinh cụ hữu Như Lai trí huệ đức tướng)
Trí tuệ này từ "tự tánh" thanh tịnh bộc phát ra, ko phải tri thức học hỏi mà có đc. Đọc Kinh cũng là học hỏi mà thôi.
"Nhất tâm bất loạn" niệm Phật trong Tịnh độ cũng như "Minh tâm kiến tánh" trong Thiền tông.
Lục Tổ Huệ Năng khi Giác ngộ đã thốt lên "Nào ngờ tự tánh vốn đầy đủ"
Tịnh Độ không phải là pháp môn tu tập sai, vì niệm Phật là một trong 40 đề mục thiền định như đã nói ở bên trên. Nhưng có được định tâm dù là bằng cách niệm hơi thở hay niệm Phật thì mới chỉ có Định, chứ chưa có Tuệ. Muốn trí tuệ được phát triển thì phải tiếp tục tu tập Thiền Tuệ (hay còn gọi là thiền quán, thiền vipassana).

Còn vì sao các tổ khuyến khích pháp môn này thì dễ hiểu nhất là nó phù hợp với nhiều người, nhất là căn cơ thấp kém của con người trong thời mạt pháp này. Có thể là một cầu nối để con người sau khi chết được tái sinh tới cõi trời nào đó thích hợp hơn cho việc tu tập thiền để giác ngộ giải thoát. Các tổ (cả Thiền cả Tịnh Độ) rất có thể tu tập ở một trình độ có khả năng hiểu được điều đó.

Còn bản thân những người như mình chọn tu tập thiền nguyên thủy vì cứ căn cứ theo kinh sách gốc Nikaya gần gũi với thời Đức Phật nhất, thì tu tập giác ngộ giải thoát là theo con đường Giới - Định - Tuệ có một hệ thống rõ ràng rành mạch tuần tự các bước, các việc phải làm để có thể tu tập đến được đích cuối cùng, tất nhiên không phải trong kiếp này thì cũng là duyên lành cho nhiều kiếp tới.
 
Một lộ trình khá khó và nhiều vấn đề giáo lý nhưng đáng quan tâm và tham khảo 🙏
——————
Câu Hỏi: Tại sao, sau khi đạt đến tứ thiền chúng ta không đi thẳng vào phân biệt ngũ uẩn, tính chất vô thường – khổ – vô ngã của chúng, để thành tựu Niết-bàn? Tại sao trước khi đắc Niết-bàn chúng ta cần phải hành thiền trên ba mươi hai thể trược, bộ xương, kasiṇa trắng, tứ đại, danh-sắc, duyên khởi và Vipassanā (minh sát)?

Trả Lời : Đức Phật dạy pháp hành Minh sát trên ngũ uẩn cho ba loại người: người có tuệ nhạy bén, người mà tuệ minh sát của họ về danh không được rõ rệt, và người thích hành Vipassanā (minh sát) theo cách tóm tắt.

Thế nào là năm uẩn? Thế nào là sự khác nhau giữa năm uẩn và Danh-sắc?

Trước khi trả lời câu hỏi thứ hai này, chúng ta hãy bàn qua về Danh-sắc và ngũ uẩn. Có bốn thực tại tuyệt đối hay pháp chân đế (paramattha), tâm (citta), tâm sở (cetasikā), sắc (rūpa) và Niết-bàn (Nibbāna).

Muốn đạt đến Niết-bàn, thực tại tuyệt đối thứ tư, chúng ta phải thấy được tính chất vô thường, khổ và vô ngã của ba thực tại kia, tức là, chúng ta phải thấy:

1. Tám mươi chín loại tâm
2. Năm mươi hai tâm sở
3. Hai mươi tám loại sắc.

Tám mươi chín loại tâm được gọi là thức uẩn (viññāṇakkhandha). Trong năm mươi hai tâm sở, thọ là thọ uẩn (vedanākkhandha); tưởng là tưởng uẩn (saññakkhandha); và năm mươi tâm sở còn lại là hành uẩn (saṅkharakkhandha). Có khi tâm (citta), và các tâm sở (cetasikā) hợp lại gọi là Danh (nāma). Có khi chúng lại được thấy dưới dạng bốn uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn, gộp lại tạo thành Danh uẩn (nāmakhandha). Sắc uẩn (rūpakkhandha) là hai mươi tám loại sắc. Tâm, tâm sở và sắc hợp lại gọi là Danh-sắc (nāmā rūpa). Đôi khi chúng cũng được gọi là ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Các nhân của chúng cũng chỉ là Danh-sắc.

Năm uẩn bị chấp thủ này là Khổ đế pháp (Dukkha sacca dhammā): các pháp (dhamma) thuộc về Khổ thánh đế. Chúng cần phải được hiểu là như vậy. Trong “Mahānidāna sutta” (Kinh Đại Duyên) thuộc Trường Bộ I, đức Phật giải thích:

“Giáo pháp Duyên khởi này thật là thâm sâu, này Ānanda, và thâm sâu thay là pháp Duyên khởi. Này Ānanda, chính do không hiểu biết, không thể nhập Dhamma (pháp) này, mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một tổ kén, rối ren như một ống chỉ, bùng nhùng như rễ lau đan bện, không thể tìm được lối thoát ra khỏi vòng luân hồi với những khổ xứ, ác thú… đọa xứ của nó.”

Liên quan đến lời tuyên bố này, các bản chú giải giải thích:

Không một người nào, ngay cả trong giấc mộng, thoát ra khỏi cái vòng tử sanh luân lưu đáng sợ, đã từng hủy diệt (các hữu tình) như sấm sét, trừ phi người ấy, bằng dao tuệ, khéo mài trên đá thiền định cao thượng, cắt đứt đựơc cái bánh xe Sanh Hữu (duyên khởi), vốn không đưa ra một cơ sở nào (để hiểu được), do sự thâm sâu quá mức của nó, và cũng khó chấp nhận do tính chất phức tạp của nhiều pháp môn.

Điều này có nghĩa là người hành thiền nếu không biết, không thể nhập pháp Duyên khởi qua những giai đoạn Minh Sát Tuệ khác nhau, thì không thể thoát khỏi vòng tái sanh luân hồi.

Trong Aṅguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh) điều này đã được đức Phật nói rõ: “Và thế nào, này các tỳ khưu, là Thánh đế về Tập khởi của Khổ?

Do vô minh làm duyên, (có) các hành; hành làm duyên, có thức; thức làm duyên, có danh sắc; danh sắc làm duyên, có lục nhập; lục nhập làm duyên có xúc; xúc làm duyên, có thọ; thọ làm duyên, có ái; ái làm duyên, có thủ; thủ làm duyên, có hữu; hữu làm duyên, có sanh; sanh làm duyên, có già – chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

Như vậy là nguồn gốc (tập khởi) của toàn bộ khổ uẩn này. Này các tỳ khưu, đây gọi là Thánh đế về nguồn gốc “tập khởi của Khổ.”

Đây cũng được gọi là pháp duyên khởi. Và đức Phật đã từng nói duyên khởi là Thánh đế về Nguốc gốc của Khổ (samudaya sacca).

Thánh đế về Khổ, là năm uẩn chấp thủ, và Thánh đế về Nguồn gốc của Khổ, tức pháp Duyên khởi, được gọi là các Hành (saṅkhārā). Chúng là đối tượng của tuệ Minh sát (vipassanā). Ở những giai đoạn khác nhau của tuệ minh sát, hành giả phải nắm bắt được các hành này là vô thường, khổ và vô ngã. Không biết và thể nhập chúng, làm thế nào hành giả có thể nắm bắt được chúng là vô thường v.v…? Đó là lý do tại sao chúng tôi phải dạy thiền Minh sát theo hệ thống.

Muốn biết sắc chân đế, sắc thủ uẩn, hành giả phải hành thiền tứ đại cho tới khi thấy được sắc ấy bao gồm những phần tử nhỏ mà chúng ta gọi là các nhóm hay tổng hợp sắc (rūpa kalapas), và hành giả cũng cần phải thấy được tứ đại trong các nhóm sắc nhỏ ấy nữa. Sau đó hành giả cần phân biệt cả hai: căn và đối tượng của nó cùng với nhau. Không phân biệt sắc theo cách này, hành giả không thể nào phân biệt được danh, bốn danh uẩn chấp thủ. Đó là lý do vì sao chúng tôi dạy Vipassanā theo từng giai đoạn.

Bây giờ, trả lời cho câu hỏi thứ hai của hành giả. Theo truyền thống Phật giáo Thượng Tọa Bộ (Theravāda), có hai loại đề tài thiền (kammaṭṭhāna) là: parihāriya kammaṭṭhāna và sabbatthaka kammaṭṭhāna.

Pārihāriya kammaṭṭhāna – Ứng dụng nghiệp xứ – là đề tài thiền mà cá nhân mỗi hành giả qua đó tu tập định để dùng làm nền tảng cho Minh sát . Hành giả phải luôn luôn sử dụng đề tài thiền này như nền tảng của mình. Còn Sabbatthaka kammaṭṭhāna – Nhất thiết xứ Nghiệp xứ – ngược lại, là đề tài thiền mà tất cả các hành giả đều phải tu tập giống nhau. Đó là bốn thiền bảo hộ.

1. Thiền tâm Từ (mettā bhāvanā)
2. Niệm ân đức Phật (Buddhānussati)
3. Niệm sự chết (maraṇānussati)
4. Quán bất tịnh (asubha bhāvanā)

Như vậy, mặc dù một hành giả sử dụng niệm hơi thở như “Ứng dụng nghiệp xứ” của mình, song vẫn phải thực hành bốn thiền bảo hộ này trước khi chuyển sang tu tập Minh sát. Đây là cách tiến hành theo đúng truyền thống đạo Phật.

Muốn tu tập thiền tâm từ cho đạt đến một bậc thiền nào đó, nếu hành giả đã tu tập thiền kasiṇa màu trắng đạt đến tứ thiền rồi vẫn tốt hơn. Câu chuyện về năm trăm vị tỳ khưu mà bài “Kinh Từ Bi” (karaṇīyametta sutta) đã được đức Phật dạy cho họ là một điển hình. Các vị tỳ khưu này rất thông thạo trong mười kasiṇa (đề mục biến xứ) và tám thiền chứng (samāpatti), đã hành Minh sát đạt đến Sanh diệt tuệ (udayabbaya ñāṇa), và cùng nhau đi vào rừng để hành thêm. Nhưng cuối cùng họ phải quay về với đức Phật vì các vị chư Thiên cư ngụ trong khu rừng ấy cảm thấy khó chịu trước sự có mặt của các vị tỳ khưu, và hiện ra những tướng quái dị để dọa dẫm các vị tỳ khưu này. Nhân đó đức Phật dạy họ bài kinh “Từ Bi” vừa như một đề tài thiền và vừa như một bài kinh cầu an (paritta).

Là một đề tài thiền, bài kinh này dành cho những vị đã đắc thiền tâm từ (mettā jhāna) và đã phá bỏ được các ranh giới giữa những loại người khác nhau. Nói chung, “Kinh Từ Bi” là một pháp hành về tâm từ đã được chuyên biệt hóa, trong đó hành giả thực hành lên đến tam thiền bằng cách mở rộng tâm từ đến mười một loại người với ý nghĩ “Sukhino v khemino hontu, sabbe sattā bhavantu sukhitattā” (Cầu mong tất cả chúng sanh được an ổn và hạnh phúc v.v…). Kinh nói rằng đức Phật biết năm trăm vị tỳ khưu này chắc chắn sẽ hành rất dễ, vì họ đã thành thạo trong mười kasiṇa. Và thiền tâm từ được hành dễ dàng hơn nhờ thiền kasiṇa như thế nào?

Trong Tăng Chi Kinh đức Phật nói rằng: trong bốn kasiṇa màu (xanh, vàng, đỏ, trắng), kasiṇa trắng là thù thắng nhất. Kasiṇa trắng làm cho tâm hành giả trong sáng rõ ràng. Một cái tâm trong sạch và tĩnh lặng như vậy rất cao thượng và đầy năng lực. Nếu hành giả hành thiền tâm từ với tâm trong sáng, không có những phiền não, thì thường thường sẽ đắc thiền tâm từ trong một thời ngồi thiền. Vì vậy nếu hành giả nhập tứ thiền kasiṇa trắng, sau đó xuất khỏi thiền ấy, và hành thiền tâm từ sẽ rất dễ thành công.

Để đạt đến tứ thiền kasiṇa trắng, người hành thiền trước tiên phải hành thiền bộ xương bên trong và bên ngoài. Vì như vậy sẽ làm cho thiền kasiṇa trắng trở nên dễ hơn. Do đó, sau tứ thiền hơi thở chúng tôi thường dạy các thiền sinh hành ba mươi hai thể trược, thiền bộ xương và thiền kasiṇa trắng. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, phần lớn các hành giả đều nói rằng: tứ thiền kasiṇa trắng tốt hơn tứ thiền hơi thở, vì nó tạo ra một cái tâm rõ ràng hơn, trong sáng hơn và tĩnh lặng hơn, được xem là rất hữu ích cho việc hành các đề tài thiền khác. Vì thế chúng tôi thường dạy thiền kasiṇa trắng trước khi thiền tâm từ.

Cũng có một vấn đề chung đối với những người mới hành thiền. Có thể hành giả đã hành thiền tâm từ rồi. Nhưng, hành giả đạt đến thiền (jhāna) chưa? Trong thực hành, nếu một hành giả muốn mở rộng tâm từ đến một người cùng phái nào đó, trước hết hành giả phải lấy khuôn mặt tươi cười của người ấy làm đối tượng, rồi tu tập tâm từ hướng về người ấy với ý nghĩ: “Cầu mong con người tốt đẹp này thoát khỏi sự khổ tâm v.v…”. Đối với hành giả sơ cơ, khuôn mặt tươi cười ấy chẳng bao lâu sẽ biến mất. Hành giả không thể nào tiếp tục thiền tâm từ của mình được, vì không có đối tượng, do đó mà hành giả không thể đắc thiền tâm từ hoặc một thiền nào khác.

Nếu hành giả dùng tứ thiền kasiṇa trắng, thì lại khác. Hành giả xuất khỏi thiền này, và khi tu tập tâm từ, lúc ấy nhờ có định đi trước nên khuôn mặt tươi cười (đối tượng) sẽ không biến mất. Hành giả có thể tập trung sâu vào hình ảnh đó, và có thể đắc đến tam thiền tâm từ trong một thời tọa thiền. Nếu hành giả hành có hệ thống và đạt đến chỗ phá bỏ được những ranh giới giữa các hạng người, thì thậm chí hành giả có thể hành được mười một cách rải tâm từ theo Kinh Từ Bi (Karaṇīyamettā sutta), và năm trăm hai mươi tám cách đề cập trong bộ “Luận Vô Ngại Giải Đạo” (Paṭisambhidā Magga). Cũng chính vì lý do này, chúng tôi thường thường dạy thiền kasiṇa trắng trước thiền tâm từ.

Hành giả cũng có thể đã hành pháp môn niệm Ân đức Phật (Buddhānussati). Song hành giả đã đắc cận định chưa? Khi người nào đã thành công trong thiền tâm từ rồi thực hành pháp môn tùy niệm Phật, họ có thể đạt đến cận định trong một thời ngồi thiền, ở đây cũng là do có định đi trước vậy. Quán bất tịnh (asubha) cũng sẽ trở nên dễ dàng. Nếu hành giả hành thiền (quán) bất tịnh đạt đến sơ thiền, rồi sau đó niệm sự chết (maraṇānussati), hành giả có thể thành công trong một thời ngồi thiền.

Đó là lý do tại sao chúng tôi dạy thiền kasiṇa trắng truớc bốn thiền bảo hộ. Tuy nhiên, nếu một hành giả muốn đi thẳng vào Minh sát (vipassanā), không hành bốn thiền Bảo hộ, họ có thể làm vậy, không có vấn đề gì cả.

Đại Lão Thiền Sư Pa Auk Sayadaw
 
Theo tôi hiểu thì vãng sanh về Tây Phương tịnh thổ để tu hành tiếp chứ có phải thành Phật ngay đâu nhỉ. Nếu vậy thì có thể coi Tịnh Thổ so với Ta-bà giống như ngôi chùa vắng lặng so với chợ đời ồn ào. Vào đó, về đó dễ tu hơn.

Một thời có câu châm chọc về mô hình học tập giảng dạy: “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Học Đại học tại chức có ngu hay không khoan bàn đến, theo luật giáo dục thì tốt nghiệp ĐH tại chức vẫn được học tiếp lên cao học bảo vệ luận văn Thạc sĩ như học ĐH chính quy.

Anh em nhiều chữ thì nghiên cứu kinh văn tam tạng. Người ít chữ hay mù chữ thì niệm phật cũng được chứ sao. Chẳng lẽ mù chữ không được tu hành à? Hoặc anh em thân thể toàn vẹn thì ngồi thiền, tôi cụt chân không ngồi được thì niệm phật cũng được chứ sao. Cụt không thành phật được à?

Càng kỳ thị lẫn nhau lại chẳng thấy đúng chút nào. Xin hãy thương xót, thấy hiểu, đồng cảm lẫn nhau 🙏
Kẻ trí lao tâm, kẻ ngu lao lực. Muốn lên thạc sĩ chân chính thì lượng kiến thức và kĩ năng cần có giữa người này với người kia chả khác j nhau cả. Bạn học tại chức thì phải cày cuốc hơn đám sinh viên chính quy chứ ko có nghĩa bạn học nhẹ hơn mà kết quả vẫn vậy.
 
Hành giả cũng có thể đã hành pháp môn niệm Ân đức Phật (Buddhānussati). Song hành giả đã đắc cận định chưa? Khi người nào đã thành công trong thiền tâm từ rồi thực hành pháp môn tùy niệm Phật, họ có thể đạt đến cận định trong một thời ngồi thiền, ở đây cũng là do có định đi trước vậy. Quán bất tịnh (asubha) cũng sẽ trở nên dễ dàng. Nếu hành giả hành thiền (quán) bất tịnh đạt đến sơ thiền, rồi sau đó niệm sự chết (maraṇānussati), hành giả có thể thành công trong một thời ngồi thiền.
 
Tịnh Độ không phải là pháp môn tu tập sai, vì niệm Phật là một trong 40 đề mục thiền định như đã nói ở bên trên. Nhưng có được định tâm dù là bằng cách niệm hơi thở hay niệm Phật thì mới chỉ có Định, chứ chưa có Tuệ. Muốn trí tuệ được phát triển thì phải tiếp tục tu tập Thiền Tuệ (hay còn gọi là thiền quán, thiền vipassana).

Còn vì sao các tổ khuyến khích pháp môn này thì dễ hiểu nhất là nó phù hợp với nhiều người, nhất là căn cơ thấp kém của con người trong thời mạt pháp này. Có thể là một cầu nối để con người sau khi chết được tái sinh tới cõi trời nào đó thích hợp hơn cho việc tu tập thiền để giác ngộ giải thoát. Các tổ (cả Thiền cả Tịnh Độ) rất có thể tu tập ở một trình độ có khả năng hiểu được điều đó.

Còn bản thân những người như mình chọn tu tập thiền nguyên thủy vì cứ căn cứ theo kinh sách gốc Nikaya gần gũi với thời Đức Phật nhất, thì tu tập giác ngộ giải thoát là theo con đường Giới - Định - Tuệ có một hệ thống rõ ràng rành mạch tuần tự các bước, các việc phải làm để có thể tu tập đến được đích cuối cùng, tất nhiên không phải trong kiếp này thì cũng là duyên lành cho nhiều kiếp tới.
Niệm Phật cũng chẳng lìa tự lực phải Giới Định Tuệ, ngoài ra còn có thêm tha lực của Tín Nguyện Hạnh, thật lợi ích chẳng gì bằng.
Một người khi bước vào cửa Thiền tông là bậc thượng căn, hay nói cách khác là thiên tài. Vì điều kiện mang theo phải là "Minh tâm kiến tánh". Nếu không chắc chắn lọt Ngũ thập ấm ma.
 
Vô ngã là ko có cái j tồn tại mà ko dựa vào cái khác, tánh không là vạn vật ko có tự tánh riêng. Nếu bạn có cao kiến j thì cho mình xin dc học hỏi.
Mình ko có cao kiến, chỉ là do bạn chỉ hiểu với thứ kiến giải nửa vời nên mình ko thể nói gì thêm.
 
@saigonvip nghĩ sao về Tây Phương Cực Lạc ?
Vũ trụ này gồm 31 cõi, chia làm 6 nẻo, không có cõi nào tên là Tây Phương Cực Lạc:

Từ thấp lên cao gồm có:

Dục giới: Những chúng sinh làm thiện hoặc làm ác tái sinh trong các cõi Dục giới
Địa ngục
Ngạ quỷ
Súc sinh
Atula
Người
6 cõi trời dục giới (Tứ thiên vương thiên, Đao ly thiên, Dạ ma thiên, Đâu suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên)

Sắc giới: Những chúng sinh chứng đắc 4 tầng thiền sắc giới là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền sẽ tái sinh vào 1 trong 16 cõi trời Sắc giới tùy theo tầng thiền chứng đắc.

16 cõi tự tra google nhé mấy thằng mày.

Vô sắc giới: Những chúng sinh chứng đắc 4 tầng thiền vô sắc giới là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ sẽ tái sinh vào 1 trong 4 cõi trời Vô sắc tùy theo tầng thiền chứng đắc.

Không Vô Biên Xứ Thiên
Thức Vô Biên Xứ Thiên
Vô Hữu Xứ Thiên
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên

Còn nếu nói theo mặt khoa học:

1/ Hiện nay, con người còn chưa đủ trình độ khoa học khám phá hệ mặt trời và ko có cơ sở để khẳng định trái đất là hành tinh duy nhất có sự sống trong hệ mặt trời

--> vậy nên việc có (những) hành tinh khác có sự sống trong hệ mặt trời, là hoàn toàn khả dĩ. Chưa kể vũ trụ rộng lớn, gồm bao nhiêu tỉ tỉ hệ mặt trời, thì việc còn những hành tinh khác có sự sống là điều gần như chắc chắn

2/ Tuy nhiên, những "Cõi" được miêu tả trong kinh phật chưa chắc là những hành tinh khác có sự sống, mà đó là những "cảnh giới tâm thức" khác với cảnh giới mà con người đang sống, thí dụ:

- Địa ngục: chắc chắn là ko phải dưới lòng đất --> có khoan đến tâm trái đất thì cũng ko thấy địa ngục đâu

- Cõi trời: chắc chắn ko phải trên 9 tầng mây --> tàu vũ trụ có bay xa hơn nữa cũng ko thấy cõi trời đâu

--> Tây Phương Cực Lạc của phật A Di Đà: không hẳn là sự sống ở 1 hành tinh nào đó nằm phía Tây

3/ Có lẽ bằng phương tiện vật chất (tàu Vũ Trụ), con người sẽ ko bao giờ khám phá nổi hệ mặt trời (chứ đừng nói vũ trụ) vì khoảng cách đều tính bằng "năm ánh sáng", mà vận tốc ánh sáng, cơ bản là thứ mà con người ko thể tiếp cận, dù là vài % của nó

Nhưng có 1 thứ mà có thể thật sự "dịch chuyển tức thời", dù khoảng cách có xa đến đâu, đó là Tâm Thức (còn gọi là Chủng Tử/ Linh Hồn). Tâm Thức có thể dịch chuyển đến bất kỳ đâu trong 1 sát na, nếu như Tâm Thức đó được tu tập (rèn luyện) để làm điều đó

4/ Vậy nên, cho dù Tây Phương Cực Lạc thật sự là sự sống ở 1 hành tinh nào đó, tương tự như Trái Đất, thì chắc chắn con người ko thể "bay" đến đó bằng Tàu Vũ Trụ, mà chỉ có thể bằng cách dịch chuyển Tâm Thức

Còn theo cách hiểu của t, thì đó là 1 cảnh giới của Tâm Thức

5/ Trong lịch sử, các đời vua chúa, tìm mọi cách trường sinh bất lão. Phép tu tiên, cũng hướng tới tồn tại vĩnh hằng (đỉnh cao là cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng)...

Nhưng nếu tin vào luân hồi, thì sẽ hiểu bản thân mỗi Tâm Thức (Chủng Tử/ Linh Hồn) đã là bất diệt, là tồn tại vĩnh hằng rồi... Và kinh Phật, đơn giản là bản hướng dẫn mỗi người tu tập (rèn luyện/ sửa sai) để luân hồi vào những cảnh giới tâm thức tốt đẹp hơn...
 
Vũ trụ này gồm 31 cõi, chia làm 6 nẻo, không có cõi nào tên là Tây Phương Cực Lạc:

Từ thấp lên cao gồm có:

Dục giới: Những chúng sinh làm thiện hoặc làm ác tái sinh trong các cõi Dục giới
Địa ngục
Ngạ quỷ
Súc sinh
Atula
Người
6 cõi trời dục giới (Tứ thiên vương thiên, Đao ly thiên, Dạ ma thiên, Đâu suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên)

Sắc giới: Những chúng sinh chứng đắc 4 tầng thiền sắc giới là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền sẽ tái sinh vào 1 trong 16 cõi trời Sắc giới tùy theo tầng thiền chứng đắc.

16 cõi tự tra google nhé mấy thằng mày.

Vô sắc giới: Những chúng sinh chứng đắc 4 tầng thiền vô sắc giới là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ sẽ tái sinh vào 1 trong 4 cõi trời Vô sắc tùy theo tầng thiền chứng đắc.

Không Vô Biên Xứ Thiên
Thức Vô Biên Xứ Thiên
Vô Hữu Xứ Thiên
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên

Còn nếu nói theo mặt khoa học:

1/ Hiện nay, con người còn chưa đủ trình độ khoa học khám phá hệ mặt trời và ko có cơ sở để khẳng định trái đất là hành tinh duy nhất có sự sống trong hệ mặt trời

--> vậy nên việc có (những) hành tinh khác có sự sống trong hệ mặt trời, là hoàn toàn khả dĩ. Chưa kể vũ trụ rộng lớn, gồm bao nhiêu tỉ tỉ hệ mặt trời, thì việc còn những hành tinh khác có sự sống là điều gần như chắc chắn

2/ Tuy nhiên, những "Cõi" được miêu tả trong kinh phật chưa chắc là những hành tinh khác có sự sống, mà đó là những "cảnh giới tâm thức" khác với cảnh giới mà con người đang sống, thí dụ:

- Địa ngục: chắc chắn là ko phải dưới lòng đất --> có khoan đến tâm trái đất thì cũng ko thấy địa ngục đâu

- Cõi trời: chắc chắn ko phải trên 9 tầng mây --> tàu vũ trụ có bay xa hơn nữa cũng ko thấy cõi trời đâu

--> Tây Phương Cực Lạc của phật A Di Đà: không hẳn là sự sống ở 1 hành tinh nào đó nằm phía Tây

3/ Có lẽ bằng phương tiện vật chất (tàu Vũ Trụ), con người sẽ ko bao giờ khám phá nổi hệ mặt trời (chứ đừng nói vũ trụ) vì khoảng cách đều tính bằng "năm ánh sáng", mà vận tốc ánh sáng, cơ bản là thứ mà con người ko thể tiếp cận, dù là vài % của nó

Nhưng có 1 thứ mà có thể thật sự "dịch chuyển tức thời", dù khoảng cách có xa đến đâu, đó là Tâm Thức (còn gọi là Chủng Tử/ Linh Hồn). Tâm Thức có thể dịch chuyển đến bất kỳ đâu trong 1 sát na, nếu như Tâm Thức đó được tu tập (rèn luyện) để làm điều đó

4/ Vậy nên, cho dù Tây Phương Cực Lạc thật sự là sự sống ở 1 hành tinh nào đó, tương tự như Trái Đất, thì chắc chắn con người ko thể "bay" đến đó bằng Tàu Vũ Trụ, mà chỉ có thể bằng cách dịch chuyển Tâm Thức

Còn theo cách hiểu của t, thì đó là 1 cảnh giới của Tâm Thức

5/ Trong lịch sử, các đời vua chúa, tìm mọi cách trường sinh bất lão. Phép tu tiên, cũng hướng tới tồn tại vĩnh hằng (đỉnh cao là cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng)...

Nhưng nếu tin vào luân hồi, thì sẽ hiểu bản thân mỗi Tâm Thức (Chủng Tử/ Linh Hồn) đã là bất diệt, là tồn tại vĩnh hằng rồi... Và kinh Phật, đơn giản là bản hướng dẫn mỗi người tu tập (rèn luyện/ sửa sai) để luân hồi vào những cảnh giới tâm thức tốt đẹp hơn...
Những thứ này là Dục, Sắc và Vô Sắc gọi chung là Tam giới. Mà Tây Phương lại ở ngoài Tam giới thì tìm sao đc.
HT Thích Giác Khang khi hiểu Pháp Tướng Duy Thức và đạt đến một cảnh giới thiền nhất định thì thừa nhận cõi Tây phương Cực lạc là có thật.
Còn bất kỳ một vị HT nào ở VN nếu phủ nhận Tây phương thì có thể họ giỏi hơn HT Giác Khang, thế thì cả Việt Nam chắc đều cung kính ngưỡng mộ
 
Những thứ này là Dục, Sắc và Vô Sắc gọi chung là Tam giới. Mà Tây Phương lại ở ngoài Tam giới thì tìm sao đc.
HT Thích Giác Khang khi hiểu Pháp Tướng Duy Thức và đạt đến một cảnh giới thiền nhất định thì thừa nhận cõi Tây phương Cực lạc là có thật.
Còn bất kỳ một vì HT nào ở VN nếu phủ nhận Tây phương thì có thể họ giỏi hơn HT Giác Khang, thế thì cả Việt Nam chắc đều cung kính ngưỡng mộ
Theo bạn thì HT Thích Giác Khang so với các vị Tam Tạng Pháp Sư thì như thế nào.
 
Mình ko có cao kiến, chỉ là do bạn chỉ hiểu với thứ kiến giải nửa vời nên mình ko thể nói gì thêm.
Bạn ko có kiến giải j hơn và phê phán là mình hiểu nửa vời?
Vũ trụ này gồm 31 cõi, chia làm 6 nẻo, không có cõi nào tên là Tây Phương Cực Lạc:

Từ thấp lên cao gồm có:

Dục giới: Những chúng sinh làm thiện hoặc làm ác tái sinh trong các cõi Dục giới
Địa ngục
Ngạ quỷ
Súc sinh
Atula
Người
6 cõi trời dục giới (Tứ thiên vương thiên, Đao ly thiên, Dạ ma thiên, Đâu suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên)

Sắc giới: Những chúng sinh chứng đắc 4 tầng thiền sắc giới là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền sẽ tái sinh vào 1 trong 16 cõi trời Sắc giới tùy theo tầng thiền chứng đắc.

16 cõi tự tra google nhé mấy thằng mày.

Vô sắc giới: Những chúng sinh chứng đắc 4 tầng thiền vô sắc giới là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ sẽ tái sinh vào 1 trong 4 cõi trời Vô sắc tùy theo tầng thiền chứng đắc.

Không Vô Biên Xứ Thiên
Thức Vô Biên Xứ Thiên
Vô Hữu Xứ Thiên
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên

Còn nếu nói theo mặt khoa học:

1/ Hiện nay, con người còn chưa đủ trình độ khoa học khám phá hệ mặt trời và ko có cơ sở để khẳng định trái đất là hành tinh duy nhất có sự sống trong hệ mặt trời

--> vậy nên việc có (những) hành tinh khác có sự sống trong hệ mặt trời, là hoàn toàn khả dĩ. Chưa kể vũ trụ rộng lớn, gồm bao nhiêu tỉ tỉ hệ mặt trời, thì việc còn những hành tinh khác có sự sống là điều gần như chắc chắn

2/ Tuy nhiên, những "Cõi" được miêu tả trong kinh phật chưa chắc là những hành tinh khác có sự sống, mà đó là những "cảnh giới tâm thức" khác với cảnh giới mà con người đang sống, thí dụ:

- Địa ngục: chắc chắn là ko phải dưới lòng đất --> có khoan đến tâm trái đất thì cũng ko thấy địa ngục đâu

- Cõi trời: chắc chắn ko phải trên 9 tầng mây --> tàu vũ trụ có bay xa hơn nữa cũng ko thấy cõi trời đâu

--> Tây Phương Cực Lạc của phật A Di Đà: không hẳn là sự sống ở 1 hành tinh nào đó nằm phía Tây

3/ Có lẽ bằng phương tiện vật chất (tàu Vũ Trụ), con người sẽ ko bao giờ khám phá nổi hệ mặt trời (chứ đừng nói vũ trụ) vì khoảng cách đều tính bằng "năm ánh sáng", mà vận tốc ánh sáng, cơ bản là thứ mà con người ko thể tiếp cận, dù là vài % của nó

Nhưng có 1 thứ mà có thể thật sự "dịch chuyển tức thời", dù khoảng cách có xa đến đâu, đó là Tâm Thức (còn gọi là Chủng Tử/ Linh Hồn). Tâm Thức có thể dịch chuyển đến bất kỳ đâu trong 1 sát na, nếu như Tâm Thức đó được tu tập (rèn luyện) để làm điều đó

4/ Vậy nên, cho dù Tây Phương Cực Lạc thật sự là sự sống ở 1 hành tinh nào đó, tương tự như Trái Đất, thì chắc chắn con người ko thể "bay" đến đó bằng Tàu Vũ Trụ, mà chỉ có thể bằng cách dịch chuyển Tâm Thức

Còn theo cách hiểu của t, thì đó là 1 cảnh giới của Tâm Thức

5/ Trong lịch sử, các đời vua chúa, tìm mọi cách trường sinh bất lão. Phép tu tiên, cũng hướng tới tồn tại vĩnh hằng (đỉnh cao là cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng)...

Nhưng nếu tin vào luân hồi, thì sẽ hiểu bản thân mỗi Tâm Thức (Chủng Tử/ Linh Hồn) đã là bất diệt, là tồn tại vĩnh hằng rồi... Và kinh Phật, đơn giản là bản hướng dẫn mỗi người tu tập (rèn luyện/ sửa sai) để luân hồi vào những cảnh giới tâm thức tốt đẹp hơn...
Ko có j là vĩnh hằng kể cả sự sống và cái chết. Bạn chết thì mọi thứ tan rã làm nhiên liệu cho sự sống mới, cái ta cũ chết đi và 1 cái ta mới sinh ra. Cả 2 cái ta đều chỉ là ảo giác.
 
Niệm Phật cũng chẳng lìa tự lực phải Giới Định Tuệ, ngoài ra còn có thêm tha lực của Tín Nguyện Hạnh, thật lợi ích chẳng gì bằng.
Một người khi bước vào cửa Thiền tông là bậc thượng căn, hay nói cách khác là thiên tài. Vì điều kiện mang theo phải là "Minh tâm kiến tánh". Nếu không chắc chắn lọt Ngũ thập ấm ma.
Thiền vipassana còn có tên khác là thiền quán, thiền tuệ, thiền tứ niệm xứ, thiền minh sát tuệ. Đây là thiền do Phật Thích Ca Mâu Ni (là người có thật trong lịch sử) tìm ra và giảng dạy cho chúng sinh để tu tập theo và được giác ngộ như ngài. Giác ngộ không phải như nhiều thằng vẫn nghĩ là ngộ ra điều gì đó, nhận ra điều gì đó đúng đắn, mà giác ngộ thực sự vi diệu hơn rất nhiều. Trong nhà Phật gọi là đạt đến Niết Bàn, đó là một trạng thái tâm được giải thoát khỏi khổ đau, không còn luân hồi sinh tử, có được niềm hạnh phúc vĩnh hằng không phụ thuộc vào những thứ bên ngoài như đa phần chúng mày vẫn thích thú như gái đẹp, nhà to, chức cao, tiền nhiều...

Còn 1 phương pháp thiền khác gọi là thiền định (có tên khác là thiền chỉ), loại này thì có từ trước khi Đức Phật ra đời, phổ biến rất nhiều ở Ấn Độ và cụ thể là các tu sĩ Bà La Môn ở Ấn Độ chủ yếu thực hành theo phương pháp này. Tất cả các thể loại thiền năng lượng, thiền mở luân xa, thiền tĩnh tâm hay vân vân mây mây cái gì đi nữa thì cũng biến tướng từ thiền định này mà ra. Thiền định chủ yếu tu tập hướng đến 1 đề mục cụ thể (ngày nay phổ biến nhất là hơi thở) để đạt được định tâm vững chắc, từ đó bước vào thiền tuệ ở bên trên một cách nhanh chóng gọn lẹ và có thể sớm đạt kết quả. Nhưng nếu chỉ tu thiền định đến mức siêu việt (giống như tu sĩ Ấn Độ ngày xưa vẫn làm) thì có khả năng đạt được một số siêu năng lực (trong nhà Phật gọi là thần thông, cái này là có thật, không đùa, bản chất nó chỉ là sự phóng đại của các giác quan để có được sự kết nối sâu sắc hơn với vạn vật trong vũ trụ, ví dụ chúng mày có thể nhìn xa hơn, nhắm mắt vào vẫn nhìn được gọi là thiên nhãn thông, hoặc tai chúng mày có thể nghe xa hơn, nghe các âm thanh ở các tần số mà bình thường con người không nghe được, thì gọi là thiên nhĩ thông... vân vân). Nhưng dù có tu thiền định đạt đỉnh cao như thế, hấp thụ năng lượng vũ trụ, đạt thần thông, khai mở luân xa (cái này thì không nên nhé, vì giống như chúng mày mở cửa cho thằng khác vào nhà, thì ma quỷ nó có thể dễ dàng nhập và điều khiển thân xác chúng mày nếu đủ duyên) thì rồi chúng mày vẫn chết đi vẫn tái sinh, gọi là luân hồi vô số kiếp, ba chìm bảy nổi trong lục đạo luân hồi, có kiếp làm người, có kiếp làm súc vật, có kiếp làm ma quỷ vất va vất vưởng chịu nhiều khổ đau. Bản thân chúng mày làm người bây giờ, được coi là cõi lành, nhưng 100% chúng mày đều có khổ đau từ bệnh tật, gia đình, công việc, vợ con, tiền bạc... Những thứ chúng mày muốn mà không có... vân vân...

Cho nên, chỉ có tu thiền định để có định tâm vững vàng, và tiếp tục tu thiền tuệ để được giác ngộ mới là cứu cánh cho chúng mày khỏi vòng lặp luân hồi khổ đau vô tận này.
 
Bạn ko có kiến giải j hơn và phê phán là mình hiểu nửa vời?

Ko có j là vĩnh hằng kể cả sự sống và cái chết. Bạn chết thì mọi thứ tan rã làm nhiên liệu cho sự sống mới, cái ta cũ chết đi và 1 cái ta mới sinh ra. Cả 2 cái ta đều chỉ là ảo giác.
Mình lười nói với bạn vì bạn chưa comment phần in đậm mình đã hiểu ý nghĩ bạn đang nghĩ những thứ đó nên ko muốn nói vì bạn đang rơi vào "đoạn kiến"
Thôi thì giờ cứ nói bạn hiểu đến đâu thì hiểu, ngắn gọn nè: Tự tánh ko sanh ko diệt, bất tử.
 
Mình lười nói với bạn vì bạn chưa comment phần in đậm mình đã hiểu ý nghĩ bạn đang nghĩ những thứ đó nên ko muốn nói vì bạn đang rơi vào "đoạn kiến"
Thôi thì giờ cứ nói bạn hiểu đến đâu thì hiểu, ngắn gọn nè: Tự tánh ko sanh ko diệt, bất tử.
Đó là thường kiến.
 
Bạn lại hiểu sai thường kiến dùng của xác thân và tự ngã
Đã là vô ngã rồi còn tự ngã gì nữa.
Bạn dựa vào đâu mà phán là điều đó là sai.

“Ái dục, ngã mạn và tà kiến khởi hiện do có sự chấp thủ trong sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nếu như không có sự chấp thủ trong 5 uẩn như sắc… thì ái dục, ngã mạn và tà kiến không sanh lên được. Điều này ví dụ giống như hình sắc được phản chiếu trong gương soi, nếu như không có gương soi thì hình sắc phản chiếu cũng không khởi hiện được nhóm 5 uẩn là pháp vô thường, khi 5 uẩn vô thường thì chúng ta nên xác định biết và hiểu rằng không có gì thường bất luận là sắc, thọ, tưởng, hành và thức trong quá khứ, hiện tại hoặc vị lai lẫn bên trong hoặc bên ngoài, thô hoặc tế, hạ liệt hoặc thù thắng, xa hoặc gần thì 5 uẩn không phải là của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta”.
 
Thiền vipassana còn có tên khác là thiền quán, thiền tuệ, thiền tứ niệm xứ, thiền minh sát tuệ. Đây là thiền do Phật Thích Ca Mâu Ni (là người có thật trong lịch sử) tìm ra và giảng dạy cho chúng sinh để tu tập theo và được giác ngộ như ngài. Giác ngộ không phải như nhiều thằng vẫn nghĩ là ngộ ra điều gì đó, nhận ra điều gì đó đúng đắn, mà giác ngộ thực sự vi diệu hơn rất nhiều. Trong nhà Phật gọi là đạt đến Niết Bàn, đó là một trạng thái tâm được giải thoát khỏi khổ đau, không còn luân hồi sinh tử, có được niềm hạnh phúc vĩnh hằng không phụ thuộc vào những thứ bên ngoài như đa phần chúng mày vẫn thích thú như gái đẹp, nhà to, chức cao, tiền nhiều...

Còn 1 phương pháp thiền khác gọi là thiền định (có tên khác là thiền chỉ), loại này thì có từ trước khi Đức Phật ra đời, phổ biến rất nhiều ở Ấn Độ và cụ thể là các tu sĩ Bà La Môn ở Ấn Độ chủ yếu thực hành theo phương pháp này. Tất cả các thể loại thiền năng lượng, thiền mở luân xa, thiền tĩnh tâm hay vân vân mây mây cái gì đi nữa thì cũng biến tướng từ thiền định này mà ra. Thiền định chủ yếu tu tập hướng đến 1 đề mục cụ thể (ngày nay phổ biến nhất là hơi thở) để đạt được định tâm vững chắc, từ đó bước vào thiền tuệ ở bên trên một cách nhanh chóng gọn lẹ và có thể sớm đạt kết quả. Nhưng nếu chỉ tu thiền định đến mức siêu việt (giống như tu sĩ Ấn Độ ngày xưa vẫn làm) thì có khả năng đạt được một số siêu năng lực (trong nhà Phật gọi là thần thông, cái này là có thật, không đùa, bản chất nó chỉ là sự phóng đại của các giác quan để có được sự kết nối sâu sắc hơn với vạn vật trong vũ trụ, ví dụ chúng mày có thể nhìn xa hơn, nhắm mắt vào vẫn nhìn được gọi là thiên nhãn thông, hoặc tai chúng mày có thể nghe xa hơn, nghe các âm thanh ở các tần số mà bình thường con người không nghe được, thì gọi là thiên nhĩ thông... vân vân). Nhưng dù có tu thiền định đạt đỉnh cao như thế, hấp thụ năng lượng vũ trụ, đạt thần thông, khai mở luân xa (cái này thì không nên nhé, vì giống như chúng mày mở cửa cho thằng khác vào nhà, thì ma quỷ nó có thể dễ dàng nhập và điều khiển thân xác chúng mày nếu đủ duyên) thì rồi chúng mày vẫn chết đi vẫn tái sinh, gọi là luân hồi vô số kiếp, ba chìm bảy nổi trong lục đạo luân hồi, có kiếp làm người, có kiếp làm súc vật, có kiếp làm ma quỷ vất va vất vưởng chịu nhiều khổ đau. Bản thân chúng mày làm người bây giờ, được coi là cõi lành, nhưng 100% chúng mày đều có khổ đau từ bệnh tật, gia đình, công việc, vợ con, tiền bạc... Những thứ chúng mày muốn mà không có... vân vân...

Cho nên, chỉ có tu thiền định để có định tâm vững vàng, và tiếp tục tu thiền tuệ để được giác ngộ mới là cứu cánh cho chúng mày khỏi vòng lặp luân hồi khổ đau vô tận này.
Sai rồi, vì nói "chỉ có" thì là duy nhất ah. Phật thuyết 8 vạn 4 nghìn Pháp môn nhiều lắm chứ đâu phải chỉ có vậy
 
Top