• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Giới thiệu về Tịnh Ðộ Tông

Giới thiệu về Tịnh Ðộ Tông​

Thích Viên Giác



A- Dẫn nhập

Tịnh độ là một trong những pháp môn tu tập phổ biến đối với người Phật tử tại nhiều nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam. Giáo nghĩa Tịnh độ tông thuộc hệ tư tưởng Ðại thừa và xuất hiện vào thời kỳ Phật giáo Phát triển.

Phật giáo Nguyên thủy chú trọng tự lực, Phật giáo Phát triển (Ðại thừa) đa dạng hóa đường lối tu tập nên có những pháp môn chú trọng tha lực, tức nhờ vào Phật lực mà thành tựu đạo quả hoặc vượt thoát khổ đau, lý tưởng như pháp môn Tịnh độ. Vì vậy, Tịnh độ là một đường lối tu tập phổ biến, đáp ứng nhu cầu tâm linh về một đời sống vĩnh cửu và hoàn toàn giải thoát khổ đau của con người.


B- Nội dung

I. Lịch sử và sự truyền thừa Tịnh độ tông

Lý thuyết Tịnh độ được phát triển ở Ấn Ðộ, là một đường lối tu tập nhưng không thiết lập tông phái, chỉ khi các kinh điển Tịnh độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh độ trở thành tông phái.

Phật giáo truyền vào Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ nhất cho đến đầu thế kỷ thứ hai nhưng những kinh luận thuộc giáo nghĩa Tịnh độ phải đến thế kỷ thứ ba mới xuất hiện. Vào thời Ngụy (250), ngài Khang Tăng Ngãi (Sanghavarman) dịch kinh Vô Lượng Thọ, cư sĩ Chí Khiếm (thời Tôn Quyền) dịch bộ Ðại A Di Ðà kinh. Ðến đời Diêu Tần (thế kỷ IV), ngài La Thập dịch Phật thuyết A Di Ðà kinh, còn gọi là tiểu kinh A Di Ðà, ngài Phật Ðà Bạt Ðà La (Giác Hiền) dịch Tân Vô Lượng Thọ kinh, Quán Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm dịch Tịnh độ tam muội. Thời Lưu Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas) dịch Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Bồ Ðề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô Lượng Thọ kinh luận. Ðặc biệt, ngài Thế Thân trước tác Vãng sinh Tịnh độ luận..., đến đây giáo nghĩa Tịnh độ tông tương đối hoàn chỉnh. Ba tác phẩm được coi là nền tảng của Tịnh độ tông là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Ðà, cộng thêm tác phẩm Vãng sinh Tịnh độ luận của Thế Thân. Mặc dù chỉ một vài bộ kinh triển khai giáo lý Tịnh độ, nhưng rất nhiều kinh luận trong hệ thống giáo lý Ðại thừa ca ngợi tư tưởng Tịnh độ, làm cho Tịnh độ tông trở nên phổ biến và nổi bật trong nền tư tưởng Phật học Trung Hoa.

Lịch sử truyền thừa của Tịnh độ tông không theo đường lối thông thường là người trước truyền cho người sau như các tông phái khác, mà chỉ căn cứ vào sự đóng góp nhiều ít công cuộc xiển dương giáo lý Tịnh độ.

Tịnh độ tông Trung Hoa, ngài Huệ Viễn (333-416) được coi là người sáng lập. Ngài quê ở Nhạn Môn, 21 tuổi xuất gia làm môn đệ của ngài Ðạo An. Ngài thông minh xuất chúng, được ngài Ðạo An khen ngợi. Vì hoàn cảnh loạn lạc, Ngài di cư xuống Tương Dương, sau đó trên đường hành đạo, Ngài đến Lô Sơn, thấy cảnh trí u tịch, phù hợp với chí nguyện tu hành, Ngài ở lại đó và thành lập chùa Ðông Lâm. Ngài chủ trương tu tập pháp môn niệm Phật, ẩn dật tu hành không màng thế sự..., nhất là quan hệ gần gũi với vua chúa. Ðể phản đối sắc lệnh của nhà vua về việc người xuất gia vào chầu phải lạy, Ngài viết bộ Sa môn bất bái vương giả luận. Năm 402, Ngài lập ra Hội Niệm Phật tại Lô Sơn, lấy tên là Bạch liên xã, đây là một hình thức tổ chức quần chúng tu tập, manh nha một đường lối tu Tịnh độ cho tứ chúng về sau. Tổ chức Bạch liên xã không phân biệt tại gia hay xuất gia, cách tu đơn giản là thành kính lễ bái và niệm hồng danh Ðức Phật A Di Ðà. Pháp tu của ngài Huệ Viễn đã tạo nên đường lối của Tịnh độ tông.

Ðến thế kỷ sau, ngài Ðàm Loan (476-542) tiếp nối xiển dương pháp môn Tịnh độ. Ngài cũng là người ở Nhạn Môn, tu học rất tinh cần, chuyên nghiên cứu chú giải kinh sách nhưng nửa chừng bị bệnh nặng, Ngài tìm thầy chữa bệnh, nhân đó gặp đạo sĩ Ðạo Hoằng Cảnh dạy cho tiên thuật và giao cho 10 cuốn tiên kinh. Trên đường về phương Bắc gặp được ngài Bồ Ðề Lưu Chi (Bodhiruci) trao cho Ngài những tác phẩm pháp môn Tịnh độ, căn cứ vào đó Ngài chuyên tu Tịnh độ. Ngài trước tác những bộ: Vãng sinh luận chú, Tán Phật A Di Ðà kệ... Ngài dạy chúng tu học và xiển dương giáo lý Tịnh độ, chú trọng yếu tố "Tín tâm niệm Phật", đây cũng là sắc thái khác của Tịnh độ tông.

Ngài Ðạo Xước (562-645) có nhân duyên với ngài Ðàm Loan dù sống cách nhau vài chục năm. Ngài đã tiếp nhận pháp môn Tịnh độ trong trường hợp đặc biệt. Ngài Ðạo Xước xuất gia năm 14 tuổi, chuyên nghiên cứu về Niết bàn tông, một hôm đến chùa Huyền Trung núi Thạch Bích, đọc bia đá ghi chép sự tích ngài Ðàm Loan thì lòng sinh cảm kích, Ngài quay sang tu Tịnh độ và thường giảng dạy Quán Vô Lượng Thọ kinh. Ngài nỗ lực giáo hóa dân chúng trong vùng tu Tịnh độ và là người chế ra tràng hạt để dạy cách trì danh niệm Phật. Ðối với nông dân, Ngài bày cách lấy hạt đậu đếm số niệm Phật gọi là "tiểu đậu niệm Phật". Ngài trước tác An lạc tập và một số tác phẩm khác, triển khai ý nghĩa tu dễ và tu khó để kết luận rằng tu Tịnh độ là dễ. Ngài biện minh ý nghĩa tha lực của Ðức Phật A Di Ðà làm cho mọi người đều thích thú pháp môn này. Ðệ tử của Ngài khá đông, xuất sắc gồm có Thiện Ðạo, Ðạo Phủ, Tăng Ðiền...

Ngài Thiện Ðạo (613-681) nối chí thầy mình xiển dương giáo lý Tịnh độ. Phật giáo đời Ðường rất hưng thịnh, Tịnh độ tông cũng phát triển mạnh mẽ, phần lớn nhờ công lao của Thiện Ðạo. Ngài là người ở Lâm Truy, khi xuất gia tìm thầy học đạo, Ngài gặp Ðạo Xước học pháp môn Tịnh độ. Sau khi thầy mất, Ngài về Trường An trụ trì chùa Quang Minh và chùa Từ Ân, giảng dạy và truyền bá pháp môn Tịnh độ. Ngài viết 10 vạn cuốn kinh A Di Ðà và vẽ 300 đồ hình tả cảnh Tịnh độ, làm cho thế giới Tịnh độ trở nên sống động và hiện thực trong tâm người tu nên họ theo rất đông. Ngài trước tác nhiều kinh sách như Quán Vô Lượng Thọ kinh sớ, Vãng sinh lễ tán, Quán niệm pháp môn, Ban châu tán. Ðường lối tu tập của Ngài được đời sau ca ngợi và trở thành một phương thức đặc trưng của Tịnh độ tông.

Ngài Từ Mẫn (680-748) là một hành giả Tịnh độ khá nổi tiếng vào đời Ðường, Ngài noi gương các vị tiền bối, lên đường "nhập Trúc cầu pháp". Ngài ra đi năm 702 (thời Võ Tắc Thiên), đến Bắc Thiên Trúc (Ấn Ðộ) gặp được hóa thân của Quán Thế Âm Bồ tát trao cho pháp môn Tịnh độ. Ngài ở Ấn Ðộ 18 năm mới về nước, được vua Huyền Tôn tặng danh hiệu "Từ Mẫn tam tạng". Ngài trước tác Vãng sinh Tịnh độ tập để truyền bá pháp môn Tịnh độ mà Ngài đã lãnh hội trên đất Ấn, trở thành một dòng tư tưởng Tịnh độ độc lập. Tuy nhiên, hệ thống của Ngài không hưng thịnh lâu.

Như vậy, hệ thống truyền thừa pháp môn Tịnh độ từ sơ khởi cho đến đời Ðường không tiếp nối đời này qua đời khác mà tùy thuận vào nhân duyên của mỗi hành giả. Bắt đầu từ đời Ðường mới có sự truyền thừa, và rõ nét nhất phải chờ đến đời Tống. Sau này, các học giả phân chia đường hướng tu tập của pháp môn Tịnh độ thành 4 hệ thống: Huệ Viễn chú trọng "Quán tưởng niệm Phật", Ðàm Loan chú trọng "Tín tâm niệm Phật", Thiện Ðạo chú trọng "Khẩu xưng niệm Phật", Từ Mẫn thiên về "Thiện căn niệm Phật".

Ðến đời Tống (960-1279), Phật giáo vẫn duy trì các hệ tư tưởng và truyền thống tu tập của các tông phái. Tịnh độ tông mặc dù vẫn duy trì truyền thống độc lập của mình, nhưng vẫn bị ảnh hưởng tác động của các hệ tư tưởng khác. Vào thời kỳ này, các tông phái nói chung đều có xu hướng dung hợp, ví dụ Thiên thai tông chủ trương kiêm tu Tịnh độ, đại biểu cho chủ trương này có ngài Tuân Thức, Từ Lễ, Trí Viên. Luật tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Nguyên Chiếu chủ trương. Thiền tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Diên Thọ chủ trương... cho nên sắc thái Tịnh độ muôn màu muôn vẻ. Những hội niệm Phật đua nhau xuất hiện, nổi bật là hội "Tịnh hạnh xã" của ngài Tĩnh Thường.

Ðời Minh (1360-1661), Tịnh độ tông được phát triển do các đại sư Vân Thê, Liên Trì, Trí Húc, nhất là hàng cư sĩ tu Tịnh độ phát triển mạnh phổ cập sâu rộng trong quần chúng. Ðến đời Thanh, tư tưởng Tịnh độ dung hợp trong mọi pháp môn, tông phái. Những đại sư xiển dương Tịnh độ có ngài Tĩnh An, Thực Hiền (1686-1734). Ngài Êẽn Quang ở cuối đời Thanh là một bậc cao đức truyền bá pháp môn Tịnh độ. Pháp môn Tịnh độ hưng khởi ở Trung Quốc, sau đó được truyền qua các nước Tây Tạng, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, được tiếp nhận nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ.


II. Giáo nghĩa Tịnh độ tông

Tịnh độ tông lấy 3 bộ kinh và 1 bộ luận làm nền tảng cho tư tưởng của mình: kinh "Vô Lượng Thọ" nói về tiền thân Ðức Phật A Di Ðà khi còn là Pháp Tạng Tỳ kheo đã phát nguyện 48 lời nguyện để cứu độ chúng sanh, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rõ phép quán tưởng niệm Phật, kinh A Di Ðà miêu tả thế giới Cực lạc đẹp đẽ trang nghiêm có Ðức Phật A Di Ðà đang thuyết pháp, và bộ luận Vãng sinh Tịnh độ của ngài Thế Thân tán thán và giảng về ý nghĩa của ba bộ kinh trên.

Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì giáo lý Tịnh độ đã được Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết cho hoàng hậu của nước Kosala là Videhi. Bà bị chính con trai bà giam lỏng và chán nản vô cùng trước cảnh thế thái nhân tình. Bà cầu mong Ðức Phật cứu giúp vượt qua nỗi khốn khổ này, Ðức Phật đã xuất hiện và giới thiệu các quốc độ chỉ có an lạc không có khổ đau, bà chọn cõi Phật A Di Ðà. Ðức Phật dạy bà phương pháp niệm danh hiệu Phật để được vãng sanh về cõi ấy. Trong kinh tạng Nguyên thủy không đề cập đến chi tiết ấy, có thể nói kinh tạng Nguyên thủy ít quan tâm đến yếu tố tha lực. Ðến thời kỳ đầu của Phật giáo Phát triển, ngài Nagasena đã đưa lý thuyết Phật cứu độ vào trong lý luận của mình, trở thành tiền đề cho tư tưởng Phật lực về sau.

Cực lạc thế giới, Hán dịch từ tiếng Phạn Sukhànatì, là nơi có hạnh phúc mà không có khổ đau. Cõi giới này do Ðức Phật A Di Ðà giáo hóa. Có thể nói thế giới Cực lạc là một khái niệm khác của Niết bàn, vì Niết bàn (Nirvana) có nghĩa là dập tắt mọi phiền não khổ đau. Trong ý nghĩa hẹp hơn thì đó là một thế giới hiện thực ở phương Tây, khác với thế giới Ta bà đầy đau khổ này mà kinh A Di Ðà gọi là "ngũ trược ác thế".

Thế giới Cực lạc có những ưu điểm tiêu biểu như không có ô uế, không có phiền não, thọ mạng lâu dài, ăn uống tự có, có các thần thông... Ðất nước rất đẹp được cấu tạo bằng các chất quý báu như vàng, ngọc, lưu ly...; cây cối, ao hồ, cung điện, đường sá đều bằng các thứ báu, có ca nhạc như âm nhạc cõi trời, các loài chim hót ca như thuyết pháp... Tóm lại, đó là một thế giới lý tưởng, là môi trường tốt cho sự tu hành và đạt được hạnh phúc tối thượng.

Ðức Phật A Di Ðà là vị giáo chủ của thế giới Cực lạc. A Di Ðà là danh từ dịch âm của Amitàbha, dịch nghĩa là Vô lượng quang, còn Amitàyus là Vô lượng thọ. Vô lượng quang chỉ cho ánh sáng vô lượng, biểu tượng cho trí tuệ viên mãn hay cho Pháp thân (Dharma-kàya). Vô lượng thọ chỉ cho đời sống vĩnh cửu, biểu tượng của đại định hay còn gọi là Giải thoát thân (Vinuktikàya). Với ý nghĩa danh hiệu như vậy, Ðức Phật A Di Ðà tượng trưng cho sự sống vĩnh cửu và giải thoát hoàn toàn khổ đau, đó là mục đích cao cả và hấp dẫn đối với con người ở mọi thời đại.

Theo kinh Vô Lượng Thọ thì Ðức Phật A Di Ðà từng là một nhà vua. Sau khi ngộ đạo, Ngài phát tâm xuất gia và trở thành vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng (Dharmàkara). Ngài quyết tâm tu hành thành Phật và phát nguyện độ hết chúng sanh trong cõi Cực lạc của mình. Ngài lập 48 lời nguyện giúp chúng sanh giải thoát. Những nguyện quan trọng là nguyện thứ 18: "Ví con được thành Phật, mười phương chúng sanh muốn sanh về cõi nước con mà chí tâm tin mến niệm từ một niệm cho đến mười niệm, nếu không được sinh thì con không thành bậc Chánh giác. Chỉ trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp". Nguyện thứ 19: "Ví con được thành Phật, mười phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện muốn sanh về cõi nước con, đến lúc mạng chung, ví con chẳng cùng đại chúng vây quanh hiện thân trước người đó, thì con không thành bậc Chánh giác". Nguyện thứ 20: "Ví con được thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con, nhớ nghĩ quốc độ con, vun trồng các công đức, rồi dốc lòng hồi hướng muốn sanh về cõi nước con, nếu không được toại nguyện thì con không thành bậc Chánh giác" (Kinh Vô Lượng Thọ, Chân Thường dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992).

Qua nội dung 48 lời nguyện cho thấy con đường tu tập Tịnh độ dựa vào nguyện lực của Ðức Phật A Di Ðà và nhất tâm niệm Phật là con đường tu dễ nhất, đó là lý do tại sao Tịnh độ tông được truyền bá rộng rãi nhất.

Con đường tu tập của pháp môn Tịnh độ dựa trên ba nguyên tắc:

1- Niềm tin (Tín): Ðây là điều kiện tiên quyết, không có niềm tin hay niềm tin không đủ mạnh thì không thể tu Tịnh độ được. Sự tin tưởng là nền tảng khởi lên ước muốn và hướng tâm về thế giới Cực lạc. Như tất cả các pháp môn khác, niềm tin là mẹ của các thiện pháp và phát sinh công đức.

Niềm tin của hành giả Tịnh độ rất rõ, tin rằng Ðức Phật A Di Ðà và thế giới Cực lạc là có thực, Ðức Phật và Thánh chúng luôn sẵn sàng tiếp độ chúng ta, chỉ cần chuyên tâm tin tưởng và niệm Phật quyết chí vãng sanh thì chắc chắn được vãng sanh. Vì vậy, các kinh sách Tịnh độ và các hành giả Tịnh độ thường nói xác quyết chứ không có thái độ lưỡng lự, phân hai.

2- Nguyện lực hay tâm mong muốn (Nguyện): Niềm tin ổn định sẽ đưa đến ước muốn vãng sanh gọi là ước nguyện. Mọi hoạt động tâm lý đều hướng về Tịnh độ, mọi ước muốn đều được kích thích bằng sự nhàm chán đối với đời sống uế trược và bất an này. Nếu ta còn ham muốn vật chất, tình cảm, tư tưởng của cuộc đời này thì ước muốn vãng sanh không mạnh. Nghiệp liên kết với đời sống này không giảm thì Tịnh độ không hấp dẫn ta được, nên có chán Ta bà mới ước mong mãnh liệt về Tịnh độ được. Ðó cũng là lý do tại sao người lớn tuổi ưa tu Tịnh độ hơn là giới trẻ.

Biểu hiện của ước nguyện về Tịnh độ là mọi hành vi, lời nói và tâm ý đều phải thể hiện ước nguyện đó. Với lời nguyện mạnh mẽ từ bỏ uế độ vãng sanh Tịnh độ, mong có khả năng để cứu độ chúng sanh. Tâm nguyện như vậy mới tương ứng với tâm nguyện của Tịnh độ, mới có cảm ứng với Phật và Thánh chúng ở Cực lạc.

3- Hành trì (Hạnh): Khi tâm nguyện hướng về Tịnh độ thì mọi hành động, ngôn ngữ đều được tu tập liên tục, nghĩa là thực hành phương pháp niệm Phật, quán tưởng... đều đưa đến hợp nhất thân khẩu ý, không để cho các đối tượng của trần gian lôi kéo làm tâm bị tán loạn. Mọi công đức, thiện pháp ta có đều hồi hướng về Tịnh độ, thường thì hành giả thiết lập cho mình một thời khóa tu niệm, ví dụ như trong một ngày một đêm chia thành sáu thời khóa để tụng niệm, tạo cho mình tiêu chuẩn niệm bao nhiêu lần, nhờ hành trì mà hành giả có thể đắc định, thấy Phật và Thánh chúng cõi Cực lạc.


III. Phương pháp niệm Phật

Mục đích của pháp niệm Phật A Di Ðà là đưa đến nhất tâm, chế ngự mọi vọng tưởng của tâm. Niệm Phật là thực hành chánh niệm, như vậy về mặt bản chất, pháp môn niệm Phật không khác biệt với thiền quán, là cốt lõi của các pháp môn.

Phương pháp niệm Phật có bốn cách:

1- Trì danh niệm Phật: Niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, hoặc niệm thầm hoặc phát âm thanh.

2- Quán tượng niệm Phật: Niệm Phật và chăm chú nhìn vào tượng Phật, thấy rõ tướng tốt của Phật, hoặc tướng tốt của các Bồ tát và Thánh chúng.

3- Quán tưởng niệm Phật: Quán tưởng hình ảnh của Ðức Phật A Di Ðà cho đến khi thấy được linh ảnh của Ðức Phật. Pháp quán này khác với quán tượng là không sử dụng hình ảnh bên ngoài. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đề cập đến 16 pháp quán.

4- Thật tướng niệm Phật: Niệm Phật đạt đến chỗ vô niệm, không còn chủ thể và đối tượng. Pháp quán này mang sắc thái Thiền hơn là Tịnh độ cho nên không phổ biến được.

Phương pháp tu Tịnh độ được nhiều người chấp nhận và hành trì, nhất là Trì danh niệm Phật, ai thực hành cũng được, có thể niệm lớn tiếng gọi là Cao thanh trì, niệm thầm gọi là Mặc trì, mấp máy môi mà không ra tiếng gọi là Kim cang trì. Người xưa còn đưa ra 4 sắc thái niệm Phật: Hòa hoãn niệm là niệm từ từ không cần gấp, không nôn nóng, chỉ cần bền bỉ, có thể vừa làm việc vừa niệm Phật, không cần "tu mau kẻo trễ"; thứ hai là Truy đảnh niệm, là đưa câu niệm Phật nằm trên đỉnh cao của dòng tâm thức, nghĩa là niệm Phật luôn hiện tiền, không bị chi phối bởi công việc, quyết chí cao, ấn định thời gian và cần có kết quả rõ; thứ ba là Thiền định niệm, tức trụ tâm vào định rồi sử dụng tâm định ấy mà niệm Phật. Ðây là lối tu dựa trên cơ sở truyền thống nguyên thủy, khi tâm đạt định, hướng tâm ấy về tam minh, ở đây hành giả hướng tâm về cõi Tịnh độ và Ðức Phật A Di Ðà; thứ tư là Tham cứu niệm, là cách niệm Phật ảnh hưởng thiền công án, như nêu câu hỏi: Niệm Phật là gì? Sự nung nấu nghi tình đến đỉnh cao sẽ bùng vỡ ý thức và giác ngộ. Sắc thái này mang dấu ấn của Thiền hơn là của Tịnh độ.


C- Kết luận

Tịnh độ tông chú trọng vào niềm tin của cá nhân và sự cứu độ của Ðức Phật A Di Ðà. Pháp tu chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A Di Ðà và quán tưởng đến thế giới Cực lạc. Ðây là một tông phái được phổ biến rộng rãi nhất và cũng được nhiều tông phái khác phổ biến và hành trì. Pháp môn niệm Phật là con đường tu tập khá phù hợp với nhiều căn cơ khác nhau. Thực ra, pháp môn niệm Phật có từ thời Phật giáo Nguyên thủy, Ðức Phật dạy các đối tượng quán niệm trong đó niệm Phật là đứng đầu, vì đây là đối tượng dễ đưa tâm vào chánh niệm, trong Phật giáo Nguyên thủy, ý nghĩa về Phật lực đã được bao hàm trong pháp niệm Phật. Qua thời kỳ tiền Ðại thừa, luận sư Nagasena (Na Tiên Tỳ kheo) chủ trương thuyết cứu độ qua cuộc vấn đạo của vua Milinda (hoàng đế Hy Lạp). Vua cho rằng không thể chấp nhận được khi một người ác lại được cứu độ nếu y tin tưởng vào một vị Phật vào đêm trước ngày chết. Nagasena đáp: "Một hòn đá dầu nhỏ cách mấy vẫn chìm trong nước, nhưng một tảng đá vẫn nổi trên nước nếu đặt lên thuyền". Về sau, các luận sư Ðại thừa triển khai triệt để hơn về thuyết Phật cứu độ và qua kinh điển, Tịnh độ tông tiêu biểu rõ cho luận thuyết ấy.

Con đường giải thoát của đạo Phật căn bản là ở tâm, tức là nỗ lực cá nhân, pháp môn Tịnh độ vẫn không ngoài đường lối ấy, hòn đá lớn nhờ thuyền chở mà nổi trên nước, nhưng vận chuyển hòn đá ấy lên thuyền phải là công phu tự thân, để có được 10 niệm nhất tâm và sự cứu độ của Phật, hành giả phải có công phu tích lũy lớn, nghĩa là có một quá trình tu tập. Sau này, khi các tông phái khác phát triển đã ảnh hưởng đến tư tưởng Tịnh độ, nhất là tư tưởng Tịnh độ tại tâm như "Tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh độ" làm cho pháp môn Tịnh độ có tính tự lực nhiều hơn nhưng có lẽ đó không phải là bản ý của Tịnh độ tông.

Ðể kết luận, xin dẫn lời bàn về niệm Phật của nhà vua, Thiền sư Việt Nam thời Trần là Trần Thái Tông trong tác phẩm Khóa hư lục: "Người niệm Phật có ba bậc: bậc thượng trí thì tâm tức Phật chẳng nhờ tu chứng, thân Phật là thân ta không có hai tướng, tánh tướng không hai, tịch mà thường còn, còn mà chẳng biết. Ðó là hoạt Phật. Bậc trung trí phải nương vào niệm Phật, chú ý chuyên cần, niệm Phật không quên tự nhiên thuần thiện. Niệm thiện đã hiện niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu duy còn niệm thiện. Bởi niệm ý niệm niệm niệm tất diệt. Khi niệm đã diệt, ắt về chánh đạo. Tới khi mạng chung được vui Niết bàn. Bậc hạ trí thì miệng chuyên niệm lời Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng không thoái chuyển. Sau khi mạng chung thì nhờ thiện niệm đó được sinh sang nước Phật, nghe Phật nói pháp mà chứng đạo Bồ đề" (Khóa hư lục, HT. Thanh Kiểm dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992). Ngài kết luận ba hạng người trên đây sâu cạn khác nhau nhưng mục đích và kết quả là một, tuy nhiên bậc thượng trí nói thì dễ làm thì khó, bậc trung trí nếu chuyên cần nỗ lực sẽ thành tựu trong đời này nhưng nếu nghiệp nặng chưa dứt thì khó thành tựu, bậc hạ trí lối tu lấy niệm Phật làm nấc thang bước từng bước vững chắc được qua nước Phật rồi thì chí nguyện sẽ thành. Vậy muốn thành tựu cái siêu việt phải bắt đầu bằng cái đơn giản./.

-oOo-
5 điều kiện để được sinh về cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà

Tôi mơ cõi nước của Phật Di Đà


Tây Phương Cực Lạc Là Gì? Có Thật Hay Không?? - Bích Tọa Đàm


KHAI THỊ]: Khẳng Định Thế Giới Tây Phương Cực Lạc Là Có Thật, A Di Đà Phật  Là Có Thật.
 
Sửa lần cuối:
Đã là vô ngã rồi còn tự ngã gì nữa.
Bạn dựa vào đâu mà phán là điều đó là sai.

“Ái dục, ngã mạn và tà kiến khởi hiện do có sự chấp thủ trong sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nếu như không có sự chấp thủ trong 5 uẩn như sắc… thì ái dục, ngã mạn và tà kiến không sanh lên được. Điều này ví dụ giống như hình sắc được phản chiếu trong gương soi, nếu như không có gương soi thì hình sắc phản chiếu cũng không khởi hiện được nhóm 5 uẩn là pháp vô thường, khi 5 uẩn vô thường thì chúng ta nên xác định biết và hiểu rằng không có gì thường bất luận là sắc, thọ, tưởng, hành và thức trong quá khứ, hiện tại hoặc vị lai lẫn bên trong hoặc bên ngoài, thô hoặc tế, hạ liệt hoặc thù thắng, xa hoặc gần thì 5 uẩn không phải là của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta”.
Bạn trích dẫn ko sai, nhưng bạn đang hiểu sai về Tự tánh và Tự ngã. Hình thành nên thứ kiến giải nửa vời trong suy nghĩ của bạn
 
Google là ra, khuya rồi mình lười viết
Ý của bạn là vầy.
—————-

Tự tánh là danh từ nhà Phật gọi bản tánh thật của mỗi người chúng ta, còn được gọi là tánh, chân tâm, tâm nguyên thủy, bản lai diện mục, Phật tánh… Huệ Năng nói: “Chỉ cần kiến [tự] tánh, không cần thiền định giải thoát.” Tức là nếu ta thấy được tự tánh của ta, thì ta thành Phật, mà không cần gì khác.

Tự ngã (Ego) là chỉ bộ phận kết cấu của ý thức, nó đến từ bản ngã và từ các ảnh tượng thế giới bên ngoài mà hình thành nên hệ thống tri giác, nó đại biểu cho lý tánh và cơ trí. Ngoài ra nó còn tiếp nhận cái “nguyên tắc hiện thực” giữa bản ngã và siêu ngã, giám sát bản ngã và đưa đến những thỏa mãn thích đáng.
 
Ý của bạn là vầy.
—————-

Tự tánh là danh từ nhà Phật gọi bản tánh thật của mỗi người chúng ta, còn được gọi là tánh, chân tâm, tâm nguyên thủy, bản lai diện mục, Phật tánh… Huệ Năng nói: “Chỉ cần kiến [tự] tánh, không cần thiền định giải thoát.” Tức là nếu ta thấy được tự tánh của ta, thì ta thành Phật, mà không cần gì khác.

Tự tánh là danh từ nhà Phật gọi bản tánh thật của mỗi người chúng ta, còn được gọi là tánh, chân tâm, tâm nguyên thủy, bản lai diện mục, Phật tánh… Huệ Năng nói: “Chỉ cần kiến [tự] tánh, không cần thiền định giải thoát.” Tức là nếu ta thấy được tự tánh của ta, thì ta thành Phật, mà không cần gì khác.
Ý mình ko chỉ như vậy, mà còn nhiều hơn. Nhưng căn tánh của chúng sanh là khác biệt nên ko thể diễn tả nhiều. Bạn và mình cũng nên tùy duyên ...mà đi ngủ. 2h đêm rồi =))
 
Ý mình ko chỉ như vậy, mà còn nhiều hơn. Nhưng căn tánh của chúng sanh là khác biệt nên ko thể diễn tả nhiều. Bạn và mình cũng nên tùy duyên ...mà đi ngủ. 2h đêm rồi =))
Tôi thấy bạn nãy h toàn nói lung tung không theo chánh pháp nào cả. Hễ ai đưa ra dẫn chứng gì đó vượt quá tầm hiểu biết của bạn thì bạn chụp mũ là khác suy nghĩ với bạn. Khi người ta đưa ra dẫn chứng theo chánh pháp để phản biện lại các comment của bạn thì bạn lại đem những điều không ai hiểu, không ai chứng thực, không ai xác minh ra để chứng tỏ người ta sai và bạn đúng. Và khi bạn sai thì bạn tìm cách vòng vo tránh né không nhận mình sai. Mục đích bạn làm vậy để làm gì ?
 
Ý mình ko chỉ như vậy, mà còn nhiều hơn. Nhưng căn tánh của chúng sanh là khác biệt nên ko thể diễn tả nhiều. Bạn và mình cũng nên tùy duyên ...mà đi ngủ. 2h đêm rồi =))
Okay, vậy ngày mai giải đáp câu này nhé:

- Do nhân gì duyên gì có tự tánh, tự ngã. Liệu chúng có vô thường, vô ngã không

- Vì sao căn tánh chúng sanh khác biệt.
 

Vô ngã

Đối với người không hiểu sự chết, cuộc sống chứa đựng nhiều rắc rối. Nếu thân thể ta thực sự là của ta, nó hẳn đã nghe theo mệnh lệnh mà ta đưa ra. Khi ta bảo, “Đừng có già” hay “Ta cấm ngươi không được đau,” nó có nghe lời ta không? Không, nó chẳng thèm để ý đến. Ta chỉ là người thuê căn nhà này, chứ không phải chủ nhà. Nếu nghĩ rằng căn nhà này thuộc về ta, ta sẽ đau khổ khi phải rời bỏ nó. Nhưng thực ra chẳng có gì gọi là ta, chẳng có cái gì gọi là bản ngã thường tồn. Không có gì vững chắc, bất biến mà chúng ta có thể nắm giữ được.

Đức Phật phân biệt cho chúng ta thấy rõ hai loại chân lý — chân lý rốt ráo và chân lý ước định. Ý niệm về một cái ngã chỉ là một khái niệm, một ước định. Người Mỹ, người Thái, thầy giáo, học sinh, tất cả chỉ là sự chế định mà thôi. Một cách rốt ráo thì chẳng có gì cả. Chúng chỉ là đất, nước, gió, lửa — những yếu tố tạm thời kết hợp lại với nhau.

Chúng ta gọi cái cơ thể này là ta, nhưng một cách rốt ráo, chẳng có gì là ta cả, chỉ có “ANATTA,” vô ngã mà thôi. Muốn biết rõ sự vô ngã, bạn phải hành thiền. Nếu bạn chỉ suy tư tìm hiểu, đầu bạn sẽ nổ tung. Một khi bạn hiểu rõ vô ngã, tức khắc gánh nặng của cuộc sống sẽ được nhấc đi. Đời sống của gia đình bạn, công việc của bạn,…, tất cả đều trở nên dễ dàng hơn. Khi không có cái nhìn chật hẹp về ngã nữa, bạn sẽ không còn dính mắc vào hạnh phúc. Và khi bạn không còn dính mắc vào hạnh phúc, bạn bắt đầu có hạnh phúc thực sự.

Ngắn và thẳng

Một bà già mộ đạo từ một tỉnh kế cận đến Wat Pah Pong hành hương. Bà thưa với ngài Ajahn Chah rằng bà chỉ có thể ở đây một thời gian ngắn thôi vì bà còn phải trở về chăm sóc mấy đứa chắt của bà. Bà cũng thưa với ngài là vì bà đã quá già nên xin ngài ban cho một thời pháp ngắn.

Ngài Ajahn Chah mạnh mẽ trả lời: Này, bà cụ hãy lắng tai nghe. Ở đây không có ai hết, chỉ như vậy thôi. Không ai là chủ nhân, không có ai già, không có ai trẻ, không có ai tốt, không có ai xấu, không có ai mạnh, không có ai yếu. Chỉ có vậy thôi, vậy thôi. Tất cả đều trống rỗng, chỉ có các yếu tố khác nhau của thiên nhiên, chúng nó tác dụng hỗ tương với nhau thôi. Không có ai sinh ra và chẳng có ai chết đi. Người nào nói về cái chết là người đó nói chuyện như đứa con nít không hiểu gì hết. Trong ngôn ngữ của Tâm, nghĩa là ngôn ngữ của Phật Pháp, không có chuyện đó.

Khi chúng ta gánh một gánh nặng, gánh đó thật nặng nề, nhưng khi không có ai gánh cái gánh nặng đó thì chẳng có vấn đề gì trên đời này nữa. Đừng tìm kiếm điều tốt, điều xấu hay bất cứ điều gì hết. Đừng là gì hết. Không có gì nữa hết. Chỉ có vậy.
 
DỊCH KINH VÀ ĐẠI HỌC

Hòa thượng Thích Minh Châu
Chánh pháp và Hạnh phúc (Nxb Tôn Giáo, 2001)

*
Khi chúng tôi bắt đầu dịch kinh Pāli ra tiếng Việt, có người bảo là một phận sự thuần chất tôn giáo, không dính gì Đại học. Có người khắt khe hơn lại chỉ trích: “Đang làm Viện trưởng một Viện Đại học mà dịch kinh là sẽ có hại cho trách nhiệm điều khiển một Đại học”.

Chúng tôi muốn chứng minh rằng dịch kinh như chúng tôi đang làm cũng là một dịch vụ Đại học, không những không có xung khắc mâu thuẫn, mà chính tiêu biểu tốt đẹp cho thâu hóa kiến thức và văn hóa nhân loại, và phát huy tinh thần cầu tiến, nghiên cứu, sáng tạo của Đại học.

Trước hết, dịch kinh như là một phận sự chính của những vị tu hành đi qua Ấn Độ tu học. Như ngài Pháp Hiển người Trung Hoa, đi qua Ấn Độ và Tích Lan vào thế kỷ thứ tư để lại một số dịch phẩm quan trọng có thể dịch từ chữ Sanskrit, Prakrit, Pāli qua chữ Hán. Ngài Huyền Trang, một nhà chiêm bái Trung Hoa thế kỷ thứ 7, đã du học trên 17 năm, và khi về nước đã dịch tất cả là 77 bộ kinh từ chữ Phạn ra chữ Hán. Rồi đến ngài Nghĩa Tịnh người Trung Hoa vào thế kỷ thứ tám cũng đi qua du học tại Ấn Độ với một nhà sư Việt Nam, ngài Đại Thặng Đăng và khi về dịch từ tiếng Phạn qua chữ Hán. Còn các vị sư Ấn Độ qua Việt Nam và qua Trung Hoa cũng dịch kinh từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa, và những bậc dịch sư có danh tiếng như ngài Sanghadeva (Tăng-già-đề-bà), đã dịch tập Trung A-hàm, ngài Cưu-ma-la-thập đã dịch tập Ma-ha Bát-nhã, Diệu Pháp Liên Hoa, v.v.

Chính công trình của các quý vị dịch sư này đã xây dựng nên Tam tạng Trung Hoa, một dịch Tạng phong phú nhất trong các dịch Tạng. Thật sự, vấn đề dịch kinh điển là một công trình văn hóa hơn là một công trình tôn giáo, và ba Tạng giáo điển Phật giáo không những phong phú nhất về lượng và cũng dồi dào nhất về những uyên thâm triết lý và tinh vi nhất về những phương pháp tu hành. Những danh từ "dhammacakkam pavatteti" (chuyển pháp luân), "dhammam deseti" (thuyết pháp) mang nặng tính cách trao truyền chân lý, truyền thừa pháp môn và vì vậy phiên dịch kinh điển là một dịch vụ thuần túy văn hóa và rất phù hợp với công tác Đại học.

Khi chúng tôi dịch từ tiếng Pāli ra tiếng Việt là chúng tôi muốn giới thiệu ba Tạng Pāli cho các Phật tử và học giả Việt Nam, một Tam Tạng kinh điển rất phong phú, rất gần với lời dạy nguyên thủy của Đức Phật, lại được phổ biến rất rộng rãi khắp năm châu, qua công trình dịch thuật của Hội Pāli Text Society, London.

Chúng tôi lại đặc biệt dịch Kinh tạng, là một trong ba tạng được xem là ghi chép trung thành và thuần túy nhất những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật. Từ trước cho đến nay, tuy có một số kinh điển được dịch từ chữ Pāli ra tiếng Việt, nhưng phần lớn là trích dịch, và các kinh được dịch phần lớn dùng để tụng đọc trong các nghi lễ nên có tính cách tôn giáo nhiều hơn. Ở nơi đây, chúng tôi cố gắng dịch trọn vẹn, không bỏ qua một kinh nào, và dịch có in nguyên bản Pāli đối chiếu với dụng ý để người đọc có thể tự mình tìm hiểu nguyên nghĩa của từng chữ từng câu, khỏi rơi vào những giải thích hay lệch lạc của người dịch. Kinh Pāli được bắt đầu giới thiệu cho người Việt Nam và người Việt Nam lần đầu tiên được đọc thẳng Kinh tạng Pāli bằng tiếng Việt có nguyên bản Pāli đối chiếu.

Không những chúng tôi giới thiệu Kinh tạng Pāli cho các Phật tử và học giả Việt Nam tụng đọc, chúng tôi còn cống hiến cho các học giả Việt Nam những tài liệu nghiên cứu và tham khảo để viết những tham luận về Phật giáo. Từ trước các học giả có viết về Phật giáo chỉ có thể trích dẫn các sách, do các người ngoại quốc viết về Phật giáo, khó có thể tham chiếu từ tạng Pāli hay tạng Hán, và như vậy có thể hiểu lầm và sai lạc. Nay các học giả có thể trích dẫn nơi bản dịch từ văn Pāli ra tiếng Việt của chúng tôi, lại có thêm nguyên văn Pāli đối chiếu. Như vậy sự trích dẫn được chính xác và khỏi lệch lạc.

Khi chúng tôi giới thiệu kinh tạng Pāli với các bản dịch năm bộ Nikāya (Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tương ưng bộ kinh, Tăng nhất bộ kinh, Tiểu bộ kinh), chúng tôi gián tiếp giới thiệu bốn bộ A-hàm là Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất A-hàm và vô số kinh tương đương khác thuộc nhiều học phái khác mà từ trước đến nay, rất ít người tham khảo. Trường A-hàm được Hòa thượng Thích Thiện Siêu dịch ra Việt văn nhưng không được đầy đủ. Trung A-hàm được Hòa thượng Thích Thanh Từ và Đại đức Tuệ Sỹ dịch ra Việt văn nhưng chỉ dịch một số kinh và cũng chưa in thành sách. Bản chữ Hán tuy có học tại các Phật học Viện, nhưng cũng chỉ trích học. Bản chữ Hán được dịch vào thế kỷ thứ 2 sau Kỷ nguyên nên rất xưa và khó hiểu và ít được có người tham khảo. Chúng tôi xin kể sơ một ít danh từ được ngài Sanghadeva dịch từ tập Mādhyāmāgama (Trung A-hàm) ra chữ Hán. Như chữ Vedanā dịch là giác, sau dịch là thọ; Savitakka, Savicāra, ngài dịch là hữu giác, hữu quán, về sau dịch là hữu tầm, hữu tứ; Phassa, ngài dịch là cánh lạc, về sau dịch là xúc. Chúng tôi hy vọng khi bản Pāli được trích dịch, thời nhiều đoạn A-hàm, tương đương được sáng nghĩa hơn, và sẽ có nhiều vị tiếp tục dịch các bộ A-hàm một cách trọn vẹn và đầy đủ. Bốn bộ A-hàm và một số rất nhiều bài kinh chưa được phân loại là những tài liệu rất quý giá đề cập đến các học phái, mà nay hình như chỉ có ông André Bareau người Pháp nghiên cứu.

Chúng tôi hy vọng trong một thời gian gần đây, sẽ có một số học giả nghiên cứu đến những tài liệu này và sẽ khám phá rất nhiều tài liệu Phật giáo mới lạ và hy hữu. Cho nên khi dịch các tài liệu Pāli, chúng tôi hy vọng mở đường cho nhiều nghiên cứu khác đặt nặng vào bốn bộ A-hàm và các kinh điển khác rải rác trong Tam Tạng. Như vậy trong khi chúng tôi trực tiếp giới thiệu kinh tạng Pāli, chúng tôi gián tiếp giới thiệu kinh tạng A-hàm và tương đương, và sự đóng góp này mang nặng tính chất vừa văn hóa, vừa Đại học.

Cho dịch và cho in các bản kinh Pāli, chúng tôi không mong muốn gì hơn là để các Phật tử, các học giả, các sinh viên được đọc thẳng vào những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, và tự mình tìm hiểu những lời dạy thật sự của Đức Phật, khỏi phải qua những lập trường của các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những học giả và những Phật tử muốn giải thích đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình. Muốn chạy theo dục vọng, thì giải thích kinh điển một cách dễ hiễu rằng đạo Phật chấp nhận và tha thứ dục vọng. Muốn giết người và muốn bênh vực kẻ giết người, đạo Phật được giải thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết người. Muốn chạy theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết. Tà kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết. Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhất là phổ biến những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để Phật tử được đọc thẳng ngay kinh Phật, khỏi qua một ống kính màu nào. Đạo Phật cần những cá nhân Phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu, rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân.

Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình. Chính Đại kinh Bát-niết-bàn (DN 16) có ghi rằng dù chúng ta có nghe vị tỳ- kheo nào nói tự thân nghe Đức Phật, tự thân nghe các vị Thượng tọa, Thủ chúng v.v. nói như vậy là Pháp, như vậy là Luật, Đức Phật khuyên cũng không được tán thán, đả kích, chấp thuận hay từ bỏ ngay, mà phải so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, có phù hợp mới được chấp nhận, không phù hợp thời phải từ bỏ. Đạo Phật đòi hỏi sự nhận xét, tìm hiểu, suy tư cá nhân rất nhiều. Nhưng chúng ta chỉ có thể nhận xét, tìm hiểu, suy tư khi chúng ta chỉ có thể nhận xét, tìm hiểu, suy tư khi chúng ta được đọc những lời dạy nguyên thủy nhất hay gần nguyên thủy nhất của Đức Phật.

Chúng tôi dịch kinh Pāli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những kinh điển có thể được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của Đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dù Ấn Độ, Trung Hoa hay Việt Nam. Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, tự mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì đạo Phật là đạo đến để mà thấy chứ không phải đạo đến để nhờ người thấy hộ, đạo của người có mắt (cakkhumato), không phải đạo của người nhắm mắt, đạo của người thấy, của người biết (jānato passato), không phải là đạo của người không thấy, không biết (ajānato apassato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.

Thật sự chúng tôi chỉ mong rằng quý vị hãy đọc thật kỹ và suy tư thật chín chắn, những đoạn mà chúng tôi phiên dịch rồi quý vị hãy tự hỏi, những đoạn ấy có phải là những đoạn “Tiểu thừa” dành riêng cho những vị có tiểu tâm, chỉ biết tư lợi không biết vị tha, chỉ biết tự giác không biết giác tha. Như chúng tôi đã phân tích trong lời giới thiệu bản dịch tập "Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa", chúng ta đừng có mắc bẫy các vị Bà-la-môn Ấn Độ giáo đã tìm cách gán cho chữ "Tiểu thừa", để loại ra ngoài những lời Phật dạy căn bản, như một số Phật tử Đại thừa đã bị mê hoặc, không dám đọc những lời Phật dạy, vì bị gán nhãn hiệu Tiểu thừa. Bên phái Nam tông, tuy tôn thờ Tam tạng Pāli, nhưng một số Phật tử cũng rơi vào một nạn tương tự, là chỉ học Luật tạng và A-tỳ-đàm tạng, bỏ rơi Kinh tạng Pāli, vì xem A-tỳ-đàm tạng mới đề cập đến Đệ nhất Nghĩa đế, còn Kinh tạng chỉ bàn đến Tục đế mà thôi. Đây cũng là một lầm lạc hết sức ngây thơ và nguy hiểm. Vì A-tỳ-đàm phát xuất từ Kinh tạng, và bỏ gốc để tìm ngọn thì không khác gì kẻ đi tìm lõi cây, mà chỉ mang về cành lá. Thật sự, đạo Phật đâu có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa, đâu có chia đôi Chân đế, Tục đế. Những sự phân chia này chỉ là hậu tác phẩm, hoặc của giáo sĩ Bà~la- môn mang danh Phật tử muốn loại bỏ những gì tinh túy nhất của đạo Phật không cho Phật tử học và tu, hay của một số đệ tử Phật muốn làm Tổ sư một giáo phái, nên đề xướng các chủ thuyết lấn át những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.

Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời dạy thật sự là những lời dạy của Đức Phật, và vì trách nhiệm ấy mà chúng tôi đang cố gắng phiên dịch Kinh tạng Pāli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chín chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu là những lời dạy trung thực của đức Bổn Sư chúng ta.

Đây là sự đóng góp của Viện Đại học Vạn Hạnh vào nền văn hóa Phật giáo bằng cách giới thiệu một cách đầy đủ và trung thực những tàỉ liệu tiếng Việt quý báu nhất về kinh tạng Pāli, vừa cho các Phật tử tìm hiểu, thực hành và thực chứng, vừa giúp các học giả Phật giáo có những tài liệu tham khảo khá đầy đủ và trung thực. Viện Đại học Vạn Hạnh là môi trường đầu tiên nếu không phải là độc nhất, đã cố gắng giới thiệu kinh tạng Pāli cho Phật tử Việt Nam, học giả Vìệt Nam, dân chúng Việt Nam. Viện Đại học Vạn Hạnh cũng đi tiên phong mở đường cho một cao trào nghiên cứu đi thẳng vào lời dạy nguyên thủy của Đức Phật, khỏi bị những lệch lạc của học phái hay của Bà-la-môn giáo. Điều quan hệ hơn nữa, Viện Đại học Vạn Hạnh muốn khuyến khích các học giả và các Phật tử, tự mình mở mắt tìm hiểu, suy tư, đối chiếu, không có nhắm mắt tin theo, không có thụ động chấp nhận, trái lại phải biết thâu hóa, so sánh, phân tích, để làm sáng tỏ những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.

– Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
Chánh pháp và Hạnh phúc (Nxb Tôn Giáo, 2001)

*-----*
 
Tôi thấy bạn nãy h toàn nói lung tung không theo chánh pháp nào cả. Hễ ai đưa ra dẫn chứng gì đó vượt quá tầm hiểu biết của bạn thì bạn chụp mũ là khác suy nghĩ với bạn. Khi người ta đưa ra dẫn chứng theo chánh pháp để phản biện lại các comment của bạn thì bạn lại đem những điều không ai hiểu, không ai chứng thực, không ai xác minh ra để chứng tỏ người ta sai và bạn đúng. Và khi bạn sai thì bạn tìm cách vòng vo tránh né không nhận mình sai. Mục đích bạn làm vậy để làm gì ?
Okay, vậy ngày mai giải đáp câu này nhé:

- Do nhân gì duyên gì có tự tánh, tự ngã. Liệu chúng có vô thường, vô ngã không

- Vì sao căn tánh chúng sanh khác biệt.
Định ngủ mà bạn kia bảo là ko phản biện, thôi thì phản biện xong rồi ngủ vậy.
Bạn dungdamchemnhau do nhân duyên gì bạn sinh ra cõi đời này, mình trả lời luôn là do nghiệp báo từ vô lượng kiếp. Tự ngã bạn hình thành cũng do nghiệp báo. Tự tánh nó vốn ko sanh ko diệt, mà do bị Tự ngã che mờ đi mất. Tự ngã nó vốn vô thường nhưng chúng ta mê lầm cho nó là hằng thường. Cho nên phải thực hành Vô ngã để trở về với Tự tánh (Phật tánh chân tâm).
Còn Căn tánh của chúng sanh khác biệt là do trí tuệ và thiện căn của chúng sanh là khác nhau.
Cho nên có thể các bạn nói quá tầm hiểu biết của mình nên mình chỉ viết đc đến vậy dẫn đến chưa hiểu đc nhau ;))
 
Định ngủ mà bạn kia bảo là ko phản biện, thôi thì phản biện xong rồi ngủ vậy.
Bạn dungdamchemnhau do nhân duyên gì bạn sinh ra cõi đời này, mình trả lời luôn là do nghiệp báo từ vô lượng kiếp. Tự ngã bạn hình thành cũng do nghiệp báo. Tự tánh nó vốn ko sanh ko diệt, mà do bị Tự ngã che mờ đi mất. Tự ngã nó vốn vô thường nhưng chúng ta mê lầm cho nó là hằng thường. Cho nên phải thực hành Vô ngã để trở về với Tự tánh (Phật tánh chân tâm).
Còn Căn tánh của chúng sanh khác biệt là do trí tuệ và thiện căn của chúng sanh là khác nhau.
Cho nên có thể các bạn nói quá tầm hiểu biết của mình nên mình chỉ viết đc đến vậy dẫn đến chưa hiểu đc nhau ;))
Tự tánh (Phật tánh chân tâm).
Vậy cái Tự tánh có Vô Thường và Vô Ngã không nhỉ. Che mờ tức là luôn luôn có ?

Còn Căn tánh của chúng sanh khác biệt là do trí tuệ và thiện căn của chúng sanh là khác nhau.

Cái này thì do nhân duyên gì.
 
Tự tánh (Phật tánh chân tâm).
Vậy cái Tự tánh có Vô Thường và Vô Ngã không nhỉ. Che mờ tức là luôn luôn có ?

Còn Căn tánh của chúng sanh khác biệt là do trí tuệ và thiện căn của chúng sanh là khác nhau.

Cái này thì do nhân duyên gì.
Tự tánh ko vô thường
Vô ngã là ngược với Ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng
Che mờ tức là luôn luôn có, đó chính là Phật tánh
Do nhân duyên nghiệp báo khác nhau, nghiệp báo này chính mình tạo dựng từ nhiều kiếp trước đó bạn
 
Tự tánh ko vô thường
Vô ngã là ngược với Ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng
Che mờ tức là luôn luôn có, đó chính là Phật tánh
Do nhân duyên nghiệp báo khác nhau, nghiệp báo này chính mình tạo dựng từ nhiều kiếp trước đó bạn
Luôn có thì những chúng sanh đầu tiên sinh ra chưa có nghiệp j vốn đã là phật rồi, đã niết bàn cả rồi làm j còn chúng sinh sau này nữa.
 
Tự tánh ko vô thường
Vô ngã là ngược với Ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng
Che mờ tức là luôn luôn có, đó chính là Phật tánh
Do nhân duyên nghiệp báo khác nhau, nghiệp báo này chính mình tạo dựng từ nhiều kiếp trước đó bạn
Nếu có 1 cái trên thế gian ko vô thường thì đích thị đi ngược lại lời dạy của Phật.
 
Nếu dựa theo bài Kinh Phạm Võng thì một cái gì trên thế gian không chịu tác động bởi Tam Tướng ( khổ - vô thường - vô ngã) và Niết Bàn giây phút hiện tại đều là Tà Kiến.

——————-
62 Tà Kiến

62 Tà Kiến chia làm hai:
A. chấp theo quá khứ
có 18 điều chia thành 5 phần
B. chấp theo vị lai có 44 điều chia thành 5 phần

A. Tà kiến chấp theo quá khứ có 5 phần:

I. Thường kiến có 4 nguyên do:

* chấp trường tồn do nhớ nhiều đời dưới một đại kiếp (thành, trụ, hoại, không).
* chấp trường tồn do nhớ nhiều đời từ 1 đến 10 đại kiếp.
* chấp trường tồn do nhớ nhiều đời từ 1 đến 40 đại kiếp.
* chấp trường tồn do sự kinh nghiệm.

II. Thường vô thường kiến có 4 nguyên do:
* nhận thấy vị Đại Phạm thiên sống hoài, còn những kẻ do Ngài tạo ra phải chết.
* nhận thấy chư Thiên không say sống hoài, vị nào say mới chết.
* nhận thấy chư Thiên không sân sống hoài, vị nào sân mới chết.
* nhận thấy: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân không bền vững, chỉ có tâm là trường tồn (không sanh, không diệt).

III. Biên vô biên kiến có 4 nguyên do:

* nhận thấy thế giới, vũ trụ có chỗ tột.
* nhận thấy vũ trụ có tột, thế giới không cùng.
* nhận thấy vũ trụ trên dưới có tột, ngang qua không cùng.
* nhận thấy thế giới, vũ trụ không cùng tột.

IV. Vô ký kiến (ngụy biện - cũng gọi là bất định kiến) có 4 nguyên do:

* do nhận thấy không sát thật, vì e vọng ngữ nên nói không sát thật.
* do nhận thấy không sát thật, vì e bị chấp trước nên nói không quyết định.
* do nhận thấy không sát thật, vì e bị hỏi gạn nên nói không quyết định.
* do nhận thấy không sát thật, vì e bị vô minh nên nói không quyết định.

V. Vô nhơn kiến có 2 nguyên do:

* tâm ta tự nhiên mà có, do nhớ đời trước làm người vô tưởng.
* sự suy xét nhận thấy tất cả có ra đều không do nhơn tạo.

B. Tà kiến chấp theo vị lai có 5 phần.

I. Hữu tưởng kiến có 16 nguyên do:


* bản ngã có sắc không có bệnh, sau khi chết có tưởng.
* bản ngã không có sắc, vô bệnh sau khi chết có tưởng.
* bản ngã có sắc và không có sắc, vô bệnh sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là phi hữu sắc, phi vô sắc, không bệnh sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là hữu biên vô bệnh, sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là vô biên vô bệnh, sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là hữu biên vô biên không bệnh sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là phi hữu biên, phi vô biên, không bệnh sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là nhất tưởng, không bệnh, sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là dị tưởng, không bệnh sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là đa tưởng, không bệnh, sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là vô lượng tưởng, không bệnh, sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là thuần lạc, không bệnh sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là thuần khổ, không bệnh sau khi chết có tưởng.
* bản ngã là khổ lạc, không bệnh, sau khi chết có tưởng.
* bản ngã không khổ lạc, không bệnh, sau khi chết có tưởng.

II. Vô tưởng kiến có 8 nguyên do:

* bản ngã có sắc, vô bệnh, sau khi chết không có tưởng.
* bản ngã không có sắc, vô bệnh sau khi chết không có tưởng.
* bản ngã có sắc và cũng không có sắc, vô bệnh sau khi chết không có tưởng.
* bản ngã là phi hữu sắc, phi vô sắc, vô bệnh sau khi chết không có tưởng.
* bản ngã là hữu biên, vô bệnh sau khi chết không có tưởng.
* bản ngã là vô biên, không có bệnh, sau khi chết không có tưởng.
* bản ngã là hữu biên và vô biên, vô bệnh sau khi chết không có tưởng.
* bản ngã là phi hữu biên, phi vô biên, vô bệnh sau khi chết không có tưởng.

III. Phi tưởng phi phi tưởng kiến có 8 nguyên do:

* bản ngã có sắc, vô bệnh sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng.
* bản ngã vô sắc, vô bệnh, sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng.
* bản ngã có sắc và cũng không có sắc, sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng.
* bản ngã là phi hữu sắc, phi vô sắc, sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng.
* bản ngã là hữu biên, vô bệnh sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng.
* bản ngã là vô biên, vô bệnh sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng.
* bản ngã là hữu biên vô biên, không bệnh sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng.
* bản ngã là phi hữu biên, phi vô biên, không bệnh, sau khi chết phi hữu tưởng phi vô tưởng.

IV. Đoạn kiến có 7 nguyên do:

* nhận thấy tất cả loài thai sanh chết rồi tiêu mất.
* nhận thấy chư Thiên cõi lục dục chết rồi tiêu mất.
* nhận thấy tất cả Phạm thiên cõi Sắc giới chết rồi tiêu mất.
* nhận thấy bực Không vô biên xứ thiên chết rồi tiêu mất.
* nhận thấy tất cả bực Thức vô biên xứ thiên chết rồi tiêu mất.
* nhận thấy bực Vô sở hữu xứ thiên chết rồi mất.
* nhận thấy bực Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên chết rồi mất.

V. Níp-bàn hiện tại kiến có 5 nguyên do:

* nhận thấy ngũ dục lạc là Níp-bàn hiện tại.
* nhận thấy sơ thiền là Níp-bàn hiện tại.
* nhận thấy nhị thiền là Níp-bàn hiện tại.
* nhận thấy tam thiền là Níp-bàn hiện tại.
* nhận thấy tứ thiền là Níp-bàn hiện tại.

Kinh Phạm võng (Brahmajàla Sutta)
 
Luôn có thì những chúng sanh đầu tiên sinh ra chưa có nghiệp j vốn đã là phật rồi, đã niết bàn cả rồi làm j còn chúng sinh sau này nữa.
Nếu có 1 cái trên thế gian ko vô thường thì đích thị đi ngược lại lời dạy của Phật.
Hiện tại 2 bạn đang lờ mờ ở mức "Nghiệp cảm duyên khởi"
Trong duyên khởi luận của Phật giáo, có năm thuyết. Ðó là: Nghiệp-cảm duyên khởi, A-lại-da duyên khởi, chân như duyên khởi, Lục-đại duyên khởi và pháp giới duyên khởi. Có người ngạc nhiên tự hỏi: tại sao cũng là Phật dạy cả, mà lại bất nhất như thế ?
Sự sai khác đó là vì căn cơ của chúng sanh không đồng. Phật thuyết khác về góc nhìn chứ nội dung và bản chất ko sai khác.
Ví dụ về 2 thuyết dễ hiểu nhất đó là:
1. Nghiệp cảm duyên khởi: Nghiệp cảm duyên khởi luận là chủ trương của Tiểu-thừa Phật giáo. Lý thuyết này rút ra từ trong “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”. Như chúng ta đã học về “Tứ diệu đế”, Phật dạy nguyên nhân của đau khổ, của sanh tử luân hồi là do “hoặc nghiệp”. Hoặc tức là mê vọng; có hành động sai lầm, vì hành động sai lầm nên chịu quả đau khổ…và cái vòng nhân quả luân hồi cứ tiếp tục mãi, tạo ra có chánh báo là thân ta và y báo tức là sơn hà đại địa.
Nói một cách tổng quát, do nghiệp lực mà có thân (chánh báo) và thế giới (y báo). Chánh báo và y báo có thể thế này hay thế khác, tốt hay xấu, là do nghiệp lành hay dữ. Nhưng dù sao, hễ còn nghiệp là còn có hiên tượng giới. Dứt trừ được nghiệp là trở về với Chân như, là nhập Niết bàn.
2. A lại da duyên khởi:
Thuyết này thuộc về Ðại Thừa Phật giáo, đi sâu hơn thuyết trên một tầng. Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chỉ nói có sáu thức là nhãn, nhỉ, tỹ, thiệt, thân, ý. Sau khi chết, ngũ uẩn tan rã, nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái gì? Lục thức hay ý thức sanh diệt vô thường, biến chuyển luôn luôn, thì nghiệp dù còn, mà lấy gì giữ gìn cái nghiệp quả, khiến cho nó triển chuyển không dứt?

Ðại Thừa giáo, bổ khuyết cho thuyết trên, tìm thấy trên hai thức nữa là thức thứ 7 hay Mạt na thức, và thức thứ 8 hay A lại da thức.


Mạt na nghĩa là cầm bắt lấy chỗ thấy biết, nghĩa là tự nhận có một cái ngã, và gìn giữ cái ngã ấy. Nhưng làm sau giữ được cái giả ngã ấy, trong lúc ngũ uẩn, lục thức đều sanh diệt vô thường hợp ly mãi mãi? Vậy thì dưới Mạt na thức, tất phải có một thức khác thường tại, trùm chứa tất cả chủng tử của các pháp mới được.

Ðó chính là thức thứ Tám, hay A lại da thức, hay tạng thức (thức trùm chứa). Thức này không phải vô thường như ngũ uẩn, mà là hằng khởi, thường tại. Nó có hai công năng: một là thâu nhiếp tất cả các pháp, hai là sinh khởi tất cả các pháp. Khi chúng ta gây thiện nghiệp hay ác nghiệp, thì những chủng tử được dồn chứa vào Tạng thức, đến khi đủ nhân duyên thì những chủng tử ấy phát ra hiện hành.

Bởi A-lại-da thức bao gồm hết thảy chủng tử của chư pháp, nên nó phát hiện được hết năng lực vô hạn của vạn tường. Khi căn thân của ta vừa phát sanh là nó bao gồm hàm khách quan giới (tức là vạn vật). Khách quan giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ quan giới có ý thức tác động mà ra.

Tóm lại, A lại da thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, A lại da thức đã bao gồm chủng tử. Hiện tượng giới do chủng tử này mà phát hiện. Hiện tượng đã phát hiện thì kích thích phát sinh duyên mới, dẫn đến chỗ tác dụng. Như thế, chủng tử cùng hiện tượng, nhân quả nhau mãi, mà làm cho hiển hiện vạn hữu, và làm nền móng qua bao kiếp nhân quả luân hồi.

Nhưng, nếu A lại da thức là nền móng của nhân quả luân hồi, thì A lại da thức cũng là căn nguyên của giải thoát, vì trong A lại da thức có đủ cả chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức là hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu, đối với ngoại giới biết có hư vọng, cho nên không đủ cho tâm vọng đọng, do đó có thể đưa đến sự giải thoát.
 
Sửa lần cuối:
Tôi chỉ vì lòng thương tưởng đến chúng sinh 🙏🙏🙏

Xin hãy biết thêm về 4 Đế 🙏

Chúng ta bị chiêu bài “niệm phật sẽ vãng sanh tịnh độ” che mắt. Thế giới này xưa nay ngàn vạn người niệm a di đà nhưng người vãng sanh thực sự hãn hữu vô cùng. Lại ngàn vạn người vãng sinh tịnh độ nhưng thành phật lại chưa có một ai. Tại sao lại như vậy?
Người ở thế giới Ta Bà niệm hồng danh A Di Đà Phật nhưng thế giới này lại chỉ đản sinh duy nhất một vị phật là Thích Ca. Phật pháp của Thích Ca thấm nhuần khắp thế giới này cả nơi có và cả nơi không, tràn đầy trong dòng thế lưu bố tưởng lẫn trước tưởng. Tất cả nơi tiềm ẩn khởi sinh các pháp đều bị Ông ta chiếm hữu hết rồi. Thời trước Thích Ca, tính Không của thế giới này vô chủ. Khi có Thích Ca, tính Không của thế giới này ấn chứng bởi Phật.

Bởi vậy, anh em Tịnh độ cho rằng chỉ nhất tâm niệm hồng danh mà không tiếp nhận các pháp Vô Thường, Vô Ngã, Khổ - Khổ, Tập, Diệt, Đạo - Bát Chánh Đạo - Tứ Niệm Xứ, thì sự Vãng Sanh không thể xảy ra. Giống như anh em muốn đi từ quốc gia này tới quốc gia khác mà không chịu tuân theo luật xuất nhập cảnh của quốc gia đang ở. Có đi nổi qua cửa được không?
Luật của đạo phật: muốn thành phật chánh đẳng giác bắt buộc phải có một vị phật hiện thế thọ ký. Anh em về cõi Tịnh Độ tu pháp gì để chiêu cảm được A Di Đà Phật thọ ký cho, khó lắm thay. Đến đây, anh em nào có tâm bất mãn về cái sự lý “dễ dàng” của Tịnh Độ tông, xin hãy xả bỏ. Bởi như biết vậy thì chẳng dễ dàng đâu, cũng vật vã trong tuyệt vọng đó thôi.

@dungdamchemnhau, ý chí tu hành của bạn thật quý. Tôi chúc bạn đắc quả vị ngay trong kiếp này hoặc kiếp gần nhất. Mong một ngày không xa, trên đường đi ship đồ khắp các đại thiên thế giới, tôi được nghe hồng danh của bạn từ các chúng sinh trong cõi khổ: Nam Mô Tối Thắng Nguyên Thuỷ Pháp Môn Đâm Chém Phật 🙏
Khi đó tôi sẽ vì bạn mà rơi lệ. Tôi sẽ tắt app, gọi sub @Xoanquay để book 10 vạn thiên nữ rắc hoa bảy báu lên cõi Bề Đề Cực Lạc. Một niệm của tôi vì bạn mà hoá thân, phát ra đại nguyện:
- Xamvn chưa hết sex pỏn thì tôi thề không thành phật. Simp lỏ được độ tận thì tôi mới chứng quả bồ đề.

Như vậy được chưa ạ 🙏
 
Hiện tại 2 bạn đang lờ mờ ở mức "Nghiệp cảm duyên khởi"
Trong duyên khởi luận của Phật giáo, có năm thuyết. Ðó là: Nghiệp-cảm duyên khởi, A-lại-da duyên khởi, chân như duyên khởi, Lục-đại duyên khởi và pháp giới duyên khởi. Có người ngạc nhiên tự hỏi: tại sao cũng là Phật dạy cả, mà lại bất nhất như thế ?
Sự sai khác đó là vì căn cơ của chúng sanh không đồng. Phật thuyết khác về góc nhìn chứ nội dung và bản chất ko sai khác.
Ví dụ về 2 thuyết dễ hiểu nhất đó là:
1. Nghiệp cảm duyên khởi: Nghiệp cảm duyên khởi luận là chủ trương của Tiểu-thừa nguyên Phật giáo. Lý thuyết này rút ra từ trong “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”. Như chúng ta đã học về “Tứ diệu đế”, Phật dạy nguyên nhân của đau khổ, của sanh tử luân hồi là do “hoặc nghiệp”. Hoặc tức là mê vọng; có hành động sai lầm, vì hành động sai lầm nên chịu quả đau khổ…và cái vòng nhân quả luân hồi cứ tiếp tục mãi, tạo ra có chánh báo là thân ta và y báo tức là sơn hà đại địa.
Nói một cách tổng quát, do nghiệp lực mà có thân (chánh báo) và thế giới (y báo). Chánh báo và y báo có thể thế này hay thế khác, tốt hay xấu, là do nghiệp lành hay dữ. Nhưng dù sao, hễ còn nghiệp là còn có hiên tượng giới. Dứt trừ được nghiệp là trở về với Chân như, là nhập Niết bàn.
2. A lại da duyên khởi:
Thuyết này thuộc về Ðại Thừa Phật giáo, đi sâu hơn thuyết trên một tầng
. Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chỉ nói có sáu thức là nhãn, nhỉ, tỹ, thiệt, thân, ý. Sau khi chết, ngũ uẩn tan rã, nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái gì? Lục thức hay ý thức sanh diệt vô thường, biến chuyển luôn luôn, thì nghiệp dù còn, mà lấy gì giữ gìn cái nghiệp quả, khiến cho nó triển chuyển không dứt?

Ðại Thừa giáo, bổ khuyết cho thuyết trên, tìm thấy trên hai thức nừa là thức thứ 7 hay Mạt na thức, và thức thứ 8 hay A lại da thức.


Mạt na nghĩa là cầm bắt lấy chỗ thấy biết, nghĩa là tự nhận có một cái ngã, và gìn giữ cái ngã ấy. Nhưng làm sau giữ được cái giả ngã ấy, trong lúc ngũ uẩn, lục thức đều sanh diệt vô thường hợp ly mãi mãi? Vậy thì dưới Mạt na thức, tất phải có một thức khác thường tại, trùm chứa tất cả chủng tử của các pháp mới được.

Ðó chính là thức thứ Tám, hay A lại da thức, hay tạng thức (thức trùm chứa). Thức này không phải vô thường như ngũ uẩn, mà là hằng khởi, thường tại. Nó có hai công năng: một là thâu nhiếp tất cả các pháp, hai là sinh khởi tất cả các pháp. Khi chúng ta gây thiện nghiệp hay ác nghiệp, thì những chủng tử được dồn chứa vào Tạng thức, đến khi đủ nhân duyên thì những chủng tử ấy phát ra hiện hành.

Bởi A-lại-da thức bao gồm hết thảy chủng tử của chư pháp, nên nó phát hiện được hết năng lực vô hạn của vạn tường. Khi căn thân của ta vừa phát sanh là nó bao gồm hàm khách quan giới (tức là vạn vật). Khách quan giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ quan giới có ý thức tác động mà ra.

Tóm lại, A lại da thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, A lại da thức đã bao gồm chủng tử. Hiện tượng giới do chủng tử này mà phát hiện. Hiện tượng đã phát hiện thì kích thích phát sinh duyên mới, dẫn đến chỗ tác dụng. Như thế, chủng tử cùng hiện tượng, nhân quả nhau mãi, mà làm cho hiển hiện vạn hữu, và làm nền móng qua bao kiếp nhân quả luân hồi.

Nhưng, nếu A lại da thức là nền móng của nhân quả luân hồi, thì A lại da thức cũng là căn nguyên của giải thoát, vì trong A lại da thức có đủ cả chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức là hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu, đối với ngoại giới biết có hư vọng, cho nên không đủ cho tâm vọng đọng, do đó có thể đưa đến sự giải thoát.
2. A lại da duyên khởi:
Thuyết này thuộc về Ðại Thừa Phật giáo, đi sâu hơn thuyết trên một tầng

Vậy chung quy là các Tổ giỏi hơn Đức Phật nên phát triển, cải cách Lý Duyên Khởi trở nên cao cấp hơn ha.
 
Chúng ta bị chiêu bài “niệm phật sẽ vãng sanh tịnh độ” che mắt. Thế giới này xưa nay ngàn vạn người niệm a di đà nhưng người vãng sanh thực sự hãn hữu vô cùng. Lại ngàn vạn người vãng sinh tịnh độ nhưng thành phật lại chưa có một ai. Tại sao lại như vậy?
Người ở thế giới Ta Bà niệm hồng danh A Di Đà Phật nhưng thế giới này lại chỉ đản sinh duy nhất một vị phật là Thích Ca. Phật pháp của Thích Ca thấm nhuần khắp thế giới này cả nơi có và cả nơi không, tràn đầy trong dòng thế lưu bố tưởng lẫn trước tưởng. Tất cả nơi tiềm ẩn khởi sinh các pháp đều bị Ông ta chiếm hữu hết rồi. Thời trước Thích Ca, tính Không của thế giới này vô chủ. Khi có Thích Ca, tính Không của thế giới này ấn chứng bởi Phật.

Bởi vậy, anh em Tịnh độ cho rằng chỉ nhất tâm niệm hồng danh mà không tiếp nhận các pháp Vô Thường, Vô Ngã, Khổ - Khổ, Tập, Diệt, Đạo - Bát Chánh Đạo - Tứ Niệm Xứ, thì sự Vãng Sanh không thể xảy ra. Giống như anh em muốn đi từ quốc gia này tới quốc gia khác mà không chịu tuân theo luật xuất nhập cảnh của quốc gia đang ở. Có đi nổi qua cửa được không?
Luật của đạo phật: muốn thành phật chánh đẳng giác bắt buộc phải có một vị phật hiện thế thọ ký. Anh em về cõi Tịnh Độ tu pháp gì để chiêu cảm được A Di Đà Phật thọ ký cho, khó lắm thay. Đến đây, anh em nào có tâm bất mãn về cái sự lý “dễ dàng” của Tịnh Độ tông, xin hãy xả bỏ. Bởi như biết vậy thì chẳng dễ dàng đâu, cũng vật vã trong tuyệt vọng đó thôi.

@dungdamchemnhau, ý chí tu hành của bạn thật quý. Tôi chúc bạn đắc quả vị ngay trong kiếp này hoặc kiếp gần nhất. Mong một ngày không xa, trên đường đi ship đồ khắp các đại thiên thế giới, tôi được nghe hồng danh của bạn từ các chúng sinh trong cõi khổ: Nam Mô Tối Thắng Nguyên Thuỷ Pháp Môn Đâm Chém Phật 🙏
Khi đó tôi sẽ vì bạn mà rơi lệ. Tôi sẽ tắt app, gọi sub @Xoanquay để book 10 vạn thiên nữ rắc hoa bảy báu lên cõi Bề Đề Cực Lạc. Một niệm của tôi vì bạn mà hoá thân, phát ra đại nguyện:
- Xamvn chưa hết sex pỏn thì tôi thề không thành phật. Simp lỏ được độ tận thì tôi mới chứng quả bồ đề.

Như vậy được chưa ạ 🙏
Xin đảnh lễ chư tôn đức.🙏🙏🙏
 
2. A lại da duyên khởi:
Thuyết này thuộc về Ðại Thừa Phật giáo, đi sâu hơn thuyết trên một tầng

Vậy chung quy là các Tổ giỏi hơn Đức Phật nên phát triển, cải cách Lý Duyên Khởi trở nên cao cấp hơn ha.
Phật thuyết cả chứ ai đủ trình thuyết vấn đề trên. Mà nếu đủ trình thì cũng giác ngộ Phật quả rồi, chính là hóa thân của Phật ko hai ko khác.
Trí tuệ hàng hậu bối thấp kém ngu si ko hiểu ý nghĩa, sinh ra phân biệt trên tướng danh tự tướng ngôn thuyết, cho là cái này của Phật cái kia ko của Phật.
Phật cũng đã tiên đoán đc điều này nên đã từng nói: "Ta ko thuyết pháp dù 1 chữ "
 
Phật thuyết cả chứ ai đủ trình thuyết vấn đề trên. Mà nếu đủ trình thì cũng giác ngộ Phật quả rồi, chính là hóa thân của Phật ko hai ko khác.
Trí tuệ hàng hậu bối thấp kém ngu si ko hiểu ý nghĩa, sinh ra phân biệt trên tướng danh tự tướng ngôn thuyết, cho là cái này của Phật cái kia ko của Phật.
Phật cũng đã tiên đoán đc điều này nên đã từng nói: "Ta ko thuyết pháp dù 1 chữ "
Xin đảnh lễ. 🙏🙏🙏
 
Hiện tại 2 bạn đang lờ mờ ở mức "Nghiệp cảm duyên khởi"
Trong duyên khởi luận của Phật giáo, có năm thuyết. Ðó là: Nghiệp-cảm duyên khởi, A-lại-da duyên khởi, chân như duyên khởi, Lục-đại duyên khởi và pháp giới duyên khởi. Có người ngạc nhiên tự hỏi: tại sao cũng là Phật dạy cả, mà lại bất nhất như thế ?
Sự sai khác đó là vì căn cơ của chúng sanh không đồng. Phật thuyết khác về góc nhìn chứ nội dung và bản chất ko sai khác.
Ví dụ về 2 thuyết dễ hiểu nhất đó là:
1. Nghiệp cảm duyên khởi: Nghiệp cảm duyên khởi luận là chủ trương của Tiểu-thừa Phật giáo. Lý thuyết này rút ra từ trong “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”. Như chúng ta đã học về “Tứ diệu đế”, Phật dạy nguyên nhân của đau khổ, của sanh tử luân hồi là do “hoặc nghiệp”. Hoặc tức là mê vọng; có hành động sai lầm, vì hành động sai lầm nên chịu quả đau khổ…và cái vòng nhân quả luân hồi cứ tiếp tục mãi, tạo ra có chánh báo là thân ta và y báo tức là sơn hà đại địa.
Nói một cách tổng quát, do nghiệp lực mà có thân (chánh báo) và thế giới (y báo). Chánh báo và y báo có thể thế này hay thế khác, tốt hay xấu, là do nghiệp lành hay dữ. Nhưng dù sao, hễ còn nghiệp là còn có hiên tượng giới. Dứt trừ được nghiệp là trở về với Chân như, là nhập Niết bàn.
2. A lại da duyên khởi:
Thuyết này thuộc về Ðại Thừa Phật giáo, đi sâu hơn thuyết trên một tầng. Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chỉ nói có sáu thức là nhãn, nhỉ, tỹ, thiệt, thân, ý. Sau khi chết, ngũ uẩn tan rã, nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái gì? Lục thức hay ý thức sanh diệt vô thường, biến chuyển luôn luôn, thì nghiệp dù còn, mà lấy gì giữ gìn cái nghiệp quả, khiến cho nó triển chuyển không dứt?

Ðại Thừa giáo, bổ khuyết cho thuyết trên, tìm thấy trên hai thức nữa là thức thứ 7 hay Mạt na thức, và thức thứ 8 hay A lại da thức.


Mạt na nghĩa là cầm bắt lấy chỗ thấy biết, nghĩa là tự nhận có một cái ngã, và gìn giữ cái ngã ấy. Nhưng làm sau giữ được cái giả ngã ấy, trong lúc ngũ uẩn, lục thức đều sanh diệt vô thường hợp ly mãi mãi? Vậy thì dưới Mạt na thức, tất phải có một thức khác thường tại, trùm chứa tất cả chủng tử của các pháp mới được.

Ðó chính là thức thứ Tám, hay A lại da thức, hay tạng thức (thức trùm chứa). Thức này không phải vô thường như ngũ uẩn, mà là hằng khởi, thường tại. Nó có hai công năng: một là thâu nhiếp tất cả các pháp, hai là sinh khởi tất cả các pháp. Khi chúng ta gây thiện nghiệp hay ác nghiệp, thì những chủng tử được dồn chứa vào Tạng thức, đến khi đủ nhân duyên thì những chủng tử ấy phát ra hiện hành.

Bởi A-lại-da thức bao gồm hết thảy chủng tử của chư pháp, nên nó phát hiện được hết năng lực vô hạn của vạn tường. Khi căn thân của ta vừa phát sanh là nó bao gồm hàm khách quan giới (tức là vạn vật). Khách quan giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ quan giới có ý thức tác động mà ra.

Tóm lại, A lại da thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, A lại da thức đã bao gồm chủng tử. Hiện tượng giới do chủng tử này mà phát hiện. Hiện tượng đã phát hiện thì kích thích phát sinh duyên mới, dẫn đến chỗ tác dụng. Như thế, chủng tử cùng hiện tượng, nhân quả nhau mãi, mà làm cho hiển hiện vạn hữu, và làm nền móng qua bao kiếp nhân quả luân hồi.

Nhưng, nếu A lại da thức là nền móng của nhân quả luân hồi, thì A lại da thức cũng là căn nguyên của giải thoát, vì trong A lại da thức có đủ cả chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức là hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu, đối với ngoại giới biết có hư vọng, cho nên không đủ cho tâm vọng đọng, do đó có thể đưa đến sự giải thoát.
Không 2 cũng chẳng 1. Nếu phân tích tiến trình tâm theo A Tỳ Đàm sẽ thấy bát thức tâm vương của giáo lý duy thức và ngược lại, thấy được luôn ngũ uẩn vận hành, 12 xứ, 18 giới.🙏🙏🙏
 
Phật thuyết cả chứ ai đủ trình thuyết vấn đề trên. Mà nếu đủ trình thì cũng giác ngộ Phật quả rồi, chính là hóa thân của Phật ko hai ko khác.
Trí tuệ hàng hậu bối thấp kém ngu si ko hiểu ý nghĩa, sinh ra phân biệt trên tướng danh tự tướng ngôn thuyết, cho là cái này của Phật cái kia ko của Phật.
Phật cũng đã tiên đoán đc điều này nên đã từng nói: "Ta ko thuyết pháp dù 1 chữ "
Có một câu Phật ngôn như này. Vậy Mạc Na và A lại da thức không phải là pháp hữu vi chăng.

oE6Oj5s.jpeg
 
Top