• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Kinh Nghiệm Học Phật - Vấn đáp Phật Pháp

PHẬT PHÁP CHỈ DÀNH CHO NGƯỜI BIẾT CHÁN SỢ SINH TỬ.


Chỉ vậy thôi,

Không có biết chán sợ sanh tử thì Phật Pháp nầy tôi năn nỉ đừng có rớ tới là vì ba lý do :


1️⃣

Không có chán sợ sanh tử thì mình không có chấp nhận nỗi lời Phật bởi vì Phật xúi mình đi ra mà.
Mình chấp nhận không có nỗi.

2️⃣

Không chán sợ sanh tử thì có nghĩa là mình đang Mê.
Nếu mình còn Mê thì tại sao mình lại đúc cái đầu vô cái con đường lìa bỏ làm chi.

3️⃣

Cái lý tưởng Phật Pháp đi ngược lại cái đời sống của mình thì tại sao mình ngu dại gì mình đúc cái đầu vô trong đó.

Vì thế, Phật Pháp chỉ dành cho một hạng người duy nhất là biết CHÁN SỢ SANH TỬ.
Kẻ nào còn cầu mong hưởng phúc Nhân Thiên, còn mong được hưởng cái trăng thanh gió mát là kẻ đó chưa có phải là cầu đạo Giải Thoát.
Phải thấy một phút hít thở của La Hán cũng là Khổ thì mới thật sự chán sợ sanh tử ...!!!


Gớm như vậy đó,
Phải đến mức như vậy.
Cái một phút hít thở của La Hán chứ không phải của mình nha, một phút thôi cũng là Khổ thì mới thật sự là chán sợ sinh tử. Còn thấy mình còn muốn được cái nầy, cái kia là Chết.

Và tôi đã nói cái cuối cùng, mình thấy một phút mà hít thở của vị La Hán có gì đâu.
Hít với thở thôi đâu có gì mà thơm ngon, béo ngọt, bùi giòn gì đâu ...
Nhưng mà hễ còn có mặt là còn Khổ nha.

Đức Phật dùng hình ảnh nầy nè :

● Ngài nói giống như phân người dầu cho nó là một đống lớn hay nó chỉ dính một miếng nhỏ xíu trên đầu cây que thì lúc nào nó cũng là phân, lúc nào cũng đáng gớm.

● Dầu nó là một đống lớn hay chỉ là một miếng ở đầu que gỗ thì phân ở đâu cũng là phân.

● Ngài nói bất cứ hình thức hiện hữu nào, dầu thô hay là tế đến mấy thì cũng đều là đáng chán, đáng sợ hết.


Cái người không hiểu Đạo, không học Giáo Lý, không hành Tứ Niệm Xứ thì không có tin được cái chỗ nầy.

Các vị rất là ngạc nhiên là tại sao Đức Phật Ngài nói về cái chuyện sanh tử, cái chuyện có mặt ở đời này bằng cách nói rất là khắc khe, nghiêm túc như vậy.

Các vị phải thấy biết như vậy thì các vị mới thấy Ngài nói đúng.

Các vị thử tưởng tượng đi, cái này tôi đang nói kiểu thường thức dành cho người dốt đặc không có biết gì hết nè.
Trong một ngày, cái Tâm ác và Tâm thiện của quý vị cái nào nhiều hơn ...?!

Chắc chắn là Tâm ác nhiều hơn Tâm thiện rồi từ đó suy ra bước ra ngoài đời nhắm mắt quơ tay toàn là người xấu nhiều hơn người thiện không à.
Tại vì bản thân đã là xấu.

Các vị tưởng tượng đi, mình xấu mà chung quanh mình toàn là người xấu thì hỏi quý vị vậy có cơ hội nào để mà mình làm thiện không.
Rất hiếm.
Toàn là chuyện tầm bậy không.

● Bây giờ, các vị có nhan sắc một chút, có tiền một chút, có sức khỏe một chút, có tuổi trẻ một chút thì thử hỏi các vị cái tâm tình nào mà các vị tìm đến với Phật Pháp ...?!

Làm ơn trung thực, làm ơn chân thành với lòng mình một chút đi.
Bây giờ các vị có tiền, có sức khỏe, có nhan sắc, có tuổi trẻ, có uy tín quyền lực, có chức vụ, đặc biệt là có tình cảm nam nữ đang mùa yêu thì hỏi có bao nhiêu kẻ chịu đến để mà nghe đạo ...?


Nhưng mà các vị chán đời, sợ khổ nên trong cái room nào giảng cũng nhào vô nghe không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, nghe được cái gì bỏ túi bao nhiêu hay bấy nhiêu.

● Cho nên cái đạo này, là dành cho cái người Ly Tham, dành cho những người muốn Tịch Diệt, dành cho những người chán sợ Sanh Tử.

Ác nhiều bao nhiêu thì khổ nhiều bấy nhiêu.

Khi nào, cơ hội làm ác nó nhiều hơn cơ hội làm thiện thì cái cơ hội Đọa lớn hơn cái cơ hội sanh về Nhân Thiên.
Cái cơ hội làm giun, làm trùn, làm dòi, làm bọ nó lớn lắm.

Còn cái chuyện mình quay trở lại mình làm nam thanh nữ tú, tài tử giai nhân, đủ ăn đủ mặt, có học, có tiền, có nhan sắc, có sức khỏe, rồi có tình yêu, có quyền lực, có chức vụ ....


Tôi xin hứa với các vị cái chuyện đó nó hiếm dữ lắm.
Hiếm lắm ...
 
Sửa lần cuối:
GIÀ - BỆNH - CHẾT - QUẢ NGHIỆP THIỆN ÁC.

Không ai trên đời này lại có thể an toàn vô sự trước cái già, bệnh, chết, quả nghiệp thiện ác. Chư thiên bao gồm cả Phạm thiên, ở đây có nói rõ Sa Môn, Bà La Môn, Ma Vương, trong đây kể luôn chư Phật, Thánh hiền, không ai thoát khỏi.

Thế Tôn Ngài cũng bị già bệnh phải có lúc viên tịch bỏ xác. Còn nghiệp báo, Thế Tôn cũng không thoát được vụ nàng Cinca độn bụng nói xấu. Tuy là Ngài không bị sốc tâm lý trước chuyện đó một mảy may, nhưng mình phải nhìn nhận tự nhiên bị chúng chửi, rõ ràng cũng là nghiệp xấu rồi, đó là một quả xấu đời trước.

Ngài đã từng vu oan giá họa cho một vị đạo sĩ đắc thiền. Ông tu hành ly dục. Ngài nói ông Giả Mạo. Chỉ vì 2 chữ giả mạo mà Ngài phải đi địa ngục. Khi Ngài trở lên, bị vu oan giá họa triền miên khói lửa chỉ vì phỉ báng một vị đắc thiền, chứ chưa đắc thánh.

Rồi bao nhiêu chuyện Ngài bị ám toán, mặc dầu Ngài không chết, nhưng cũng bị thương tích xây xước. Rồi Ngài bị chứng kiết lỵ, đau lưng … Ngài cũng không nằm ngoài vòng nghiệp quả. Như vậy Ngài cũng bị bệnh, già, chết. Ngài không nằm ngoài vòng nghiệp quả, nói chi là chúng ta.

Bài Kinh này có ý thế này : Một vị Sơ Quả ngay khi chứng đạo thì tự nhiên thấy ra điều này: Cái gì đã sanh ra đều phải có Duyên khởi, và trước sau cũng bi tiêu mất, tiếng Pali là: yam kinci samudayadhammam sabbantam nirodhadhammam.

Đây là một câu nói rất nổi tiếng. Tất cả những cái gì có mặt trên đời này, nó đều do Duyên khởi mà ra và cũng do Duyên mà mất đi. Hoặc cách hiểu thứ hai: Mọi thứ ở đời hễ có Sanh là có Diệt. Có nghĩa là: già bệnh chết và cả nhân quả nghiệp báo đều là những biểu hiện của Tam Tướng.

Ta lúc già lúc trẻ, lúc khỏe lúc đau
Tâm ta lúc thiện lúc ác, lúc buồn lúc vui
Buồn đời này là quả của ác đời trước
Vui đời này là quả của thiện đời trước
Ác đời này là nhân buồn của đời sau
Thiện đời này là nhân vui của đời sau


Nói như vậy có nghĩa là: già bệnh chết, tất cả đều là nhân quả, là những biểu hiện của Tam Tướng, vì thân mình lúc già lúc trẻ lúc khỏe lúc đau, còn tâm mình lúc thiện lúc ác lúc buồn lúc vui.

Buồn đời này là quả của ác đời trước .
Vui đời này là quả của thiện đời trước
Ác đời này là nhân buồn của đời sau
Thiện đời này là nhân vui của đời sau


Trong từng phút các vị sống trong bốn cái này. Từng phút, Thân Tâm ta luôn thay đổi. Từ thiện qua ác là chết một lần. Từ ác qua thiện thì chết một lần. Từ buồn qua vui là chết một lần. Từ vui qua buồn là chết một lần. Nghĩa là trước khi vào quan tài bằng gỗ, ta đã nhiều lần chết mà không bị chôn. Đây là cách quán chiếu bản chất đời sống, bài kinh này rất quan trọng.

Không ai trên đời này vượt qua già bệnh chết và quả báo của thiện ác. Ta già bệnh chết trong từng phút, vì thân ta lúc già lúc trẻ lúc khỏe lúc đau, và tâm ta lúc thiện lúc ác lúc buồn lúc vui. Chúng ta ghép những câu này thành một bài tụng. Nghe thì nó hơi kỳ, nhưng kẻ nào lén nghe thì cũng dám đắc lắm chứ phải không. Cứ đọc suốt một ngày như vậy.
 
✴️ PHÁI TÍNH – GÁNH NẶNG TRẦM LUÂN

Đức Phật xác nhận trên đời này không hề có một trần cảnh nào mà cuốn hút đàn ông cho bằng trần cảnh liên hệ đến phụ nữ : hình dáng, âm thanh, mùi vị, sự xúc chạm với phụ nữ. Và ngược lại cũng không có cảnh trần nào cuốn hút người nữ cho bằng năm trần có liên hệ đến người nam.

Theo Chú giải, chúng sinh trong đời (nói về cõi Dục) có nhiều hướng khác nhau :

1- Rūpagaruka: xem trọng hình sắc.
2- Saddagaruka: xem nặng âm thanh (thích nghe tiếng hát, tiếng cười, tiếng nói, tiếng thầm thì, tiếng thủ thỉ, tiếng hổn hển… của đối phương)
3- Phasagaruka: thích sự êm ái sờ chạm trên da thịt
4- Gandhagaruka: thích mùi
5- Rasagaruka: thích vị
6- Pancagaruka: thích cả năm, hạng này thích tùm lum

Tùy mỗi cá nhân mà có sở thích khác nhau, tôi biết có người mấy chục năm trời chạy theo công nghệ chỉ làm một việc là lưu trữ giọng hát của một vài ca sĩ mà họ thích, có người thích sưu tầm nước hoa, có người thích sưu tầm rượu, tuy nhiên ở đây Đức Phật dạy không có gì hơn được năm trần mà liên hệ đến phái tính.

Đàn ông có thích nhậu nhẹt, săn bắn, câu cá gì đi nữa nhưng nếu tính trên tỉ lệ nam giới trên toàn cõi hành tinh này, kể cả các nhà mô phạm, các nhà tu hành trong các tôn giáo thì phải nói số người phải lòng cọng xương sườn số 7 này coi bộ hơi nhiều. Phải thừa nhận rằng bài kinh “Nam sắc và Nữ sắc (Phẩm sắc - (Rūpādivaggo) xác nhận một chuyện rất là căn bản và chân lý : đã là trong chúng sinh cõi Dục thì vấn đề phái tính là rất là quan trọng, nó là gánh nặng trầm luân.

Nhu cầu ăn mặc, tiêu xài, du hí tuy rầm rộ nhưng chỉ nằm ở một bộ phận nào đó trong nhân loại chứ còn nhu cầu sinh lý, tình cảm của cả hai phái nam và nữ thì gần như toàn cầu. Ở thế giới sinh vật, các loài động vật gồm muông và thú thì đực cái trống mái là vấn đề lớn, còn trong thế giới loài người thì có phái đẹp, phái mạnh.

Gom chung lại thì có thể nói :
- Trong tâm hồn của người cầu giải thoát, Niết bàn là cứu cánh tối thượng;
- Trong tâm hồn của người tu thiền Vô sắc thì lìa Sắc là cứu cánh tối thượng,
- Trong tâm hồn của người tu thiền Sắc giới thì sự lìa bỏ năm dục là cứu cánh tối thượng,

Nhưng trong tâm hồn người hưởng dục thì đỉnh cao chính là vấn đề phái tính. Chính phái tính ràng buộc nhau, ràng ta trong năm cảnh dục, là nền cho các dục khác.

Có người sẽ lắc đầu nói rằng :
- “Với tôi thì không phải vậy, đừng vơ đũa cả nắm chứ”.
Tôi xin nói thêm, bản thân sự có mặt của mỗi người trong room này cũng là do phái tính mà có. Trong đời sống xã hội bên ngoài, cho đến hôm nay người độc thân cũng được xem là thành phần thiểu số, là một bộ phận “có vấn đề” của nhân loại, trừ tu sĩ.

Một người đàn ông mà không có người đàn bà cho mình để thương nhớ hờn giận ghen tuông thì trong mắt thiên hạ là người có vấn đề. Phái tính là cái nền của cõi Dục, trên cái nền đó mới có chuyện gầy dựng sự nghiệp.

Nếu không có bóng hồng thì sự nghiệp này cho ai, ruộng đất thẳng cánh cò bay này dành cho ai, ai sẽ là người sanh con nối dõi tông đường.

Nếu không có bóng hồng thì thế giới này sẽ không còn hoa nữa, không hoa làm gì còn có trái, làm gì có bướm, có ong. Các nhà sinh vật học nói rằng nếu một sớm mai hồng nào đó thức giấc nhìn ra ngoài cửa sổ đón tia nắng bình minh đầu ngày và được tin báo rằng con ong cuối cùng đã rời bỏ trái đất mà đi, thì khi đó nhân loại phải hiểu rằng đó là một buổi sáng tương đương một cuộc thế chiến thứ ba với sự can thiệp của vũ khí hạt nhân.

Vì không còn ong thì cây trái không còn được thụ phấn. Không thụ phấn thì người ta phải sống bằng thứ lương thực gì đây.

Trong phần năm trần liên hệ đến phái tính gợi ý cho chúng ta một vấn đề là trên Phạm Thiên không có vấn đề phái tính. Vì trên cõi Phạm Thiên đã lìa năm dục. Lìa năm dục thì không còn vấn đề phái tính. Lìa năm dục thì không còn bất mãn ghét sợ nên Phạm Thiên cõi thấp nhất cũng không có dục ái và sân. (Vì không còn dục mà dục thì lấy phái tính làm gốc. Còn hưởng dục là còn phân biệt phái tính. Còn dục, còn phái tính là còn bất mãn ghét sợ).

Chương này sâu vô cùng, sâu thăm thẳm dò không thấy đáy bởi Đức Phật đang chạm vào đáy sâu của tâm tưởng phàm phu chúng ta. Chính vì chưa lìa được dục, chưa thấy tội khổ, nguy hiểm trong các dục nên mỗi người tùy căn cơ sở tánh mà thích cái gì. Thích luôn gắn liền với ghét sợ. Ghét và sợ làm phàm phu đau khổ. Ghét và sợ có từ thương thích mà ra. Chỉ có cái thích trong 5 dục trần mới dẫn đến ghét sợ.

Tóm lại : Ở đâu có vấn đề phái tính thì ở đó có năm dục, ở đâu có năm dục thì ở đó có ghét sợ, ở đâu có ghét sợ thì ở đó có đủ ba khổ dạng thô nặng.
 
NĂM TRIỀN CÁI LÀ GÌ

1. Dục triền cái là: niềm đam mê ở trong 5 trần.

2. Sân triền cái là: sự bất mãn trong 5 trần.

3. Hôn thụy là: trạng thái tâm dã dượi, lười biếng và buồn ngủ.

4. Trạo hối có 2 là trạo cử tức là không định, và hối hận về cái chuyện mà mình không có làm.

5. Hoài nghi cái có nghĩa là: sự hoang mang, nghi hoặc về bản thân mình, về con đường hành trì, về Tam bảo, về thầy bạn liên hệ đến chuyện tu tập.

Tổng cộng lại thì gọi là 5 triền cái.

Để đối phó với 5 triền cái đây, theo Chánh Kinh, thì đối phó với dục triền cái thì mình có bất nhã, sân triền cái thì có từ tâm, hôn thụy thì có sự tinh tấn, trạo hối thì có tâm tịnh chỉ, còn nghi hoặc thì có như lý tác ý. Đó là phần Chánh Tạng. Ở đây mình học thêm ở phần Chú giải.

Chú giải là phần triển khai rộng rãi hơn nữa, các vị Alahán xét thấy rằng nói gọn quá thì có nhiều người mơ hồ, nên các vị mới giải thích thêm, nhưng nội dung vẫn xoay quanh Chánh Tạng.

Trong Chánh Tạng nói rằng để đối phó với Dục triền cái thì không nên tác ý đến cái đẹp, hay ho của sự vật, mà thấy cái gì cũng là vô ngã vô thường. Bởi vì có chữ như lý tác ý (yoniso manasikara) rất là hay, tức là tác ý đến tánh sanh diệt, vô ngã vô thường của trần cảnh, đó gọi là khéo tác ý. Đó là nói theo Chánh Kinh. Còn các vị Alahán triển khai thêm.

Các vị nói rằng có 6 điều kiện đối trừ Dục triền cái:

1. Asubhanimittassa uggaho là học kỹ các đề mục bất mỹ. Học kỹ các đề mục bất mỹ gồm có 32 thể trược và 10 loại tử thi. 32 thể trược là tính từ trên đầu mái tóc xuống tới gót chân : tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương… tức là từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ tế đến thô.

2. Asubhabhavananuyogo là thực hành quán chiếu các đề mục bất mỹ.

3. Indriyesu guttadvarata Thu thúc lục căn.


4. Bhojane mattannuta Ăn uống chừng
mực, có nghĩa là: không có 2 cái quá :
không ăn quá no như mình thích và không tìm cái quá ngon - quá thơm - quá vừa miệng như là mình muốn.

5. Kalyanamittata Gần gũi minh sư thiện hữu, minh sư là thầy giỏi, còn thiện hữu là bạn lành.

6. Sappayakatha có nghĩa là chỉ nói năng, trao đổi những cái đề tài hỗ trợ cho mình chán Dục. Chứ gặp nhau toàn nói cái này cái kia để mà kích thích lòng Dục thì không được.

Sáu điều kiện tiêu trừ Sân triền cái:

1. Học kỹ về đề mục từ tâm.
Thí dụ như có 7 đối tượng rải cho 10 hướng, rồi cộng với 4 lời nguyện. Như nguyện tất cả người nam trong hướng đông không oan trái lẫn nhau, được an vui, biết tự bảo trọng. Rồi tất cả người nam trong hướng bắc, xong lấy 10 hướng nhân cho 4 câu nguyện. Làm đúng như vậy thì tâm mình dính chặt vô đó không phóng được nữa, thì cái đó gọi là học kỹ đề mục từ tâm.

2. Thực tập đề mục từ tâm, tức là mình học kỹ rồi mình bỏ túi là không được mà phải thực tập, thực hành đề mục từ tâm.

3. Kammassakatapaccavekkhana là biết suy tư về nghiệp lý để biết mọi người có nghiệp riêng, nghĩ rằng ai đó hãy để cho nghiệp ác của họ xử họ là đủ rồi. Thương ai mình giúp thì giúp nhưng mà mình cứ nghĩ trong bụng rằng: mình giúp không bằng cái thiện nghiệp của họ giúp cho họ, mỗi người có nghiệp riêng.

4. Thường có thói quen sống thâm trầm gọi là Patisankhanabahulata: gặp cái gì cũng sống suy nghĩ - suy tư về Phật Pháp.

5. Gần gũi minh sư thiện hữu.

6. Đề tài nói năng thích hợp với Pháp môn mình đang tu tập,
mình đang trau dồi cái gì thì mình chỉ nói năng trao đổi về cái đề tài đó thôi, thì mình mới mạnh được. Trong khi mình đang tu tâm từ, mà người nhiều chuyện, họ cứ thọc đầu này, chọt đầu kia, mình ráng sức dóng cái tai lên nghe thì như vậy là chết rồi! Tôi không dám nói tôi là hành giả, mà tôi đã gặp trường hợp đó rồi. Có lúc mình cũng tự nhủ tu tâm từ kiếm chút phước, nhưng mà cầm phone lên là nghe họ tố khổ, họ tả oán người khác là mình chịu không nỗi, nổi điên theo.

Cho nên Sappayakatha rất là quan trọng, tu cái gì không cần biết, chỉ biết là cái đề tài nói năng, trao đổi là rất quan trọng. Đầu bình thường nghĩ nhiều về cái gì, người bình thường gặp gỡ là ai, đề tài nói chuyện là gì, rất quan trọng.

Sáu điều kiện đối trừ Hôn Thụy:


1. Atibhojane nimittaggaho: ăn uống chừng mực, biết rõ các tác hại của chuyện đầy bụng, không phải chỉ nghe thoáng qua mà phải biết rõ. Bản thân chúng tôi cứ bữa nào mà hơi lỡ đũa thì người rất là mệt, nó buồn ngủ, dật dờ, óc ách, nhiều khi cần uống nước cũng không có chỗ chứa nữa, cái đó khổ dữ lắm, mà nó buồn ngủ dữ lắm.

2. Thường xuyên thay đổi oai nghi thích hợp, oai nghi tức là tư thế sinh hoạt. Ngồi, nằm lâu quá rồi không có tốt, đừng thấy nằm sướng quá cái nằm luôn, thấy ghế bố êm quá cái ngồi luôn, đó là không có được, đối với hành giả không có cái vụ mà quá quá, đã quá hoặc là khó chịu quá là hành giả phải có cách xử lý , chứ không thể nào để cho cơ thể mình, thân tâm mình trong tình trạng mà quá quá đó là không tốt.

3. Tu tập đề mục ánh sáng, hoặc là đang nghĩ rằng mình ở chỗ sáng. Chánh Tạng kể khi Ngài Mục Kiền Liên đắc Tu đà hườn rồi Ngài đi xuất gia thọ Đại giới, Ngài cũng vào chỗ vắng vẽ để thiền định, mà Ngài bị buồn ngủ chịu không nỗi. Lúc đó Đức Phật xuất hiện chỉ Ngài Mục Kiền Liên cái cách như tự xoa bốp tay chân, lấy nước lạnh rửa mặt, mở to mắt nhìn lên bầu trời đêm, nháy mắt, nghĩ tới ánh sáng, nghĩ tưởng mình đang ở chỗ sáng sủa, chói rực, đó gọi là tác ý ánh sáng.

4. Abbhokasavaso là phải sống chỗ thông thoáng, trống trải, không có che khuất.

5. Sống gần người lành.

6. Đề tài nói chuyện thích hợp.

Sáu điều kiện đối trừ Trạo Hối:

1. Bahussuta: phải chịu khó siêng năng học hỏi Giáo lý.

2. Paripucchakata: thường xuyên vấn đạo để phá nghi,
không nên để thắc mắc hoài là không tốt.

3. Vinaye pakatannuta: phải học kỹ và giữ kỹ Tạng Luật.

4. Vuddhasevita : gần gũi thân cận Hiền Thánh.

5. Sống gần bạn lành.

6. Đề tài nói chuyện thích hợp.



Sáu điều kiện đoạn trừ Hoài Nghi:

Cũng y như 6 điều kiện để đối trừ trạo hối, chỉ có điều 4. là tìm mọi cơ hội để trau dồi niềm tin.


Sư Giác Nguyên giảng
Trích bài giảng Kinh Tăng Chi số 003
 
Có người không hiểu Phật, cho rằng

CỨU CÁNH NIẾT-BÀN GÌ MÀ BUỒN QUÁ ĐỖI


Cái họ cần đến là một nơi chốn thơm ngát mát mẻ có thể tung tăng vọng niệm, hoặc thanh cao hơn một tí là có chỗ để họ ngồi… tụng kinh !

Có người không hiểu Phật, than các pháp môn tu hành truyền thống khô khan quá. Họ bày biện nhiều trò nghe qua đã thấy hấp dẫn. Có điều là sau mấy chục năm TU VUI kiểu đó, một ngày kia họ phát hiện mình vẫn đứng yên ở chỗ xuất phát.

Có người không hiểu Phật, than lời Ngài có vẻ khó theo, bèn tự kiếm ra một con đường xem chừng ngắn hơn, dễ dàng hơn, dễ hiểu hơn.

Cuối đời, họ giật mình ngó lại, mình chẳng còn là một Phật tử nữa, món duy nhất còn giữ lại được CHỈ LÀ CÁI PHÁP DANH sư phụ đặt cho ngày trước.

Nhìn lên ảnh tượng Thế Tôn, họ bỗng thấy xa lạ quá chừng !


Vậy thì trong mấy mươi năm hoằng pháp
đức Phật đã nói những gì?

Nói kiểu ỡm ờ thì Ngài chẳng nói câu nào hết.
Nói cận nhân tình một chút thì suốt cuộc độ sinh,
đức Phật chỉ nói đến hai chuyện:

1. CÁI GÌ LÀ KHỔ ĐAU ?

2. THẾ NÀO LÀ CON ĐƯỜNG THOÁT KHỔ ?!

Chưa thấy được việc trầm luân sinh tử là một gánh nặng thì có bôn ba, đôn đáo cách mấy cũng quẩn quanh trong những hình thức hiện hữu cách này hay cách khác. Nhà Phật gọi đó là SAMSĀRA ☞ tức là hành trình của những tái hiện, trùng phục, lặp lại những thứ đã diễn ra từ vô thủy như những bèo bọt trên sóng nước.

Chưa thấy được lý tưởng căn bản của đường tu là THẤU SUỐT, BUÔNG BỎ và LỢI THA thì mọi đạo lộ đều có thể là những lối mòn quẩn quanh.

Chưa thấy chán ngán những trò đùa hí lộng của nhân gian, người ta vẫn còn đắm lụy những thứ màu mè trẻ con, không thật sự cần thiết cho HÀNH TRÌNH TRƯỞNG THÀNH của bản thân.

Bao nhiêu bày vẽ, bay nhảy, tô điểm, thêm thắt

ĐỀU CHỈ LÀM MẤT THỜI GIAN trước cái gọi là Nội Dung Phật Pháp ấy...
 
ĐỪNG BẮT CHƯỚC NGƯỜI TA "TU KHÔNG CẦN HỌC"

Chánh tạng :

6. Này các Tỷ-kheo, có hai hội chúng này. Thế nào là hai?
Hội chúng được huấn luyện trong khoa trương, không được huấn luyện trong chất vấnhội chúng được huấn luyện trong chất vấn, không được huấn luyện trong khoa trương.


Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội chúng được huấn luyện trong khoa trương, không được huấn luyện trong chất vấn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo đối với các kinh điển do Như Lai tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các kinh điển ấy được thuyết giảng, họ không khéo nghe, không lóng tai, không an trú tâm để hiểu biết chúng, không nghĩ rằng các pháp ấy cần phải lãnh thọ, cần phải học thuộc lòng.

Nhưng đối với các kinh điển thi văn do thi sĩ làm ra, với các nguyên âm hoa mỹ, với các phụ âm hoa mỹ, các kinh thuộc ngoại giáo, được các đệ tử ngoại giáo nói lên, khi các kinh điển ấy được thuyết giảng, họ khéo nghe, họ lóng tai, họ an trú tâm để hiểu biết chúng, họ nghĩ rằng các pháp ấy cần phải lãnh thọ, cần phải học thuộc lòng.

Và sau khi học thuộc lòng các pháp ấy, họ không hỏi đi hỏi lại cùng nhau, không có mở rộng ra để thảo luận với những câu hỏi như: "Cái này là gì? Thế nào là ý nghĩa của cái này?"

Họ không mở rộng những gì được che kín, hạng không phơi bày những gì không được phơi bày, họ không giải nghi về những điểm nghi vấn trong Chánh pháp.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng được huấn luyện trong khoa trương, không được huấn luyện trong chất vấn.



----------------------

Cho rằng Học mất thời gian lắm rồi cứ tập trung vô Thiền thôi.
Bây giờ cái phong trào Hành không cần Học nó cứ lan ra.



Có những người tôi gặp họ nói thiệt mới thấy thương "Hồi xưa con trót nghe cái lời đó. Bây giờ con ngồi thiền con bị đủ thứ chuyện mà con không biết. Mà lên hỏi thiền sư, thiền sư giải thích con cũng không hiểu."

Cái vấn đề là ngày xưa không biết ai rù quyến họ rằng học làm chi mất thời gian, chỉ tập trung vô hành. Thay vì tìm hiểu về nước, mình cứ múc nước mình uống đi.


Nghe nó rất là dễ hiểu nhưng mà cái chuyện tu hành nó khác chuyện uống nước. Thế là họ không biết gì hết, khi họ hành thiền nó nảy sinh đủ thứ vấn đề hết. Rồi lên hỏi thiền sư, thiền sư giải thích họ cũng không hiểu bởi vì thiền sư giải thích còn chuyên môn mà.


Họ giải thích chuyên môn thì lúc đó mình không hiểu. Rồi thiền sư phải giải thích cặn kẽ, mà cặn kẽ cũng như không khi mình không có căn bản. Mà tôi giả định thiền sư kiên nhẫn giải thích thì thiền sư làm được cho bao nhiêu hành giả? Năm chục tên nó đông như quân Nguyên, mà giải thích cho tên nào cũng dắt nó đi từ cái thuở còn thơ kiểu đó thì chết ông thiền sư rồi. Mà chuyện đó là chuyện bất khả.


Là vì sao? Là vì nó không có căn bản, nó không biết cộng trừ nhân chia mà bây giờ dạy nó đại số là dạy cái gì? Nó chưa biết viết abc mà dạy nó phương trình, đẳng thức là dạy cái gì? Mà do bị rù quyến nên nghe rất là có lý. Mà tại sao vậy?


Tôi nói thẳng luôn. Mình học dở, lại lười học, thì nghe vậy nó rất là khoái. Nghe bạn nó nói là "Mình là người phàm, giống như người khát nước vậy. Cứ vô là thiền sư múc nước cho uống. Chứ giờ em dành thời giờ học ba cái chemical, nào là hydro, oxygen, nitro, rồi carbonic chi chi đó cho nó mệt. Mệt lắm em. Dẹp, dẹp, dẹp hết. Không có học gì hết, cứ múc nước uống thôi".


Nghe rất là sướng. Nhưng khi nó va chạm thực tế rồi nó mới biết mùi. Tối đang ngồi, bao nhiêu vấn đề nó tràn vào, nó ập ra, lúc đó mới tá hỏa, mà cái đau nhất là lên hỏi thiền sư, thiền sư nói mình không hiểu mới tội nghiệp chứ. Hồi đó mình trông cậy vào sư phụ mà lên sư phụ nói mình không hiểu. Tôi nhắc lại vì mình chưa có hiểu cộng trừ nhân chia, mà cái đó phải giải thích bằng toán lớp 10, lớp 12. Ông sư phụ không thể nào ổng giảng cái đó cho một đứa không biết cộng, trừ, nhân, chia.

Mình tu là mình phải học. Từ lúc tôi bị tiểu đường nhóm hai là tôi phải tìm hiểu, nói chi là cái chuyện học Đạo. Những gì tôi giảng ở mấy lớp học trước, quý vị có thấy không, tôi mở cho quý vị một chuyện là anh phải biết cái này cái kia để anh tu, chứ tôi đâu có kêu quý vị học trở thành học giả để mà cãi lộn đâu.
Không có. Nhưng mà anh phải biết cái này cái kia. Và những cái sáng giờ tôi nói hoàn toàn do pháp môn Tứ Niệm Xứ. Tôi đâu có dạy cái chuyện học lý luận sắc bén rồi đi cãi lộn với ai. Không có. Sáng giờ tôi nói toàn mấy chuyện của hành giả thôi.


Ở đây tôi nói một cách chân tâm, chân tình, không quảng cáo. Tôi mong có một ngày khi Kalama xong rồi, thì mỗi khóa tu ở đó tôi sẽ chia làm hai phần lý thuyết và thực hành, theory và practice. Là sao? Ở mấy thiền viện khác, hành giả vào tu có nhiều khi họ mù tịt lúc họ ra đi.


Họ vô họ nghe, thiền sư nói nhẹ lắm, nói ít lắm "Kể từ hôm nay, trong mười ngày đầu bà con theo dõi đề mục hơi thở. Cái cách là bà con biết rồi, ra biết ra, vào biết vào, không có suy nghĩ gì hết, chỉ theo dõi, không có điều khiển. Có cái gì ngộ ngộ thì hỏi chúng tôi hoặc hỏi mấy ông phụ tá hoặc là hỏi bạn kế bên nha. Rồi bà con ngồi. Lựa một tư thế thoải mái. Mùa nào thì mặc y phục mùa đó nha, ấm, mát, sao đó thoải mái, đừng gồng."


Rồi đó. Xong. Nói nhiêu đó thôi. Rồi cái đầu mình rỗng không, không có gì hết, thì thôi. Người có đầu óc đơn giản thì như vậy cũng được. Nghĩa là ra biết ra, vào biết vào, như vậy thôi. Cứ vậy đó rồi có người đi về không biết gì hết. Hoặc có những khóa thiền trước khi dạy đề mục hơi thở thì mình bỏ ra ba ngày để mình học đề mục Từ tâm.


"Từ tâm là sao? Là lựa một tư thế thoải mái, một chỗ ngồi thoải mái rồi nghĩ tưởng đến tất cả chúng sanh, Nam, nữ, siêu, đọa, phàm, thánh, trong hướng Đông. Mong muôn loài ở hướng Đông được an lạc, an lành. Rồi qua hướng Tây ... mong tất cả nam, nữ, siêu, đọa, phàm, thánh ... rồi Nam ... Bắc. Xong chưa?". Rồi ổng làm thêm một câu nữa "Muốn tưới nước thì trong thùng phải có nước. Muốn rãi tâm từ thì mình phải có tâm từ. Xong chưa?" - "Dạ", gật cái nữa - "Ngồi!".


Thả ra cho về thằng nhỏ không biết gì hết.
Vấn đề là nó không có học giáo lý. Nó bị ai đó nhồi, các thế lực phản động thù nghịch nó nhồi sọ "Tu không cần học gì hết, cứ vô ngồi."


Mà nghe thì rất có lý: "Mình khát mình cứ uống nước mắc gì nghiên cứu về hóa chất làm chi". Nghe rất là hay tới hồi vô trong đó mới biết không học thì không biết gì hết.
Nếu hai mươi sáu thế kỷ qua các thế hệ truyền thừa về Phật giáo mà toàn là mấy người chủ trương không cần học gì đó, thì bữa nay Phật giáo mình chắc chết dịch hết rồi.
 
Sửa lần cuối:
Chết Đuối

Có bốn hạng người:

Hạng thứ nhứt, có học mà không hành.
Hạng thứ hai, có hành mà làm biếng học.
Hạng thứ ba, vừa có học, vừa có hành.
Hạng thứ tư, là cả hai đều zero.

Thì tối thiểu, mình không có hành nhưng mình có học nó cũng đỡ. Bởi vì mình không có tu mà mình bày cho thằng khác nó tu cũng còn đỡ. Còn đứa không có học là chết cả hai đứa. Hai đứa ôm nhau chết chìm. Còn nếu mình học mà mình không có hành là ít ra mình cũng có cái phao liệng cho thằng khác rồi mình vẫy tay chào nhau. Mình chết đuối nhưng mình liệng cho thằng kia được cái phao.

Cái đứa mà nó không biết lội mà nó cũng không xài phao thì nó và thằng chơi chung với nó cũng đuối luôn. Các vị có biết một chuyện là người chết đuối thường hay nắm nhau, các vị biết chuyện đó không ? Cho nên, dầu là đi cứu người thân, chuyện đầu tiên là dzộng vô mặt nó trước cái đã. Chứ để mà nó nắm, nó ôm là chết cả hai. Nếu muốn nắm là phải nắm một cách khôn ngoan. Mình phải dặn nó là bây giờ you nằm yên, you để tui làm sao tui làm, còn hai nữa là you chỉ vịn hờ, chứ you hoảng you ôm chặt tui là hai đứa "Chúa gọi cùng một lúc."

Cho nên là, cứu người cũng là một nghệ thuật. Trong kinh nói, không hề có chuyện, một người đang ở trong đầm lầy lại có thể cứu được người khác. Bản thân mình phải có thành tựu gì đó thì mình mới cứu được người khác, hiểu không ?

Thì ở đây là phải học giáo lý. Rồi bà con muốn hành thiển chỉ, thiền quán, samatha, vipassana gì đó thì là chuyện khác. Nhưng mà chuyện đầu tiên nhớ dùm tôi cài này: là phải học giáo lý.

Có người hỏi: "Sư ơi, sao con thấy con phận mỏng phước ít, trí con nó cạn, con buồn quá, không biết ngày xưa con có tu hay không mà học đạo con học rất là dở. Con nghe thầy giảng ba la mật mà con không biết con có ba la mật hay không?"

Tui nhớ tui đã trả lời. Theo trong kinh là thế này: Mình không cần biết. Ba la mật của mình trong cái kiếp đó không quan trọng, mà cái quan trọng là mình testing (trải nghiệm). Testing bằng cách nào? Mình cố gắng mình học như có thể, mình cố gắng mình hành như có thể. Nếu ba la mật nó đủ thì tự nhiên có những cái thành tựu mà mình không có lường được, hiểu không ?

Chứ còn cái chuyện mình thắc mắc: "Con có đủ phước, con có đủ duyên đắc đạo đời này không?" thì cái chuyện đó không quan trọng, mà cái chuyện quan trọng nhất là "Tận nhân lực tri thiên mệnh" tức là làm hết sức mình đi, rồi cái phần còn lại tính sau.

Tây nó cũng có một câu là: "Trời chỉ cứu đứa nào biết tự cứu." Có còn nhớ cái chuyện một ông linh mục mùa nước lũ, nguyên đám giáo dân nó nói: "Cha ơi cha, cha lên thuyền đi cùng tụi con." Ổng nói: "Không, chúa không có bỏ cha!" Một lát sau, cảnh sát đưa ca nô tới. Ổng cũng nói: "Không, chúa không có bỏ cha!" Lát sau, nước ngang tới cổ trực thăng tới, Ổng cũng nói: "Không, chúa không có bỏ cha!" Và năm phút sau ổng về trời. Ổng trách Chúa vì sao Chúa không cứu con thì Chúa nói: "Chúa đã gởi giáo dân, cảnh sát và trực thăng tới, mà ảnh không có lo, không có chịu đi." Câu chuyện nó hay vô cùng. Câu chuyện đó phải xăm lên trán.

Câu chuyện nó rất là hay. Có nghĩa là ổng đã hiểu sai về Chúa, ổng tưởng Chúa trời là một bàn tay bằng vàng, sáng lòa từ trên đưa xuống rồi bồng ổng lên. Không phải. Mà Chúa hiển hiện trong mọi hình thức.

Phật pháp cũng vậy. Phật pháp bất ly thế gian pháp. Phật pháp không rời thế gian.
Mình có thể thấy bóng dáng của Đức Phật ở bất cứ mọi nơi.
Lời dạy của Đức Phật phảng phất và bàng bạc khắp nơi.
 
Sửa lần cuối:
Bản thân cuộc sống của chúng ta là thức ăn của những sinh vật sống khác.
Đối với chúng ta, đây là cuộc sống.
Nhưng đối với người khác, đây chỉ là một bữa ăn.

Nếu chúng ta nhìn từ phía vòng đời hay Nhân và Quả của Bản chất vô thường luôn mới, tất cả chúng ta đều đã từng đi hại - cũng đã từng bị hại.

Tất cả chúng ta đều đã từng ăn (sinh vật sống) - và cũng đã từng bị ăn ở rất nhiều kiếp sống trước đây.
Đây là Sự thật & bản chất của cuộc sống. Bạn không thể thay đổi nó.

Vì vậy, thay vì cố gắng kết thúc nó, hãy luôn quán chiếu Sự thật này bằng con mắt của trí tuệ.

- Thiền sư Ottamathara -

Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'NẾU CHÚNG TA NHÌN TỪ PHÍA VÒNG ĐỜI HAY NHÂN VÀ QUẢ CỦA BẢN CHẤT Vô THƯỜNG LUÔN MỚI, TẤT CẢ CHÚNG TA ĐỀU ĐÃ TỪNG ĐI HẠI- CŨNG ĐÃ TỪNG BỊ HẠI. THIỀNS'OTTAMATHARA THARA SƯOTTAMA WERLANL'
 
KINH NGHIỆM CHỌN THẦY BẠN
“Ngưu tầm ngưu mã tầm mã”.

Ta ở đời phải biết lựa thầy để học và chọn bạn để chơi.
Nếu thấy thầy bạn có vấn đề, ta phải có tí gan để chia tay,
không nên vì quyền lợi cá nhân mà nhắm mắt trao đời mình cho thầy bạn bất xứng.
Vì thân người khó được mà chánh pháp khó gặp.


Bây giờ mình đem thân người của mình theo đám thầy bạn tào lao, hy sinh một đời thì uổng quá. Có những vị tu hành họ không có kiến thức để dạy ta, nhưng có những vị họ có cái đáng để cho ta nghe nhưng họ không đáng để cho ta nhìn vì đời tư họ tệ quá.

Phải nhớ điều này thì may ra các vị có được thầy bạn ok, chứ còn mình cứ khư khư vị đó nói nghe mình học được mà đời tư vị đó tệ mình thấy không được, mà nếu mình bỏ thì phí, hoặc vị đó nói nghe không xong mà mình bỏ cũng không nên, vì vị đó có cái để mình nhìn bắt chước.

Bởi vì chúng ta nên nhớ thế giới này có nhiều góc độ để chúng ta nhìn, thế giới này có khi ta phải lấy mắt quan sát nó, có khi ta phải dùng lỗ tai để lắng nghe nó, có khi ta dùng mũi để ngửi nó, có khi ta dùng lưỡi để nếm nó, có khi ta phải dùng xúc giác để sờ chạm nó và có khi ta phải dùng trí để tư duy về nó.

Thì ở đây cũng vậy có những vị thầy mình chỉ dùng lỗ tai để thưởng thức, có những vị thầy mình chỉ nên nhìn để bắt chước những hạnh lành và có những vị thầy mình chỉ nên dùng đầu để nghĩ về họ. Và tình cảm cũng vậy có những cuộc tình, có những quan hệ mà chúng ta chỉ mến nhau qua con mắt được rồi, nghe ca sĩ hát thích giọng hát đủ rồi, nhìn người mẫu đó, nhan sắc đó thấy thích là đủ rồi, yêu nhau bằng một vài căn trong 6 căn thì ok, chứ yêu nhau bằng cả 6 căn thì chết.

Có nghĩa rằng thì là có những trường hợp mình phải dùng mắt, dùng lỗ tai, dùng mũi, dùng xúc giác và có những trường hợp mình phải dùng trí của mình để mà suy tư. Đó là kinh nghiệm chọn thầy để thờ và chọn bạn để chơi.
 
CHÚNG TA RẤT CẦN ĐẾN SỰ HỖ TRỢ TỪ NHỮNG NGƯỜI BẠN LÀNH
Người lành ở đây là thầy là bạn, là những người có được chánh tín. Chánh tín là niềm tin có trí tuệ tin vào 3 điều sau: Tin lý nhân quả, tin nguyên tắc tam tướng, tin tác dụng của tứ niệm xứ (nếp sống có chánh niệm và trí tuệ).

-Giới Hạnh: Là thu thúc thân và khẩu, không nói hay làm những gì hại mình hại người.

-Đa Văn: Là lưu tâm các vấn đề giáo lý, vì thân người khó được, chánh pháp khó gặp, cơ hội học hỏi lời Phật rất hiếm hoi, hiểu được một tí thì đời ta thay đổi được một tí.

-Bố Thí : Là khả năng chia sẻ vật chất đến kẻ khác, do thương người và cũng do không muốn nắm níu chấp giữ sở hữu. Người biết đạo sẽ thấy cho vui hơn nhận, nhận chỉ được vui một lần nhưng cho thì vui nhiều lần. Nhận thì chỉ có ta vui, cho thì ta và người nhận đều vui. Đời sống là một hành trình càng buông bỏ thì càng nhẹ nhàng.

-Trí Tuệ :Là khả năng nhận thức để thấy được ba vấn đề của chánh tín: Thấy được lý nhân quả, thấy được nguyên tắc tam tướng (cái gì cũng do duyên sinh và do duyên mà diệt), thấy được tác dụng của tứ niệm xứ. Thánh nhân khác phàm phu ở điểm là tin chắc điều mình thấy và thấy rõ điều mình tin, phàm phu không được vậy nên cái gì cũng thấy được ở mức nửa vời.

Bây giờ các vị còn trẻ khỏe giàu đẹp ngon lành, quý vị thấy không cần, nhưng sẽ có một ngày khi các vị thấy rằng hình như vật chất nó giúp cho mình có cũng hạn chế, tinh thần mới là điểm tựa quan trọng. Về cõi tinh thần một mình mình có đủ không ? Hình như là không đủ. Chúng ta sẽ có lúc thấy hình như điểm tựa thầy bạn quan trọng lắm lắm.

Đời người ta có “câu buôn có bạn, bán có phường”. Làm gì cũng có phải có bạn có thầy.
Tôi tính nói : “không thầy đố mầy làm nên”, mà tôi sợ quý vị lật ngược lại nói:”làm thầy mầy không nên đố“


Chứ thật ra lúc nào cũng phải có thầy có bạn, bởi vì chúng ta thấy cây nó mọc một mình, nó phát triển không giống cây mà nó mọc thành lùm thành bụi thành rừng. Quý vị thấy loài mà nó dễ bị tuyệt chủng thường thì nó sống một mình, sống cô độc khả năng tuyệt chủng càng cao. Thí dụ như mình thấy những con tê giác bầy nó không có đông.

Cho nên sự hỗ trợ đám đông rất là tốt. Tuy nhiên chuyện đâu nói đó chứ đừng có cộng tùm lum. Phật dạy chúng ta phải sống độc cư, yêu cái nếp sống một mình, nhưng ta phải luôn sẵn sàng có thầy bạn, không nên là người chạy trốn thầy bạn một cách cực đoan. Cực đoan có nghĩa là mình thấy hình như có ai đó, hễ có người là phiền. Cái đó là sai tôi không đồng ý.

Quý vị coi kinh kỹ lại, ngài xá Lợi Phất là vị A-La-Hán đệ nhất trí tuệ, nhưng ngài không chán sợ đám đông đến mức dễ sợ như vậy. Ngài rất thích nghe pháp, đây là chuyện có thể trong room không tin, chắc nghĩ ngài chỉ nghe một mình Đức Phật, bởi vì ngài đệ nhất thinh văn, đệ nhất trí tuệ là huynh trưởng anh cả trong tăng già thì ngài còn nghe ai. Nhưng không phải như vậy, ngài rất thích nghe pháp, có những lần ngài ngồi nghe pháp với tất cả niềm hoan hỷ, khi đệ tử ngài mới 7 tuổi ngồi thuyết pháp, và ngài đặt những câu hỏi, ngài thích lắm. Và sau đó ngài lặng lẽ đi về rừng sống một mình.

Cứ có điều kiện là ngài ghé về gặp Đức Phật chư tăng huynh đệ, và trong pháp hỷ, pháp thoại mình làm sao bì được một phần tỉ của ngài Xá Lợi Phất, vậy thì mình không thể chạy trốn thầy bạn, cho là cực đoan bây giờ tôi thích sống một mình, tôi gặp đám đông tôi mệt. Cái đó nghe nó hay nhưng ngồi ngẫm lại đám đông mà đông như thế nào.

Cho nên chúng ta rất cần đến sự hỗ trợ từ những người bạn lành.
 
Sẵn đây tôi cũng xin nói luôn...
Các vị phải xăm phải xăm những câu này lên trán, lên mình... :

• Thánh nhân hiểu rất rõ cái điều mình tin nên tin chết bỏ cái điều mình hiểu. Còn phàm phu không hiểu lắm cái điều mình tin nên không tin lắm cái điều mình hiểu.

• Làm gì cũng phải có thầy và bạn. Trong chuyện tu học cũng vậy. Nhưng không gì thảm bằng cảnh một người suốt đời nhắm mắt đi theo một pháp môn hành trì mà chính mình chỉ hiểu biết mơ hồ, trong khi lý do của sự đáng tiếc đó chỉ đơn giản là niềm tin hay tình riêng với ai đó. Đời ta rẻ đến vậy hay sao? Trăm năm đâu phải tấm giẻ rách mà coi thường quá vậy!

• Toàn bộ Phật Pháp, 84 ngàn pháp môn chỉ nhắm nói đến 2 việc: nên làm và không nên làm. Chuyện nên làm là gì: là "đề phòng" và "khắc phục". Chuyện không nên làm là gì: là không làm những chuyện để mình phải mất công khắc phục sửa chữa.

• Này các Tỳ kheo, ở nơi chốn nào mà các ngươi phát hiện ra các pháp bất thiện, các tham sân si của mình có cơ hội phát triển mạnh, thì này các Tỳ kheo, cho dù ở đó các ngươi có được đón chào cỡ nào đi nữa, có được sung sướng tiện nghi đến đâu đi nữa... thì các ngươi cũng phải lìa bỏ mà đi, dù phải đi ngay trong đêm. Còn nơi chốn nào dù các điều kiện vật chất tồi tàn, khó khổ, mà các ngươi ở thấy các thiện pháp: thiền định, trí tuệ... phát triển tăng trưởng, thì dầu có bị xua đuổi cũng ráng mà ở lại.

Nhưng rất tiếc những câu Kinh này giờ các phật tử không được nghe hoặc không nghe không chịu đọc... Ấn tống Kinh sách băng đĩa thì được nhưng nghe đọc thì không, giãy nảy như sợ Kinh cắn... dù khoe trong nhà tủ sách đầy Kinh, bọc da mạ vàng hẳn hoi nhưng đến khi chết cũng chưa 1 lần giở sách Kinh ra đọc...

• Ta ở đời phải biết lựa thầy để học và chọn bạn để chơi. Nếu thấy thầy bạn có vấn đề, ta phải có tí gan để chia tay, không nên vì quyền lợi cá nhân mà nhắm mắt trao đời mình cho thầy bạn bất xứng. Thân người khó được, chánh pháp khó gặp, bây giờ mình đem cái mạng của mình đi theo đám thầy đám bạn tào lao hy sinh một đời thì đau quá.

• Cái gì cần cộng thì cộng, cần trừ thì trừ, cần nhân thì nhân cần chia thì chia. Vd tài sản thì nên chia, thiện pháp thì nên nhân, người lành thì nên cộng, người xấu việc xấu thì nên trừ, đơn giản vậy thôi.

• Mọi học thuyết tôn giáo, chính trị... là để phục vụ chúng sinh. Chứ không phải bắt chúng sinh phải phục vụ một học thuyết chính trị, tôn giáo nào đó...!

• Đừng tự biến mình thành con nhang đệ tử, mà hãy trở thành người học trò có học giáo lý và thực hành giáo lý vào đời sống hàng ngày.

• Chúng ta bị nghiệp lực lôi đến đâu là chấp nhận úp mặt mãi trong nghiệp lực ở đó, không dám ngóc đầu dậy...!

- Giáo lý không được học
- Giáo lý không được giảng
- Giáo lý không được tạo điều kiện để truyền bá
- Giáo lý không được trùng tuyên (tụng đọc) thường xuyên
- Giáo lý không được nghiên cứu, nghiền ngẫm đúng mức.


Đây chính là 5 điều đẩy Phật Pháp đến chỗ bị mạt, đẩy Chánh Pháp vào bóng tối lịch sử và biến mất ở đời
.

• Đối với cổ nhân, tiền nhân tiền bối - những thế hệ đi trước, ta nên là học trò để học những cái hay của họ, chứ không nên là nô lệ nhắm mắt mà đội họ lên đầu, đội luôn cả những rác rưởi của họ.
• Nếu phải gieo duyên trên đường sinh tử thì chỉ nên gieo duyên gặp gỡ thánh hiền, hiền nhân, không nên gieo hai thứ duyên ái luyến và căm ghét ai đó.


• Cuộc đời này không có gì đáng để cho ta yêu thích hay ghét bỏ. Không có gì đáng để ta theo đuổi hay trốn chạy!
• Giá trị của một người tương đương với những gì mà đủ khiến anh ta đam mê hay bất mãn.

• Đối với những người hạ căn khi nghe nói đến tính vô thường, không có gì để thích để ghét, nghe như vậy sẽ buông bỏ mọi công việc danh lợi nhan sắc quyền lực tài sản... thế gian. Bậc trung căn nghe như vậy sẽ từ bỏ thiền định thành công - nghĩa là vẫn tiếp tục tu nhưng lòng không nắm chặt. Bậc thượng căn hành đạo cầu giải thoát mà không thấy mình hay, chỉ thấy sự giải thoát chứ không có người giải thoát.

• Chỉ có người lành mới có tâm lành để nói lời lành. Cho nên nói đời tu là để trau dồi lời Lành thì cũng không sai.

• Từng phút trong đời ta là những chuẩn bị cho cảnh giới tái sanh, môi trường sống và kiểu tu chứng sau này. Tôi nói rõ hơn: Toàn bộ đạo nghiệp hôm nay của ta, toàn bộ đạo nghiệp mai này của ta, toàn bộ đời sống hiện tại của ta, toàn bộ đường đi lối về của ta mai này nó đều nằm gọn trong những gì ta lưu tâm, ta nặng lòng với nó trong từng phút giây hiện tại. Ta nghĩ nhiều về cái gì, ta thường cọ xát, gặp gỡ với cái gì thì đó chính là cái đường đi lối về cho mai sau của ta.

• Trừ Thánh nhân, còn là phàm phu thì có đi đâu, đi bao xa thì cuối cùng vẫn trở về đơn vị gốc.

• Vấn đề lớn nhất của chúng ta là không biết vấn đề của mình nó nằm ở đâu.

• Tôi xin các vị đừng có bắt chước thầy bà sách vở nói cao siêu như là quán chiếu quán mùng gì hết, tôi ghét lắm. Không có mùng chiếu gì ở đây hết, mệt lắm. Cứ sống chánh niệm. Tôi nhắc đi nhắc lại hàng tỉ lần: học giáo lý và sống chánh niệm.

• Đừng có mới học được ba mớ đã tưởng mình hay. Mình chỉ là con giòi nên coi đống phân là cả vũ trụ là cả thế giới và chỉ biết úp mặt vào đống phân đó không còn biết ngẩng mặt lên để đi đâu về đâu... Đừng có biết được ba mớ mà sinh tâm ngã mạn. Phải hiểu mình là con bệnh đang cần thuốc chữa. Mắc chứng nan y thì có gì hay mà khoe. Lo mà uống thuốc chữa bệnh đi.

• Chỉ khi nào mình sợ sinh tử thì mình mới chán sự có mặt ở cuộc đời này.

• Tu làm sao đừng để má nhìn không ra.

• Chúng ta không thể đơn giản ngồi yên cầu nguyện Tam Bảo hay Chư Thiên hộ trì cho Phật pháp trường tồn để chúng sinh có được nẻo lành mà sống đời hay hành đạo. Mọi sự nằm hết ở tâm can người cầu giải thoát. Ngày nào còn có người thiết tha tìm hiểu, ghi nhớ và hành trì lời Phật thì khi đó Phật pháp vẫn còn được biết đến ở đời.

Mong lắm vậy thay!
 
👩‍❤️‍👩
🥀
BẠN XẤU LÀ GÌ?
💔

Bạn xấu có nghĩa là những người mà mình ở gần họ, cái pháp lành của mình bị mòn hao: Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ, tức là niềm tin bị mòn hao, sự tinh tấn bị mòn hao, chánh niệm bị mòn hao, thiền định bị mòn hao, trí tuệ bị mòn hao thì đó gọi là bạn xấu. Nhớ nha!

Bất cứ người đó là ai, là tăng hay tục, tăng ni, cư sĩ, bất kể người thân hay người dưng, máu mủ hay là người chưa quen biết, bất kể ai, nhưng mà cái người nào mà mình ở gần họ những pháp lành bị mòn hao mà những pháp xấu: tham - sân - si - ái - mạn - kiến - nghi mà nó tăng trưởng thì người đó được gọi là người xấu, là bạn xấu, cho dù cái người đó là sư phụ của mình, (cho dù đó là sư phụ của mình, nha!). Cho dù đó là người truyền giới cho mình, nhưng nếu mình ở gần họ mà cái thiện pháp của mình nó bị mòn hao, cái ác pháp nó tăng trưởng, lớn mạnh, thì cái đó gọi là bạn xấu.

Tôi nhắc lại.

Dầu đó là bậc trưởng thượng, khả kính trong lòng của mình nhưng nếu mà mình ở gần họ mà cái thiện pháp lùi sụt, ác pháp tăng trưởng thì lúc bấy giờ được xem là mình đang sống với bạn xấu. Và ngày nào bản thân mỗi tỷ kheo lánh xa được những người đó thì lúc bấy giờ bản thân vị đó có hy vọng trong cái đạo nghiệp và khi một tỷ kheo có hy vọng trong cái đạo nghiệp cũng có nghĩa là sức mạnh của tăng đoàn được củng cố. Cho nên, cái chuyện LỰA BẠN ĐỂ CHƠI cũng được xem là một PHÁP BẤT THỐI, nhớ nha!

Mình hay bị ám ảnh: Đó là máu mủ của tôi, đó là bà con của tôi, đó là huynh đệ của tôi, đó là sư phụ, là thầy tổ của tôi làm sao mà tôi dám nhận xét họ?! Thôi thì bây giờ tôi cứ tùy duyên tôi ở. No! No! Không có “tôi”, ở đây không có “tôi” mà ở đây mình xem coi ở chỗ nào mà cái thiện pháp được phát triển, Tín - tấn - niệm - định - tuệ nó được phát triển, ở đâu mà tham - sân - si - ái - mạn - kiến - nghi mà nó giảm thì được xem là chỗ ở lành, bạn lành, thầy lành. Còn chỗ nào, dầu nó có vàng son rực rỡ, chói lọi đi nữa nhưng mà mình ở đó mấy cái pháp lành nó bị mòn hao thì được xem là mình đang sống chỗ xấu và bên cạnh là người xấu. Nhớ nha! Cái này rất là quan trọng.

Chỗ ở của người tu nó không được đánh giá trên điều kiện vật chất, tiện nghi, không dựa trên những tiêu chí tình cảm, cảm xúc mà nó phải dựa trên cái thành tựu đạo nghiệp khi mà mình đang có mặt ở nơi đó, khi mà mình đang gần gũi, kề cận con người đó, nhân cách đó, chứ còn cái người không có biết phật pháp thì cái tiêu chí, tiêu chuẩn chỗ ở của họ dựa trên những điều kiện mắc cười lắm.

Cho nên, mình đừng có ngạc nhiên là tại sao có những người ở cái nhà bạc tỉ mà họ không có an lạc, bởi vì lúc mà họ cất nhà, mua nhà, xây dựng, bồi đắp, vun xới cái tổ ấm đó, cái tiêu chí họ đưa ra không phải là đời sống tâm linh, mà là ở đây nó đẹp, đất này là đất dễ bán, ở đây tại vì chồng tôi thích, vợ tôi thích ba má tôi thích, vì tụi nhỏ nó thích biển, tụi nhỏ nó thích hồ, tụi nhỏ nó thích rừng, ok!

Nếu mình lựa chọn trú xứ mà mình lựa chọn những tiêu chí đó thì mình đừng có trách mai mốt, ngồi trên chiếu bạc, mâm vàng mà nước mắt đầy mặt. Trong khi cái tiêu chí tu học ở đây là, dầu đó là trú xứ hay là thầy bạn, lúc nào cũng phải dựa trên tiêu chí: “xây dựng thiện pháp và bài trừ ác pháp” thì trú xứ đó, thầy bạn đó được xem là tốt.
Đó là tiêu chí, đức Phật Ngài dạy cho mình.
 
NHƯ LÝ TÁC Ý - TỈNH GIÁC

♦️
1/Không như lý tác ý : là vô lý , không hợp lý


Đức Phật dạy rằng trên đời này không có gi mà nó phá thiện , dưởng ác bằng việc suy tư không hợp lý . Nó dẫn đến thích cái này ghét cái kia , mà toàn bộ khổ ải nhân gian là chỉ đi từ nguồn cội này là không suy tư hợp lý , quan tâm đến khí cạnh không hợp lý , từ đó mình mới khổ . ..

VD : Do suy nghĩ tào là mà đi câm giận một người , mà lẽ ra trên đời này không có ai đáng căm giận hết .
Câm hờn , giận ghét ái đó thì giống như mình uống thuốc độc mà mong cho người ta chết ...

Có 4 suy tư không hợp lý

🔸️
Đi tìm cái trường cửu trong vô thường ,
🔸️
Đi tìm hạnh phúc trong khổ đau ,
🔸️
Đi tìm cái tôi giả hợp trong cuộc đời vô ngã giả hợp ,
🔸️
Đi tìm cái đẹp trong cỏi nhân gian không có gì lấy làm đẹp .

Đức Phật nói : không có gì đẹp để mê , không có gì xấu để ghê

... Trong cỏi đời vô ngã , vô thường phù du bấp bênh này vậy mà ta kiếm tìm mong đợi một sự trường cửu , có nghĩa là có niềm tinh vào một thứ tình yêu, một thứ quyền lực, một thứ tài sản , một thứ sở hửu và một thứ tình cảm nào đó lâu bền ... sống trong cái tôi ảo tưởng , phù du ảo hóa ... Vì mọi thứ do duyên mà thành , do lắp ráp mà có ...

♦️
2/ Như lý tác ý


Trên đời này chỉ có 2 hạng người là dễ thương và đáng thương thôi , suy nghĩ như vậy là như lý tác ý .Người xấu , người bất thiện là người đáng thương . Người lành ,người thiện là dễ thương .

♦️
3/Tỉnh giác : Không có gì đẹp khi có cái đầu suy tư hợp lý


🔹️
Làm cái gì cũng phải biết nó có lợi có hại như thế nào
🔹️
Xét xem coi kiểu tu tập nào , hành trì nào , hành động như thế nào mà nó tiện lợi , nhanh , gọn nhẹ mà có kết quả

VD : Mình đang tu thiền ngon lành mà có người rủ mình đi nghe pháp , mình phải suy nghĩ :nghe pháp thì hay , nhưng mình bỏ đi như vậy lên đó gặp ông Tư , bà Tám , Khi minh trở về nó có còn OK nữa hay không .Khi chánh niệm mình có trớn rồi mà không giử thì rất dễ mất . Cái này quan trọng lắm . Phố xá , chợ búa... làm cho chánh niệm mình bị mất

🔹️
Xét xem coi nó có hổ trợ gì cho việc tu học hay không

🔹️
Xét xem điều kiện trú xứ, Thầy , bạn có nằm ngoài mục đích tu hành của mình hay không VD : Mình đang tu trong Pa- Auk , có người rủ mình đi chợ , thì xét xem đi chợ đó có bất tiện cho việc tu không , có làm cho mình tu chậm lại không , cảnh giới ở chợ đó có phù hợp việc tu không , có đúng là cảnh giới để mình lai vãng tới không

🔹️
Cái cuối cùng mới ghê nè : Hành giả luôn ý thức một cách đầy đủ, chính xác ,kịp thời là ở đây chỉ có danh pháp ghi nhận danh sắc tu , ở đây không có ai tu , không hề có ai tinh tấn hay lui sụt , chỉ có ác pháp và thiện pháp , ở đây chỉ có lạc thọ , khổ thọ và xã thọ , ở đây chỉ có 5 uẩn làm việc với nhau , không hề có ai tu hành đắc chứng gì hết ...

***Sư Giác Nguyên***
Trích ghi lại bài giảng Kinh Tăng Chi Bộ (04)
Chương tinh tấn
 
ĐỘC CƯ ( một mình )

Một mình là sao?
Một mình là dù ở giữa đám đông hay ở một mình thì cũng không để cho tham, sân, si chen vô.
Một mình ở đây là chỉ có thiện chứ không có cái ác nó lấp ló thập thò.

Ngài định nghĩa một mình ở đây là chỉ có cái thiện chứ không có để cái bất thiện sọt ra sọt vô, còn ngươi hiểu một mình ở đây là nghĩa đen có nghĩa là một mình một bóng không có chung chạ anh em huynh đệ thầy bạn.
Nghĩa bóng mà Đức Phật dạy một mình là đúng nghĩa là chỉ có thiện pháp chứ không có ác pháp sọt ra sọt vô. Cái bài kinh đó lại bổ sung cho loạt kinh mà chúng ta đang học ở đây.

Ở đây bà con cũng có nhiều người gặp chúng tôi họ cũng nói nhỏ nhỏ: Chán quá, muốn có cái chỗ để gởi thân trong 1 tháng 2 tháng. Thì tôi nghe họ là tôi nhớ tới bài kinh này liền. Họ nhức đầu quá họ muốn kiếm chỗ cho họ gởi thân, nhưng mà có chỗ cho họ gởi rồi thì sao? Móc cái phone ra alo, search online facebook, messages, paltalk, Whatsapp...Thì cái đó là chết cha rồi, cái đó không có được, mấy người đó gọi là họ sống chung với lũ.

Ở đây Đức Phật Ngài dạy là không có sống chung với lũ, ở đây chỉ có làm bạn với thiện pháp chứ không có loại bạn thứ 2. Suy nghĩ, hành động, nói năng trước sau chỉ theo thiện pháp thì mới là độc cư.

Chứ độc cư mà hiểu theo nghĩa đen là solo một mình, độc tấu, độc diễn thì cái đó không đúng. Bởi vì nếu nói như vậy thì ngoài đời thiếu gì người độc cư, mấy cha mới ly dị là đã độc cư rồi. Như vậy là không phải, độc cư là chỉ có thiện pháp trong lòng thôi mới gọi là độc cư.

Còn người chỉ sống trong ác pháp không được gọi là độc cư bởi vì: người sống trong ác pháp cũng có lúc này lúc khác, lúc thiện lúc ác. Nhưng mà nếu sống trong cái thiện rốt ráo thì cái ác nó mất đi không thể chen vô được.

Cái ác mà rốt ráo thì còn có chỗ cho thiện hiệp thế, thiện hữu lậu nó chen vô, còn có cái chỗ để sanh về cõi này cõi kia, còn có sự chung chạ nam nữ đực cái trống mái đời này kiếp nọ. Nhưng mà riêng cái thiện pháp rốt ráo được gọi là độc cư bởi vì:

- Anh đắc được sơ quả là anh đã dứt được thân kiến, anh không còn cơ hội chung chạ với loài đoạ sứ nữa mà anh chỉ sống với người lành.

- Nếu rốt ráo nữa anh chứng tới La-hán thì anh không còn chỗ để tái sanh, không còn cái chuyện chung chạ cọ sát dây dưa với bất cứ chúng sanh nào nữa, bởi vì vô sanh bất tử mà.


👉
Cho nên ở đây Ngài dạy rằng, ngay khi Ngài còn trụ xứ độ sinh hay khi Ngài đã niết bàn rồi thì muôn thuở NỘI DUNG CHÁNH PHÁP PHẢI ĐƯỢC THỂ HIỆN QUA CÁI TINH THẦN LÝ TƯỞNG HÀNH TRÌ CHỨ KHÔNG PHẢI QUA CÁI HÌNH THỨC .

Bởi vì nếu chỉ là hình thức mà gọi là tu thì đứa con nít còn bú nằm ngửa mình đè nó ra bắt nó mặc áo tu là nó thành sư rồi.
Nhưng mà không phải, cái đó là không có được, nó phải có ý nghĩa tinh thần nội dung lý tưởng ở trong cái hình thức ấy thì cái đó mới gọi là tu.

Dù các vị mặc đồ trắng, thậm chí các vị chọn một kiểu ăn uống sinh hoạt đặc biệt nào đó vẫn chưa xi nhê, chưa thấm tháp vào đâu hết vì vấn đề là nội tâm của các vị.

Các vị có nhớ bài học căn bản này hay chưa? Mọi thứ đều là khổ, dầu là thiện ác buồn vui cũng đều là khổ. Thích thú trong cái gì cũng là thích thú trong khổ. Muốn hết khổ thì đừng có thích thú trong khổ nữa.

Cho nên sống trong thiện pháp được xem là độc cư rốt ráo nhất. Còn hễ anh còn sống trong ác pháp thì anh còn có cơ hội dây dưa với người này người kia. Đó là quy luật ngàn đời muôn thuở thiên thu, thiên niên vạn đại của Lục Đạo Ngũ Thú.
Cho nên Đức Phật dạy có một điều đơn giản thôi: "Hình thức tu tập không quan trọng bằng nội dung, tinh thần, ý nghĩa và lý tưởng của người tu tập."

Chứ bây giờ bà con có phong trào mặc đồ trắng, có logo riêng, a-so-ka hay a-so-kiết, gia đình phật tử Xá-lợi-phất, Ananda, La-hầu-la...tùm lum hết. Thì ba cái đó là ba cái đồ tào lao, bởi vì nếu anh không có dàn xếp được thế giới nội tâm nội tại của anh thì ba cái logo đó nó chỉ góp phần rắc rối cho cái thế giới vốn dĩ đã quá nhiều màu mè rồi. Cái đó lớn chuyện lắm quý vị.

Trích bài giảng Kinh Tăng Chi 140
Sư Toại Khanh giảng
 

Chìm Nổi

Đức Phật dùng hình ảnh người ở dưới nước để Ngài mô tả các loại chúng sinh.

Hạng thứ 1:
Lặn xuống rồi đi mất luôn, chìm luôn không ngoi lên nổi. Hạng này hoàn toàn thành tựu với pháp đen bất thiện.

Hạng thứ 2: Nổi lên rồi lại chìm xuống, tức là trong dòng sanh tử luân hồi nó có may mắn, lâu lâu cũng gặp được bạn lành, gặp được thầy bạn minh sư thiện hữu rồi nghe được một mớ rồi lặn luôn.

Hạng thứ 3: Từ dưới nước nổi lên rồi đứng yên đó, tức là mấy cái loại phàm phu như mình. Cũng có tu rồi đứng yên đó chờ có một người nào đó đi ngang họ đẩy một phát nữa hoặc là kéo vô bờ. Hạng này gọi là hạng thiện phàm phu, nghĩa là chìm thì không chìm mà lửng lửng chờ có thầy bạn tới họ đẩy cho. Thí dụ những người mà gặp được Phật là những người vậy đó, chờ Ngài kéo một tay vào bờ hoặc là Ngài đẩy một tay vào lưng để cho đi tới.

Hạng thứ 4: Nổi lên rồi nhìn quanh, bắt đầu quan sát. Mấy người này có hy vọng lắm, là vì sao ? Bởi khi họ nhìn quanh quan sát coi bến bờ nằm ở đâu, cách họ bao xa và ai là người họ có thể kêu cứu, có thể nhờ cậy. Hạng này được gọi là Tu đà hoàn.

Hạng thứ 5: Vị Tư đà hàm là vị trồi lên rồi bơi tới, bơi vào bờ hoặc bơi về phía trước nhưng mà đại khái là bơi chứ không có đứng yên.

Hạng thứ 6: Vị A na hàm thì trong lúc bơi tìm được cái chỗ để nghĩ ngơi trước khi vào bờ.

Hạng thứ 7: Vị A la hán thì giống như người từ ở dưới nước nổi lên nhìn quanh, bơi tới kiếm chỗ nghĩ ngơi qua hết, vị này đã vào bờ được rồi, đứng trên bờ ngon lành rồi, không còn mắc mớ gì dòng chảy bên dưới chân mình nữa.

Không có mô tả ảnh.
 
BẢN TÌNH CA DUY NHẤT TRONG KINH ĐIỂN Pāḷi

Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.

Tác phẩm Trước Sự Nô Lệ Của Con Người, xuất bản giữa thập niên 1960 đã chứng minh điều đó. Nhưng vẫn chưa hết, cái duyên ngầm trong chữ nghĩa của Hòa thượng càng kinh người hơn khi ta có dịp so sánh các bài kệ trong bản dịch Kinh Tạng với nguyên tác Pāḷi hay qua bản dịch tiếng Anh.

Từng chữ trong lời Việt của Hòa thượng cứ như một hòn giả sơn tái hiện tận lực cái không khí cổ phong của một thứ ngôn ngữ của ngàn năm trước. Giữ lại cái hồn của một tiếng nói thiên cổ đã khó, trung thành được với ngôn phong ngữ khí của một bậc đại thánh như đức Phật lại càng thiên nan vạn nan. Dĩ nhiên không phải ai cũng làm được việc đó.

Có bản dịch kinh văn cố tự chuốt cái phong vận bác học, đọc xong cứ tưởng đó là lời thuyết giảng của một giáo sư Tây phương vừa mới phát biểu trong một giảng đường đại học ngày hôm qua. Có bản dịch gượng gạo, tàn khuyết như lời lảm nhảm của ông đạo khoai, đạo chuối nào đó.

Và dường như chỉ có bản dịch tài hoa và tâm huyết như của Hòa thượng Thích Minh Châu mới đủ khiến người đọc có được cùng lúc hai cảm giác thành kính và mát ruột. Thành kính vì qua đó cứ như nghe được cả giọng nói Phạm Âm của đức Phật và mát ruột vì độc giả cứ mơ hồ thấy ra một phương trời Cổ Ấn thái bình thạnh trị có bầy nai hiền tung tăng giữa một cánh rừng trụ xứ của các bậc Sa-môn hiền thánh. Từng trang kinh lúc này đã ra một đạo tràng tinh khiết chẳng nặng mùi khói nhang tín ngưỡng của đời mạt pháp.

Nói quẩn quanh chỉ để thưa rằng tôi đã yêu mê lời dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu qua các bộ Kinh Tạng tiếng Việt. Và nếu ngay bây giờ phải trưng dẫn vài ba trong vô số lời dịch trác tuyệt kia, tôi có thể kể ngay ba bài kệ mà tôi đã thuộc nằm lòng. Đó là kệ Nhất Dạ Hiền Giả trong Trung Bộ tập 3, kệ kết thúc bài kinh Ratthapāla trong Trung Bộ II và bản tình ca duy nhất của kinh điển Pāḷi trong bài kinh Đế Thích Sở Vấn của Trường Bộ III (đều là các bản in trước 1975).

Chuyện bắt đầu từ một ngày thiên vương Đế Thích chợt nhận ra mình không còn sống được bao lâu nữa. Ngài cảm thấy bất an và người đầu tiên ngài nghĩ đến chính là đức Phật, lúc đó đang tại thế. Thiên vương xuống trần hầu Phật và cùng đi với ngài là một vị tiên ngoan đồng tên Pañcasikhā. Gọi là ngoan đồng vì vị này có ngoại hình như một tiên đồng kháu khỉnh, trên đầu có năm chỏm tóc đào, lý do của ngoại hiệu Pañcasikhā. Sớ ghi dưới thời Phật Ca-diếp vị này từng là một cậu bé chăn bò có lòng kính tin Tam Bảo, độ trì chúng tăng.

Nhờ công đức đó mà cậu bé kia được sanh thiên, nhưng vẫn chưa bỏ tính ham chơi. Tập khí trẻ con đã tạo cho vị tiên cái nhân dáng đúng như ý thích. Điều trớ trêu là lòng phàm trước sau gì cũng vướng lụy, chàng đã trộm yêu một tiên nữ tên Suriyavacasā, con gái của một đại lực tiên ông tên Timbaru, người chưởng quản làng ca vũ nhạc kịch của Đạo Lợi Thiên. Oái oăm thay, người trong mộng của Suriyavacasā không phải là chàng Pañcasikhā giống hệt trẻ con. Nàng đã phải lòng cậu con trai của tiên ông Mātali, người đánh xe cho thiên vương Đế Thích.

Đau đớn quá, Pañcasikhā âm thầm một cõi đi về và sáng tác một nhạc khúc để hát cho riêng mình nghe. Do căn khí tu hành nhiều kiếp, những chồi non Bồ-đề cứ vô tình nảy lộc trong từng lời hát của chàng. Pañcasikhā từng học đạo, nên trong nỗi riêng xé lòng vẫn không quên được lối về bến giác, dù rất mờ nhạt và liên tục bị chàng phung phá với những tục niệm đan xen:

“Như gió cho kẻ mệt
Như nước cho kẻ khát
Nàng là tình của ta
Như pháp với Ứng Cúng”.


Đem cái tình của mình so sánh với tất cả những gì là thiết yếu sinh tử của nhân gian, rồi thì cả gan so sánh với cả đạo nghiệp giải thoát của một vị La-Hán đã thoát vòng tục lụy – thì quả là độc đáo và “thấm thía tương chao” lắm thay!

Tôi trộm nghĩ đến cả Hòa thượng dịch giả khả kính của chúng ta, có lẽ cũng phải se lòng khi dịch đến chỗ này của bài kinh Đế Thích Sở Vấn. Rõ ràng, Hòa thượng đã ít nhiều đem cái tình riêng mà cùng tham dự vào nguyên tác, để chia sẻ nỗi đau thất tình của người bạn đồng tu lãng mạn đó. Dĩ nhiên Pañcasikhā cũng là bạn tu của tất cả chúng ta.

Tôi chưa hề có ý học thuộc bài hát này của Pañcasikhā, nhưng chuyện đời thiệt lạ: Hữu ý bồi hoa, hoa bất phát. Vô tâm tháp liễu, liễu thành âm. Cố tình vun vén thì cây tàn hoa lụi, nhưng hạt ném bên đường nhiều khi lại ra cây xanh tốt xum xuê.

“Thiện nữ! Ta van nàng
ôi hiền nữ suối tóc
ái dục ta có bao
nhưng nay đã tăng bội
như đồ chúng La-hán
mọi công đức ta làm
dâng lên bậc La-hán
ôi kiều nữ toàn thiện
nàng là quả cho ta...”


Bài hát đó không ít lần đã như câu thần chú giúp tôi vùng thoát cái mặc cảm phàm tình chất ngất của mình. Ừ thì tục lụy thì đâu đã sao, gì cũng chỉ là hoa bướm trên đường vạn lý cả thôi. Cái cốt lõi là phút cuối quay đầu thấy bờ, phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật. Mà nói cho cùng, đâu phải ai đọc bài hát đó cũng phải yếu đuối điên mê. Xin đọc kỹ một lần đi. Thương lắm. Chàng nhận mình là một Phật tử, biết vui khi nhìn ngắm thánh chúng của đức Phật ngày một đông đảo. Nhưng yêu nàng quá, chàng tạm thời chỉ mong bao kiếp tu hành của mình hãy giúp mình gần được người đó. Vậy mà cũng chẳng xong.

Quả Bồ-đề cao vợi là thế mà công đức hữu lậu còn dẫn tới được, thì sá gì một phút ghé bến trầm luân chứ. Con xin phát thệ chân thành, rong chơi đôi hôm rồi cũng sẽ quay về với Phật. Sinh tử ai lại không sợ, nhưng đột ngột dứt áo ra đi lúc này thì kể cũng có phần khe khắt. Mai mốt đã Niết-bàn thì làm sao có buổi quay về lần nữa.

Pañcasikhā làm riêng bài hát này cho mình, nhưng thật ly kỳ khi Thế Tôn lại là người đầu tiên nghe chàng độc tấu bài hát này. Lúc đó ngài vừa thành Phật không bao lâu. Thì ra chuyện thất tình của Pañcasikhā đã có từ ngày ấy. Chàng như đứa bé, chơi thua bạn thì chạy về mách mẹ. Nhiều năm sau, tôi nghĩ lời hát đã được Pañcasikhā thay đổi ít nhiều. Chàng xuống trần học đạo để tìm quên và dù chưa quên được, nhưng lời kinh đã đi vào lời hát như một chuẩn bị cho chủng tử giải thoát ngày sau.

Đêm nay, theo chân thiên vương Đế Thích xuống trần hầu Phật lần nữa, Pañcasikhā lại ôm đàn hát lại nhạc khúc đó như một cách cúng dường. Lễ phẩm chàng có được lúc này cũng chỉ là một nỗi đau thất tình được phổ vào bài hát đem dâng lên bậc Điều Ngự, người dạy chúng sinh giải thoát tình trần. Có lẽ chỉ có phàm phu mới nghĩ ra được kiểu cúng dường nghịch thiên bội địa này thôi.

Vậy mà Thế Tôn cũng lặng lẽ ngồi nghe với một niềm bi mẫn vô bờ, như người mẹ hiền kiên nhẫn ngồi dỗ đứa bé khóc nhè. Với đôi mắt nhìn khắp muôn cõi và tấm lòng nghĩ thấu ngàn đời, đức Phật đã lắng nghe rồi ngỏ lời khen Pañcasikhā bằng một câu hỏi: Ngươi đã học ở đâu lời hát pha trộn cả hai thứ giải thoát và tục lụy đó? Một câu hỏi hàm ý cùng lúc nhiều vấn đề quan trọng. Giải thoát và tục lụy là hai cực đối lập, không thể song hành. Một câu hỏi chứa đựng cả bốn Thánh Đế và gợi ý cả Giáo Lý Duyên Khởi trùng điệp.

Pañcasikhā đã thưa lại với Thế Tôn chuyện lòng tan nát của mình, và nhắc lại chuyện cũ dưới gốc Bồ-đề ngày trước khi chàng lần đầu hầu Phật và hát cúng dường Ngài nhạc khúc não lòng đó.

Kinh nói sau khi vào hầu Phật, thiên vương Đế Thích được nghe Pháp và chứng quả Dự Lưu. Ngay lúc đó tuổi trời đã mãn, thiên vương mạng chung trước mặt Thế Tôn và lập tức tái sanh trở lại với ngôi vị thiên vương của mình. Sự việc chớp nhoáng này chỉ có đức Phật và thiên vương biết được mà thôi.

Để cảm tạ Pañcasikhā, thiên vương Đế Thích hứa với chàng là sẽ tìm cách dàn xếp để Pañcasikhā cưới được Suriyavacasā trong giải pháp thỏa đáng nhất.

Lời hứa của thiên vương đã khép lại một chuyện tình thơ mộng bậc nhất của kinh điển Phật giáo, và chúng ta có lẽ cũng nên cảm ơn cô nàng Suriyavacasā đã là nguồn cảm hứng cho một bản tình ca quán tuyệt cổ kim, có âm vang xông thấu đôi miền tiên tục và đã từng là một lễ phẩm cúng dường một bậc đại thánh như đức Phật. Và vẫn chưa hết, bản tình ca đó của Pañcasikhā còn có tác dụng của một lời khuyến tu thú vị: Có rong chơi đến bao xa xin cũng nhớ quay về.

Vì tục lụy muôn đời chỉ là một cội cây sống bằng nước mắt kẻ trầm luân...

Ô hô! Pañcasikhā tiên ông thượng hưởng!
 
TUY THẤP MÀ CAO , TUY CAO MÀ THẤP - TUY CHUNG MÀ RIÊNG, TUY RIÊNG MÀ CHUNG

📗
📗
Tuy thấp mà cao – tuy cao mà thấp, là sao ?
📗
Tuy thấp mà cao có nghĩa là, mình sống thực tế với cái gì chung quanh mình thôi.


Nhưng đối với người Phật tử, thấy con kiến, con ruồi không giết, thấy chuyện đó cũng không có gì ghê gớm, từng giây phút ngồi tĩnh tâm, với cái gì ? Tĩnh tâm với hơi thở ra vào, quán niệm 32 thể trược, quán niệm cái chết, tu tập từ tâm, ngồi ngước nhìn bàn Phật trước mặt mình, mấy cái đó mình thấy không có gì ghê gớm. Nhất là chuyện các vị ngồi thiền các vị thấy mình tu với hơi thở mình thôi.

Tuy thấp, thấy nó không có gì ghê gớm nhưng cao có nghĩa là từ những cái bắt đầu đó, cảnh giới nào chúng ta cũng với tới, cảnh giới nào chúng ta cũng chạm tới hết. Tuy thấp mà cao là như vậy đó.

Chứ còn đừng có nghĩ chuyện học hỏi giáo lý cao siêu mà trong khi ngay đời sống hiện tại trước mắt mà mình chồng không là chồng, cha không là cha, mẹ không là mẹ, một người vợ không ra vợ, trò không ra trò, thầy không ra thầy, đạo không ra đạo, đời không ra đời, bạn không xứng là bạn, con người không đáng mang thân người thì cái đó không được.

💥
Phải hoàn tất những gì cần thiết ngay trước mắt mình. Thấy nó có vẻ thường, thấy nó thấp nhưng nó là dàn phóng, là bệ phóng để chúng ta có thể vươn tới bất cứ cảnh giới cao xa nào. Ngay trong đời này hoặc đời sau.
Tại sao có cảnh giới đời này là sao ?

Cảnh giới có 2 : Cảnh giới không gian (nơi chốn mà mình sẽ về) & Cảnh giới tâm lý (Cảnh giới tư duy của mình. Mình có thể vươn tới cảnh giới nào trong giáo pháp này cũng là cảnh giới mà mình vươn tới, cảnh giới của tâm tưởng cũng là một thứ cảnh giới).
📗
Tuy cao mà thấp, thì cứ lật ngược lại mà hiểu. Có nhiều khi mình toan tính chuyện trên trời, dưới biển nhưng cuối cùng thì mình cũng chỉ quẩn quanh trong đời sống của vật dục. Mình có muốn trở thành Đế Thích, giáo hoàng, thành vị danh tăng ghê gớm nào đó, nhưng chỉ quẩn quanh trong thế giới 5 trần thôi chứ không xa.

Chính đức Phật xác nhận, 5 Uẩn phải được quán chiếu qua 11 khía cạnh, tức là tất cả các uẩn : (1) Quá khứ (2) Hiện tại (3) Xa (4) Gần (5) Thô (6) Tế (7) Thắng (8 Liệt,… thì tất cả đều vô ngã, vô thường hết.

Trên nền tảng này, sống ở trong tâm niệm đó, cảnh giới nào cũng tới. Nếu mình nghĩ chuyện xa vời mà Khoảnh khắc thực tại hiện tiền mà mình bỏ qua, không sống với chánh niệm, không sống với từ tâm, không sống với trí tuệ, không sống với bao dung, tha thứ, độ lượng thì coi như cũng chỉ quẩn quanh thôi.

📗
📗
Tuy riêng mà chung, tuy chung mà riêng là sao ?

📗
Tuy chung mà riêng là sao ? Có nghĩa là, dầu bây giờ chúng ta có bao nhiêu mối quan hệ quen biết, thầy bạn, chúng ta có khả năng liên lạc với bao nhiêu người trên internet đi nữa, nhưng mà, cuối cùng, tuy chung mà riêng = cuối cùng chúng ta trở về góc riêng của mình, buồn vui cũng của mình không ai biết.

Việc nhẹ nhàng nhất: Chóng mặt, nhức đầu, nhức răng của mình không ai chia sẻ với mình được hết.
Và cuối cùng trên giường chết “triệu người quen có mấy người thân, lúc lìa đời có mấy người đưa?”.


Mình quen biết bao nhiêu người. Như giáo hoàng có trên 1 tỷ giáo dân thờ lạy giáo hoàng trên đầu, nhưng tới lúc giáo hoàng hấp hối thì giáo hoàng cũng xuôi tay ra đi một mình thôi.

Chúng ta có bao nhiêu mối quan hệ với bao nhiêu chúng sinh trong trời đất, cuối cùng rồi mình cũng trở về với gốc riêng của mình, dầu chúng ta có là vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Vô Thượng Điều Ngự hay là một con ruồi, con muỗi, cũng phải trở về với gốc riêng của mình mà thôi.

📗
Tuy riêng mà chung là sao ? Cái này rất quan trọng, quan trọng lắm nha.


Tuy mỗi người có một mảnh đời riêng, tuy nhiên, cái riêng đó có một tác động cực lớn ra ngoài thế giới xung quanh. Bắt buộc các vị phải đồng ý với tôi chuyện đó.

-Lật ngược lại, dầu chúng tra trở về với mình, nhưng mỗi cái riêng chúng ta nó đều có ảnh hưởng rất lớn và bắt buộc phải có, đối với thế giới chung quanh.

Dầu các vị là con ruồi sống trong góc tối một thân một mình, các vị nghĩ không ảnh hưởng tới ai, sai, sai.
Chuyện trước mắt con ruồi có thể làm lây lan mầm bệnh hay không ? – Có.
Con ruồi có khả năng đẻ trứng hay không ? – Có.
Chỉ vậy là mình đã thấy con ruồi tuy riêng mà chung rồi đó. Chưa hết. Nếu nó tiếp tục làm ruồi = tiếp tục sanh tử = khả năng sau này nó trở thành Hitler, Polpot, Mao Trạch Đông, … cực lớn.
Bởi vì hễ còn luân hồi thì khả năng mình trở thành nhân vật đại gian đại ác, gây họa cho thiên hạ, khả năng đó cực lớn. Để tôi kể các vị nghe chuyện xíu xiu thôi…
Vì sao vậy ? Tôi đang giảng vì sao riêng mà chung là chỗ đó.

Cách đây không lâu, trong một vài tiền kiếp, vị này là một chuyển luân vương, một minh quân thánh chúa, đã cai trị toàn hành tinh này và đương nhiên là hướng dẫn mọi người tu tập thiện pháp. Với sự khích lệ khen thưởng của vị này và rất nhiều và rất nhiều nhân loại tu tạo công đức, được sanh thiên. Khi họ về trời, tuổi thọ trên đó lâu lắm. Khi ngài trở xuống mang thân nhân loại so thời gian mấy người kia về trời thì chẳng là gì hết.

Cho nên, họ vẫn tiếp tục sống trên đó, họ để ý coi ông chuyển luân vương ngày xưa thúc đẩy mình về trời ổng ở đâu. Thế là họ thấy bây giờ ổng là vị tỳ-kheo tu trong Phật pháp. Họ thương lắm, họ mang ơn : Không có ông này là mình lọt xuống 18 tầng rồi. Vì vậy họ rất là thương.

👉
Cho nên, cái tuy riêng mà chung, tuy chung mà riêng, đề tài này rất quan trọng, rất sâu, nếu mình xé ra. Đừng cho mình là người bé mọn không ảnh hưởng vũ trụ. Sai sai sai.

Trên mặt phẳng vũ trụ, con ruồi và Hitler ngang nhau. Vì mỗi cá nhân đều là đơn vị pháp giới giống nhau hết. Cái nào cũng 5 uẩn hết.
Nhưng do bản tánh hung ác + công đức kiếp nào đó. 2 cái. Do công đức = giờ sanh ra có quyền lực, nhưng do bản tánh hung ác = giờ sanh ra làm bạo chúa. Rõ ràng lắm. Trong kinh nói rất rõ ràng.

Và mình thấy: Tuy riêng mà chung là chỉ cần gặp một vị hiền thánh nào đó cúng dường trái chuối, muỗng cơm thôi là công đức không thể tư nghì được. Có nhiều người chỉ có phước mà không có đức. Có nghĩa là không có hàm dưỡng đạo đức đó. Cái đó là cái đáng sợ nhất. Có phước mà không có đạo đức. Nó không quan tâm trau dồi tâm tư, giá trị tinh thần. Mà do lúc nào đó do tình cờ, ngẫu nhiên, may mắn nó cúng dường cho hiền thánh một cái gì đó, nó cúi lạy chư Phật được một cái, cúng dường muỗng cơm là mệt với nó. Sau này nó ra, nó ngồi trên đầu thiên hạ, quyền lực vô biên mà trong khi chưa kịp hàm dưỡng nội tâm, kẹt lắm.

Ngược lại. Nếu một cá nhân có tác động tích cực với quần chúng thì lúc bấy giờ tuy nó là một cá nhân nhưng người này trở thành suối nguồn an lạc cho nhiều người. Cho nên, hãy nhớ tâm niệm thế này:

🍁
“Tôi bé mọn, không đáng kể, thậm chí tôi chỉ là hạt bụi.” Hãy nghĩ như vậy để khiêm tốn, để buông bỏ. Nhưng phải nghĩ cái tiếp theo.Tuy tôi bé mọn, tuy tôi chỉ là hạt bụi nhưng những tư duy, hành động, ngôn từ của tôi hoàn toàn có thể để lại di họa cực lớn cho thiên hạ.

🍁
Mình thấy mình bé mọn để khiêm tốn nhưng mình phải ý thức khả năng gieo họa hay gieo phúc của mình để chi? Để mình sống có trách nhiệm hơn. Khiêm tốn nhưng có trách nhiệm đó chính là một người Phật tử.
Biết mình là hạt bụi nhưng ý thức rõ rằng những tư duy, câu nói, hành động lớn bé, ngay cả cái hấy nguýt lườm liếc của mình, những cười mỉa, một câu nói nhẹ nhẹ 1-2 chữ của mình coi chừng để lại di họa cực lớn cho người khác. Ghê lắm quý vị.

Đương nhiên mình phải hiểu ngầm. Khi chúng ta sanh ra đời với thân phận thấp kém như vậy, chúng ta rất dễ trở thành đối tượng khinh miệt cho người khác xúc phạm. Và như vậy, vô tình mình trở thành cơ hội, điều kiện cho người khác gieo họa, có đúng không?...

Khi các vị bố thí nhiều đời sau sanh ra người ta gặp cái mặt quý vị người ta muốn cho. Mình nhiều phước bố thí, đẻ ra người ta nhìn mặt người ta muốn cho. Mà mình ác khẩu, chửi rủa tự nhiên sanh ra đời sau người ta gặp người ta muốn chửi. Như vậy, chuyện đầu tiên, cái nghiệp là mình làm cho riêng mình, nhưng khi cái quả nó trổ, nó giục người ta phải gieo nghiệp thiện hoặc ác ngay trên chính mình.

Thí dụ như đức Phật đi. Ngài tu quá nhiều kiếp. Cho nên, kiếp chót khi người ta nhìn Ngài là tự nhiên người ta muốn gieo nhân thiện. Dù hình hài của Ngài là quả thiện của Ngài đúng. Nhưng âm thanh, ánh mắt, vẻ đẹp, hảo tướng của Ngài khiến người ta nghĩ chuyện gieo nhân, gặp người ta kính quý.

Mỗi chúng sanh đều mang bên người 2 thùng: Thùng thuốc nổ & thùng diêm. Thùng thuốc nổ là quả quá khứ. Thùng diêm là nhân hiện tại. Thùng thuốc nổ của mình, va vào thùng diêm người khác tức là quả xấu của mình dễ va vào nhân xấu của người khác lắm. Người khác họ nhìn mình họ dễ có nhân xấu. Và cái thùng diêm của mình, nhân bất thiện của mình dễ va vào quả xấu của người khác, tức là thùng thuốc nổ của người khác lắm. Cho nên, mỗi đứa đi xách 2 cái thùng tòng teng vậy, thì nhân xấu của người này cứ kiếm chỗ phát tác, nó kiếm đứa nào đang có quả xấu nó phát tác trên đứa đó. Nhân thiện của đứa này nó sẽ phát tác ở đối tượng họ đang nhận quả lành.

Có nhiều người gặp mình muốn cho, muốn chào, muốn cười vui vẻ. Có người mình gặp tự nhiên mình không muốn chào. Cho nên, tuy mình tu hành luôn luôn tâm niệm: Tôi bé mọn, tôi chỉ là cát bụi không đáng gì. Đó là khiêm tốn. Nhưng mình nhớ rằng : Tuy cát bụi, tuy vô danh, khiêm tốn, không đáng gì, nhưng những tư duy, ngôn ngữ, hành động của mình đều có thể để lại những ảnh hưởng cực kỳ quan trọng, sâu đậm đến người khác.

Nếu chúng ta tu tập từ bi, trí tuệ, chánh niệm, kham nhẫn, thiền định, bố thí, trì giới, hồi hướng, phục vụ,… thì đời đời sanh ra mình là đối tượng để người ta phát khởi thiện tâm. Cho nên chung mà riêng là chỗ đó, riêng mà chung là chỗ đó.

Trích bài giảng TUY
 
Devadatta

_ Đề Bà Đạt Đa ( Devadatta ) thấy ghét như vậy, Phật mà còn muốn giết mà tại sao ông lại đành đoạn chung vào một gia đình là em ruột công chúa Da Du Đà La ( Yasodharā ) em vợ thái tử Tất Đạt Đa là Đức Phật khi chưa xuất gia, sống một đời nhung lụa, xa hoa. Đề Bà Đạt Đa đi tu được Chư Tăng, phật tử tôn trọng kính nể, trong khi ông ác vô cùng tận. Vì sao ? Ông có một chút cộng nghiệp với Đức Phật. Muốn theo đuổi một con người như Đức Phật để hại thì không phải điều đơn giản, phải có phước như thế nào đó để đủ tầm chạy theo phá người ta.

Chứ còn quá sức bé mọn ở xa xa chửi với thì không làm gì được.
_ Đề Bà Đạt Đa tương lai sẽ thành một vị Phật Độc Giác. Phật Độc Giác là người có khả năng tự mình chứng ngộ nhưng không thể làm thầy chỉ dạy cho ai thành Thánh hết. Phật Toàn Giác là tự mình giác ngộ và có khả năng làm thầy dạy người khác, giúp người khác cũng được giải thoát như mình. Thinh Văn Giác phải có thầy mới giác ngộ nhưng thành Thánh rồi vẫn có khả năng làm thầy để độ cho người khác được đắc giống như mình.

Muốn thành Phật Độc Giác thì phải có thời gian tu tập phước lành là 2 A tăng kì và 100.000 đại kiếp trái đất. Đệ tử số 1, số 2 như Mục Kiền Liên, Xá lợi Phất là 1 A tăng kì và 100.000 đại kiếp trái đất. Đề Bà Đạt Đa đã tu xong 2 A tăng kì chỉ còn thiếu 100.000 đại kiếp trái đất là thành Phật Độc Giác. Vua A Xà Thế cũng sẽ thành Phật Độc Giác nhưng chỉ mới tu được 100.000 đại kiếp trái đất tức con số lẻ.

_ Sau khi Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mãn là những lời Ngài dạy, những công thức, nguyên lý vũ trụ không bao giờ mất mà không còn người biết tới nữa.
Những gì Chư Phật nói thì muôn đời vẫn như vậy. Giáo Pháp mãn rồi phải trải qua nhiều tỷ năm thì mới có Đức Phật Di Lặc ra đời.
 
TRẠCH PHÁP GIÁC CHI

Trạch pháp ở đây là sao?
Trong từng giây phút mình chánh niệm, hít thở vào ra biết rõ, đi đứng nằm ngồi biết rõ.


Trong giây phút đó, mình đồng thời biết thêm chuyện nữa:

Tâm tham đang có mặt, tâm sân đang có mặt, mình biết cái này có hại, cái này có lợi, cái này là thiện pháp, cái này là bất thiện pháp, biết rõ. Biết, biết. biết cái này cần phát triển, cái này cần loại
trừ. Cái biết đó được gọi là Trạch pháp giác chi.
Giờ các vị bắt đầu thấy nó quan trọng rồi đó.

🍁
Thất giác chi đầu tiên vô là tỉnh thức, biết mình trước cái đã.

🍁
Thứ hai là biết phân biệt, Vijjaya = Biết phân biệt cái này thiện, cái này bất thiện, cái này phải loại trừ liền, cái này là bủn xỉn nè, cái này là ganh tỵ nè. Cái này là tham thích, cái này là bất mãn,
Phải có cái trí. Trí ở đâu nó ra?
Trí do 3 nguồn: văn, tư, tu.

-Văn, đầu tiên là phải do học giáo lý, chứ còn không chịu học giáo lý khó lắm. Bởi vì tôi đã có dịp tiếp xúc với rất nhiều Phật tử, khi không học giáo lý lúc tu tập không biết cái gì thiện cái gì bất thiện, họ không biết.
Thí dụ, trời nóng mình khó chịu họ hiểu là chuyện đương nhiên.
Trong kinh nói, không, cái khó chịu, bực bội đó là tâm sân. Họ chỉ hiểu chữ Sân là hờn giận, căm ghét, nóng nảy, ý hướng bạo hành, bạo lực, bạo động,… họ mới gọi đó là sân. Nhưng trong giáo lý mình đâu định nghĩa kỳ cục vậy.
Sân đó là sân thô rồi, cái mà mình hiểu đó là sân thô.

Còn sân tế, ngay lúc mình nóng nực, khó chịu, mình ăn ngon cắn nhầm lưỡi đó là tâm sân, mình cắn nhầm ớt khó chịu đó là sân, mình đang ăn ngon lành mà nghe cái đùng giật mình đó là sân,…. Sợ cũng là sân, giận cũng là sân, bất mãn, khó chịu… cũng là sân. Phải học mới biết.

Rồi cái Ganh tỵ, bủn xỉn mình không học mình không biết.
Có người họ không học họ thắc mắc chỗ này: Của tôi thì tôi phải giữ lại tôi xài mắc gì tôi cho, cái đó sao gọi là bỏn xẻn được. Nhưng người có học họ biết, cái này là bỏn xẻn. Bởi vì, thí dụ mình đi tu thiền bên Miến Điện, hành lý mình đâu có nhiều, một cục xà bông tắm thôi, có một tuýp kem chống nắng bằng ngón chân cái vậy đó, rồi cái gì cũng chút chút, thuốc cảm thì mình đem theo một hộp đủ xài, bàn chải đem theo chừng vỉ thôi, đâu đem theo nhiều, cái gì cũng chút chút, bây giờ mình qua tới nơi bạn tu của mình bị, mình tính đem ra mình cho, nhưng mình nghĩ bụng “mình cho mốt lấy gì xài?!”. Họ nghĩ suy nghĩ đó là hợp lý, suy nghĩ đó là đúng.

Giờ hỏi 7 tỷ người trên thế giới suy nghĩ đó đúng không? Mình đi mình không đem theo nhiều, mình đem theo có tý à, rồi giờ mình đem cho người khác, mình lấy gì mình xài. Suy nghĩ đó quá hợp lý đúng không? Nhưng người hành giả có trí, có trạch pháp họ biết, đây là bủn xỉn.
Bây giờ tôi giải thích tại sao lại bủn xỉn. Thử tưởng tượng đi, mình gặp người thân, người máu mủ hoặc người thương, mình quý, mình kính thì mình có toan tính nhiều vậy không? Mình có toan tính là mình đem theo không bao nhiêu, mình phải giữ lại mình xài ? Không. Nhưng đặc biệt người kia họ không phải đối tượng mình thương kính mình mới bắt đầu toan tính.
Lắt léo nó nằm ngay chỗ đó đó. Mà mình không biết đó là bủn xỉn. Thấy chưa?
Ganh tỵ.
Mình thấy cả trăm hành giả mà mỗi lần gặp bà kia mình không thích, vì bả trẻ hơn mình, bả đẹp hơn mình. Mà mình tự giải thích, cái đó không phải ganh tỵ, tại vì bả nói nhiều tôi khó chịu, bả có tánh hay khoe tôi khó chịu, bả hay la cà với mấy hành giả khác tôi khó chịu, bả có vẻ thân mật thiền sư tôi khó chịu, tôi khó chịu vì bả không có nết. Tôi đâu phải ganh tỵ đâu? Tại tôi ghét cái nét xấu của bả. Thật ra đó là ganh tỵ. Bởi vì, chỉ cần bả già chút, bả xấu chút, bả mập chút bả ốm chút, bả đen chút, bả nghèo chút là mình đâu có khó chịu, mà tại vì đằng này, bả đẹp tí, bả trẻ hơn mình một tí, hình như có vẻ hơi có tiền tí, bả ăn nói hơi dễ thương tí, bả hơi được lòng người chung quanh tí, mình thấy thiền sư hơi chú ý bả tí, mấy cái tí tí tí đó làm mình khó chịu. Mà mình không có ngờ đó là ganh tỵ mà mình cứ nói là tôi ghét nét xấu củ bả.
Cho nên, Trạch pháp giác chi là sao?

⭐
Là biết rất rõ, cái gì thiện bất thiện, biết cái gì là ái, là từ tâm, người không học không biết cái đó.
⭐
Trạch pháp nó không có. Mình không phân biệt được lúc nào là từ tâm lúc nào là tham ái. Có nhiều người mình nhìn họ mình thương liền, nhưng người có trí tuệ họ biết thương này là tham ái hay là từ tâm. Nó khác nhau.

🌿
Từ tâm là sao?
Từ tâm là trong sáng, nhẹ nhàng, không câu móc. Thí dụ mình gặp ai cũng thoải mái thanh thản, nhưng gặp mặt thì mình mát mẻ mình không có lòng hờn giận căm ghét ai, thấy người ta vui vẻ, khỏe mạnh, tu tập tiến bộ mình mong người ta được vậy hoài không mất.
Sau khi chia tay rồi,

🌿
Trong sáng là sao ? là mình không có gợn đục của tình cảm riêng tư.
🌿
Nhẹ nhàng có nghĩa là sao ? Có nghĩa là họ không là gánh nặng trong lòng mình, họ được như mình muốn thì mình vui, mình tùy hỷ, còn họ không được thì thôi, mình không lấy làm nặng lòng.
🌿
Còn câu móc là sao ? Là có cái gì riêng tư, móc riêng trong đó. Đó là Từ tâm.
🌿
Ái là sao ? Ái là cũng thích, cũng thương mà nó nặng lắm quý vị. Mình thương người ta mình muốn sở hữu, muốn sống gần người ta, khi người ta không được như mình nghĩ mình nặng nề. Và cái thương đó gắn liền quyền lợi, cảm xúc của mình.
Tôi ví dụ chuyện đơn giản thôi. -Tôi vào trong thiền viện, có 2 cô một cô tôi đối xử bằng tâm từ, thấy cổ biết tu hành, thấy xa quê, tu nữ cũng nghèo, tội nghiệp, hoặc Phật tử đi, tóc tai đầy đủ, mình thấy tội nghiệp. Thấy không biết gì hết trơn tội nghiệp, thấy giúp được gì tôi giúp. Sau khi hết thấy mặt cổ rồi tôi về phòng tôi quên mất tiêu, tôi lo chuyện của tôi. Rồi mai chiều hôm sớm tình cờ gặp nhau ở đâu tôi giúp được gì tôi giúp, trở về tôi quên mất tiêu là từ tâm.

-Còn ái, nghe nè, ái nè. Tôi gặp bả tôi khoái. Tại sao tôi khoái ? Tôi khoái ánh mắt của bả, tôi khoái nụ cười, giọng nói, cái dáng, cái bóng sắc, sắc vóc của bả. Tôi mong được gặp nữa, khi không gặp tôi hơi nhớ nhớ. Và mai này tôi thấy bả thân người khác tôi khó chịu, nói nôm na là tôi ghen. Và bả trở thành gánh nặng trong lòng tôi. Trong khi, nếu tôi thương bả bằng lòng từ thì nó nhẹ lắm. Gặp, cần thì giúp, không cần thì thôi. Khi bả khuất mắt là lòng tôi cực kỳ thanh thản nhẹ nhàng. Đó là từ đó. Còn ái là thích nhưng muốn ở gần người ta, muốn sở hữu người ta, muốn người ta thích trở lại mình, mình muốn người ta đừng nghĩ tới ai. ..

👉
Trạch pháp, đó là Trạch pháp giác chi. Nhớ nha. Và biết rõ, cái này có hại cho chuyện tu tập của mình, cái này có hại cho chánh niệm của mình, cái này có hại cho định của mình, cái này có hại cho tuệ của mình, cái này có hại cho niềm tin của mình, cái này có hại cho sự tinh tấn của mình, cái này có hại cho tàm quý của mình. Biết rõ như vậy là Trạch pháp giác chi.
 
THẬP THIỆN

Thập thiện là bố thí, trì giới, chỉ, quán, thuyết pháp, thính pháp, phục vụ, hồi hướng, cung kính và điều chỉnh tri kiến.

🍁
1-Bố thí là chia sẻ điều gì đó cho người khác; bố thí có 2:

Một là bố thí cầu công đức, hai là bố thì vì thương người bố thí thứ nhất là nghĩ đến mình, bố thí thứ 2 là nghĩ đến người.

🍁
2-Giữ giới cũng có 2:

một là giữ giới cho mình; hai là nghĩ nhiều đến người, tây có câu nói hay lắm: ta làm thiện không phải vì người nhận là ai mà vì chính mình là người thế nào. Không biết trong room có hiểu không ta. "Ta làm thiện vị người nó tốt hơn là vì bản thân" ...

Bà Telija có nói thế này: "nếu như ta không làm được việc lớn, thì ta có thể làm việc nhỏ bằng một trái tim lớn" hoặc câu nói của tôi nè:"nếu ta không làm được chuyện lớn thì ta không làm lớn chuyện".

Thì ở đây bố thí có 2: bố thì cho người và bố thí cho mình nha. Trì giới cũng vậy, cho mình và cho người.

Trì giới cho mình có 2:


*Một là trì giới để cầu công đức;
*Hai là trì giới để trang nghiêm nội tâm.

Trì giới cho người là mình thương người nên mình không có làm; còn thông thường là nghĩ đến mình không à; mình không làm điều đó là mình sợ tội; mình không làm điều đó vì mình muốn có phước, nhưng mà nó cũng có trường hợp có những người họ không làm điều đó vì họ thương chúng sinh không nỡ, cái đó mới khó đó.

🍁
3-4 Chỉ quán
là samatha và vipassana đều được kể là cái chi số 3 là tập trung tư tưởng cũng là tu; sống chánh niệm một cách linh hoạt cũng là tu. Tôi chỉ nói vắn tắt vậy thôi.

🍁
5-Cung kính:
cung kính có nghĩa là từ xưa đến giờ khi mà mình sinh ra đời dầu là con cho con mèo con người thì lúc nào cũng đều coi mình là điều quan trọng, nhưng mà khi mình con người thì phải biết dưới nhìn lên trên nhìn xuống; ở trên nhìn xuống để yêu thương bao dung; ở dưới nhìn lên để mà cung kính để mà học hỏi.
Sống mà không biết cúi đầu thì đời đời không ai cúi đầu mình hết điều đó là điều rất là kỳ quái; sống mà không biết mất thì sẽ không có được, kẻ nào không biết mất thì mới có lúc họ được, có dám mất thì mới có được, có biết cúi đầu thì mới được người khác cúi đầu; mình khiêm tốn không phải vì mình muốn đời sau sanh ra được người ta cúi đầu nhưng mà chuyện đầu tiên mình cung kính mình biết khiêm tốn người khác chỉ vì một lý do mình là cái đống rác thì có cái gì mà mình không tôn kính người khác. Chỉ nhớ nhiêu đó thôi. Cái thứ 2 là vì sao mình tôn kính người khác là bởi vì mình nghĩ ai trên đời này cũng có cái thiện hết; tại sao mình phải cúi đầu, vì nhiều lý do lắm; thứ nhất mình là đống rác, thứ hai là hạnh phúc của người coi mình là con số "0" nói lớn lắm, cái hạnh phúc của người biết cúi đầu nó lớn lắm quý vị biết không...

🍁
6-Hạnh phục vụ :

Phục vụ là sao, nghĩa là mình có động tay động chân để giúp đỡ người khác dù ít dù nhiều; chứ còn mà sống chỉ có biết mình không cũng khó lắm, nha.

Tui nhớ có lần bắt đầu một buổi học, cô giáo mới nói đứng dậy vỗ tay vinh danh Devir vì đã làm một việc rất là đẹp, một nghĩa cử đẹp, là đã dắt một bà cụ qua đường thì trong lớp cô giáo nói vô tay thì vô tay thôi, có em thì nhìn ngưỡng mộ có em thì lén lén nhìn ghen tị thôi.

Hôm sau bắt đầu buổi học thì hơn nửa lớp đứng lên thưa cô, xin cô cũng cho chúng em một tràng pháo tay; cô giáo hỏi vì chuyện gì thì mới nói là: hôm nay chúng em cũng mới đưa một bà cụ qua đường; cô giáo hỏi:"một bà mà sao có tới chục em là sao", "tại vì bà ấy không có muốn qua nhưng mà tụi em nhớ lời cô là Devir đưa một bà cụ qua đường thì đáng được vỗ tay, thì hôm nay tui em ghè nhau đưa một bà cụ qua đường, mặc dù bà không thích, nhưng bọn em đã tìm cách, cuối cùng mười mấy thằng cũng đưa được", thì cô kêu trời, cô mới nói: mấy em có hiểu không?, đưa người qua đường thì đó là điều tốt nhưng mà khi nào người ta cần kìa.

Thì phục vụ cũng vậy, giúp đỡ người ta cũng là nghệ thuật, khen ngợi người ta cũng là nghệ thuật, lấy bông lấy hoa dí vô mặt người ta gọi là tặng hoa là sai bét; vợ chồng bồ bịch với nhau mà hôn nhầm hôn không đúng lúc là đã sài không được, đằng này tặng hoa không đúng lúc đã sài không xong nói chi là về tha nhân là những kẻ lạ. Cho nên, phục vụ nghĩa là mình bỏ ra ít thời gian công sức để mà hỗ trợ nhu cầu công việc với người khác.

🍁
7-8 Thuyết pháp, thính pháp :

*Thuyết pháp
là mình chia sẻ những hiểu biết về đạo cho người khác. Trong Tăng chi Đức Phật dạy: ơn cha nghĩa mẹ Ta nói rằng không có cách chi mà dùng phương tiện vật chất mà đền đáp; này các tỳ-kheo ta nói rằng dầu cho một người cõng cha cõng mẹ hai bên vai, cha một bên mẹ một bên mà đi suốt trái đất 100 năm để cho cha mẹ tha hồ tiểu tiện trên người của mình, thì Ta nói rằng 100 năm khổ cực như vậy thì vẫn chưa đủ để có thể đáp đền hết cái ơn đó vì sao vậy, vì cái tấm lòng của cha mẹ đối với con không thể cân đong đo đếm được. Tuy nhiên, này các tỷ-kheo, Ta nói rằng người mà hướng dẫn cha mẹ vào chánh pháp khiến cho cha mẹ có niềm tin, biết bố thí, biết giới hạnh, thì Ta cho rằng cái sự hướng dẫn đó đủ để đáp đền cái công ơn trời biển của cha mẹ. Nha, đó là chánh kinh đó. Điều đó cho thấy rằng cái thuyết pháp nó quan trọng lắm, nó chia sẻ cái nguồn sáng cho người khác, trên đời này có cái gì khổ bằng mình đui, hoặc là mình có mắt mà sống trong bóng tối không quý vị, không biết đường đâu mà mò, không biết đường đâu mà lần ; bỗng nhiên có cái khe hở có ánh sáng len vào, có một tia đèn pin nó quét ngang thì nó sung sướng biết là nhường nào. Cho nên, thuyết pháp là khuyến tặng cho đời một nguồn sáng, công đức vô lượng vô biên, giúp cho người ta đường lối suy tư và hành động đó là công đức.

*Thính pháp, trong đó mình ngồi đực cái mặt ra mình nghe một cách thụ động thì không nói, đằng này mình lắng nghe vì sao ? vì mình là ao tù nước đọng, nếu mà một cái ao mà nước không ra không vào thì chỉ cần lá rụng và thú chết nó lọt xuống dưới một cái thì thúi cả làng ; nhưng mà một cái ao mà có nước ra nước vào thì nước đó nó trong nó đẹp và nó sạch đủ dùng, thì một cái não trạng của chúng ta cũng phải thường xuyên được nước ra nước vào, phải có lắng nghe phải có học hỏi phải có chỉnh sửa thì mới khá được, thì cái nghe pháp cũng là một công đức là vì sao ? Vì càng nghe mình càng khá hơn ; vì trong kinh nói mình nghe pháp nó có nhiều mục đích : mình nghe để mà phá nghi, nghe để mà giải quyết một điểm thắc mắc nào đó, nghe để mà mình biết thêm điều mình chưa biết, nghe để mà củng cố điều mình đã biết, nghe để mà sống lại cái điều mà mình vừa được nghe.

Ví dụ như : NgàiXá-Lợi-Phất, Ngài sẵn sàng ngồi xuống để nghe người đệ tử là vị sa-di 7 tuổi thuyết pháp ; không phải Ngài nghe để Ngài phá nghi, cũng không phải nghe để biết thêm điều chưa biết, không phải nghe để củng cố điều đã biết mà Ngài nghe để Ngài sống lại điều Ngài đang nghe ; khi mà Ngài nghe vị ấy nhắc niệm nhắc chi, cần nhắc chi thì Ngài phỉ lạc toàn thân ; rồi Đức Thế Tôn nhiều lần Ngài bệnh, Ngài nói Ngài Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên, Mahācunda, Ngài nói rằng hôm nay Như Lai đang bệnh, Như Lai không có an lạc về thân, hãy đọc cho Như Lai nghe một đoạn ‘Thất giác chi’ đi, chư Tăng mới nói bạch Thế Tôn, đây là ’’Thất giác chi’’ đã được Thế Tôn chứng đắc và tuyên thuyết, thế nào là bảy, một là niệm giác chi, hai là trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi…Khi mà chư Tăng đọc những điều mà Ngài đã giảng thì Ngài bèn hoan hỷ và hết bệnh.

Trong room mình không có tin, ủa Phật bị bệnh mà cũng cần tụng kinh ak trời, không phải, mà Ngài nghe Ngài sống lại với cái mà Ngài đang nghe ; còn mình ngày nay mình không hiểu ý nghĩa của chuyện đó mình cứ tưởng là quanh năm sống như con giỏi vậy đó rồi tới hồi bệnh hoạn khò khè đó thỉnh ba mớ Tăng Ni về đè ra tụng cho chầu cầu an đó rồi ngáp ngáp quốc luôn cầu siêu thì phải nói rằng, đó là hiểu lầm nghe quý vị.

👉
Trong ‘Mi-tiên vấn đáp’ có ghi thế này : ‘một buổi cầu an, hộ niệm mà muốn cho có kết quả thì một là người nghe phải lắng tâm và nhận thức đầy đủ ; thứ hai là người tụng phải có chánh niệm, biết và hiểu mình tụng gì ; thứ ba là không có sự can thiệp của trọng nghiệp’. Nhớ nha, ba là không có sự can thiệp của trọng nghiệp nói theo Việt Nam là bệnh căn bệnh quả đó, tiền khiên nghiệp chướng gì kiếp trước thì bó tay, bệnh đó ngay cả vị Chánh Đẳng Chánh Giác cũng phải bó tay, Ngài cũng không cứu mình được vì đó là bệnh nghiệp mà ; còn nếu bệnh do thực phẩm, bệnh do thời tiết, bệnh do tai nạn do cái gì đó rớt trúng vào người …thì cái đó còn chữa được, bệnh mà do thời tiết thực phẩm sinh hoạt phi thời như đêm hôm mà ra ngoài uống trà trúng gió trúng thương thì đó là bệnh do hiện tại ; nhưng mà cái bệnh quá khứ ví dụ như là ung thư hay là bị sơ gan cổ chướng hay là do tiền căn nghiệp chướng gì ở quá khứ mà mình bị chứng bệnh gì mà thầy chạy bác sỹ chê thầy chùa bó gối thì cái đó gọi là bệnh căn, chữa không có được ; cho nên thập thiện là vậy đó : bố thí, trì giới, phục vụ, kính pháp, nghe pháp, cái cuối cùng là hồi hướng.

🍁
9-Hồi hướng ở đây quan trọng lắm
: hồi hướng là cái tấm lòng của người hành thiền đối với vô lượng chúng sinh khác.
Ta biết rằng ta có trong tay, thì ta phải sẵn lòng chia sẻ cho người khác đó là vật thí, nhưng mà ta biết rằng ta đang có một công đức lớn mà có vô lượng chúng sanh cũng đang hướng về ta để cầu công đức, họ muốn lắm nhưng họ không có điều kiện để làm, họ chờ đợi để mình nhắc đến họ, dễ sợ lắm, khi mình nghĩ đến họ, mình phát đại nguyện bèn hồi hướng đến vô lượng chúng sanh không phân biệt biên giới thì cái công đức đó chẳng thể nghĩ bàn bởi vì sao, bởi vì các vị có biết rằng, có biết bao nhiêu người trong chúng ta khi sống làm nghiệp này nghiệp kia, nặng thì địa ngục, súc sanh, còn không thì a-tu-la, làm ngã quỷ, mà ngã quỷ thì có 2 trường hợp :

1 là không thể nhận được phước hồi hướng dầu hồi hướng cỡ nào đi nữa thì sống cho hết kiếp để trả nghiệp;

2 là loại paradattupajivi là loại ngã quỷ có thể nhận được đồ cúng hoặc phước hồi hướng, tội nghiệp lắm quý vị, khi mà mình chết mà mình lọt xuống đây thì, quý vị có bao giờ khát nước lè lưỡi mà đói xanh mặt không ?, trong room có, tui bị, tui mới bị cách đây, mới có 2 bữa, nó khát nước đến mức mà mình đi ngang dòng nước bên đường mà mình muốn nhào xuống mình ụp cái mặt xuống, nó khát vậy đó, mà mình mới có đi mới nửa tiếng đồng hồ mà 15’ nữa mình có nước mình uống rồi mà mình còn điên dại như vậy, trong khi có chúng sanh trong kinh nói hàng triệu năm, hàng tỷ năm nó lang thang khắp đầu ghềnh cuối bể mà coi như là cứ thấy nước là nhào tới thì nước khô queo, nó khô với riêng mình thôi chứ không phải nó khô với người ta thì dòng nước nó vẫn cuồn cuộn, lăn tăn, với mình thì không khô thì nó thành lửa nó cháy, nguyên một con suối dầu lửa vậy đó, còn không thì nó thành nguyên một dòng suối máu, trong suối toàn mủ máu tanh tưởi sao uống, một dòng nước cống đắng nghét tanh rình ví dụ như vậy, mà suốt hàng ngàn năm như vậy cho nên tôi chỉ nghe đâu mà động dao động thớt có mùi nhang khói tụng niệm hồi hướng là nó mừng dữ lắm ; thì nhào tới mà họ đâu có biết họ toàn đè ra thân nhân của họ họ hồi hướng không à, ờ công đức này hồi hướng cho ba con là Lê Văn Tèo, má con là Trần Thị Tý gì đó là rồi xong, nên tốt nhất là hồi hướng nhớ đến vô lượng chúng sinh là vì hai lẽ : thứ nhất là chúng sanh nào cũng đáng thương hết ;

Thứ hai khó mà tìm ra một chúng sanh nào chưa từng là thân quyến của mình ;

lý do một là tất thảy chúng sanh đều nằm trong hai hạng người sau đây : người thiện, người hạnh phúc thì nó nằm trong cái nhóm dễ thương còn người ác người khổ thì nó nằm trong nhóm đáng thương chứ trong đời này không có ai để mình ghét hết chỉ có 2 nhóm người đó trong vô lượng vũ trụ thánh hiền nam nữ, đực cái trống mái đều nằm gọn trong hai hạng người này, đó là dễ thương và đáng thương, cho nên đây là lý do sao mà chúng ta phải hồi hướng. Hôm nay chúng ta đối với người khác ra sao thì mai này đời sau kiếp khác cũng có kẻ hành động như vậy với ta, lăn đùng ra chết là người ta đè ra hồi hướng, có lúc nhận được, lúc không nhận được nhưng mà có còn hơn không, chứ đừng có mà ngồi đó mà má tôi ba tui mà mình quyên vô lượng chúng sanh khác. Tội nghiệp lắm quý vị, quý vị mà khát nước vài tiếng, bị cái cảnh đó mình mới thấy thương cho mấy thằng ngã quỷ.

🍁
10-Điều chỉnh tri kiến :
là người thường xuyên lắng nghe học hỏi, xem xem cái biết này của mình nó có đúng hay sai, nó có tới chưa, nó có đủ sâu chưa, đủ rộng chưa, chính xác chưa thường xuyên như vậy. Phúc thay cho kẻ nào thường xuyên lắng nghe học hỏi, mà luôn nghi ngờ cái biết của mình, luôn luôn có khả năng xét lại ; mà bất hạnh thay cho kẻ nào biết ba mớ mà bèn cho nó là đủ, hằng số bất biến, nha, đó là vô cùng bất hạnh.

Trích bài giảng KTC-25
 
NGHE PHÁP CÓ PHẢI LÀ MỘT CÔNG ĐỨC ?
Không phải mình ngồi mình nghe một cách tiêu cực thụ động, mà mình phải biết lắng nghe vì mình là ao tù nước đọng. Nếu mà một cái ao mà nước không ra không vào, thì chỉ cần chờ chiếc lá rụng hoặc là thú chết nó lọt xuống dưới là nó thúi cả làng. Nhưng mà một cái ao nếu mà có nước ra nước vào thì nó trong lắm, nó đẹp và nó sạch hữu dụng. Thì một cái não trạng của chúng ta, nó cũng phải thường xuyên được nước ra nước vào, phải có lắng nghe, phải có học hỏi, phải có chỉnh sửa thì mới khá được.

Nghe pháp cũng là một công đức, là vì càng nghe mình càng khá hơn. Trong kinh có nói nghe pháp có nhiều mục đích :
- Nghe để phá nghi.
- Nghe để giải quyết những điểm thắc mắc nào đó.
- Nghe để mình biết thêm nhiều điều mình chưa biết.
- Nghe để củng cố những điều mình đã biết.
- Nghe để mình sống lại những điều mình vừa mới được nghe.


Nhừ ngài Xá Lợi Phất, ngài sẵn sàng ngồi xuống để nghe chú đệ tử sa di 7 tuổi thuyết pháp, không phải ngài nghe để ngài phá nghi, cũng không phải nghe để biết thêm điều chưa biết, cũng không phải nghe để củng cố điều đã biết, mà ngài nghe để ngài sống lại những điều ngài đang nghe. Khi mà ngài đang nghe, mà vị đó nói Niệm Giác Chi, Cần Giác Chi, là ngài hỷ lạc toàn thân. Cho nên nghe pháp đến cả ngài Xá Lợi Phất mà ngài còn thích nghe pháp như vậy.

Đức Thế Tôn có nhiều lần ngài bệnh, ngài nói ngài Mục Kiền Liên và chư tăng :

- Như Lai đang bệnh, Như Lai không có an lạc về thân, hãy đọc cho Như Lai nghe một đoạn về Thất Giác Chi.
Chư Tăng :

- Bạch Đức Thế Tôn : Đây là Thất Giác Chi đã được Thế Tôn chứng đắc và tuyên thuyết, thế nào là 7 : Niệm Giác Chi, Trạch Giác Chi, Cần Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Định Giác Chi, Tịnh Giác Chi và Xả Giác Chi.

Khi nghe chư tăng đọc lại những điều mà Ngài đã giảng, Ngài bèn hoan hỷ và hết bệnh. Có thể trong room này không tin, các vị nghĩ là Phật bị bệnh mà cũng cần tụng kinh ?! Không phải Ngài bệnh mà Ngài cần tụng kinh, mà Ngài nghe để Ngài sống lại với cái mà Ngài đang nghe. Ngày nay mình không hiểu ý nghĩa của chuyện đó ,mình cứ tưởng quanh năm sống không ra gì, rồi tới lúc bệnh thỉnh Tăng Ni về tụng cầu an cầu siêu thì phải nói rằng đó là hiểu lầm.
 
T cảm thấy Phật đã nói quá clear, quá rõ ràng, quá đủ để ta bước tiếp bằng chính đôi chân mình
nhưng chúng sanh vẫn cố chấp vào ngôn từ của phật để làm phức tạp hóa, trừu tượng hóa
 
T cảm thấy Phật đã nói quá clear, quá rõ ràng, quá đủ để ta bước tiếp bằng chính đôi chân mình
nhưng chúng sanh vẫn cố chấp vào ngôn từ của phật để làm phức tạp hóa, trừu tượng hóa
Uhm, với t thì tùy bài Kinh. Có nhiều bài t đọc không hiểu nổi nên cần tra cứu, có người giảng hoặc đọc chú giải.
 
Ác Ma & Mục Kiền Liên

Độc giác Phật là sao? Trên Độc giác là Phật tổ. Phật tổ là như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là không có thầy mà lại có thể làm thầy cho người khác. Còn riêng về Độc giác thì trên không có thầy mà dưới cũng không có trò, có nghĩa là chỉ thua Phật tổ thôi chứ vị này còn trên cả Ngài Xá Lợi Phất nữa. Thì muốn trở thành Độc giác là phải trải qua cái thời gian tu tập các hạnh lành trong suốt 2 A tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

Như ông Đề Bà Đạt Đa là ổng tu hết cái thời gian chẵn rồi. Chẵn đây nghĩa là 2 A tăng kỳ ổng tu xong rồi, ổng còn nợ lại cái lẻ thôi, nghĩa là còn 100 ngàn đại kiếp. Khiếp chưa? Ổng còn sót lại cái lẻ thôi, vậy đó mà ổng còn làm được cùng một lúc hai cái chuyện mà coi như nhập thiên bội địa. Đó là làm thân Phật chảy máu và chia rẽ tăng. Các vị thấy chưa? Đó! Thấy chưa? Tu cỡ như Ngài Mục Kiền Liên, tu cỡ như Đề Bà Đạt Đa vậy đó mà trong vòng luân hồi vẫn còn có thể làm chuyện đó.

Cho nên tôi ghét nhất là cái người mà không có nghĩ thấu đáo mà cứ cái cách suy nghĩ là coi như có tấc mốt. Cứ lấy cái tấc đó ra đo: cái nào mà quá một tấc, cái nào dưới một tấc là phủ nhận, là không tin. Sai! Vì cái nhận thức mình nó nghèo quá. Mình cứ tưởng là "Tánh tôi hiền lắm, tôi hỏng có dám làm cho ai chảy máu nói gì cái chuyện giết cha, giết mẹ." Sai bét, sai, sai bét!!! Nói vậy ngay bây giờ thôi chứ đổi đời một cái là cùng hung cực ác, bán trời không mời thiên lôi. Thứ dữ đó, chứ hỏng phải hiền đâu. Các vị có tu bằng Đề Bà Đạt Đa không? Các vị có tu bằng Ngài Mục Kiền Liên không? Cứ nghĩ nhiêu đó thôi. Suốt ngày cứ niệm cái câu đó thôi: "Tôi có bằng ông Đề Bà Đạt Đa hay không?", "Tôi có bằng Ngài Mục Kiền Liên hay không?". Mà hai cái vị đó chuyện gì cũng làm hết. Trời ơi, các vị đọc ở trong chú giải tạng luật kể về Ngài Mục Kiền Liên là quí vị chỉ có nước kêu trời, kêu trời thôi. Chuyện về Ngài Mục Kiền Liên đó.

Trong trái đất này có 5 vị Phật. Trước đó là vô số mình không có kể. Còn trong trái đất này thì có 5 vị Phật:

Kakusandha (Phật Cù Lưu Tôn),
Konāgamana (Câu Na Hàm Mâu Ni),
Kassapa (Phật Ca Diếp),
Sakiyamuni (Phật Thích Ca Mâu Ni),
Metteyya (Từ Thị Thế Tôn tức là Đức Phật Di Lạc Như Lai).


Vị Phật đầu tiên của đại kiếp này là Phật Cù Lưu Tôn Kakusandha. Ngài cũng y chang như Phật Thích Ca mình vậy đó. Ngài cũng có hai vị đại đệ tử (Vidhura và Sanjiva) đệ nhất thần thông, đệ nhất trí tuệ. Bữa đó hai thầy trò đang ôm bát đi hóa duyên ngoài đường thì lúc đó Ngài Mục Kiền Liên là ác ma thiên tử.

Lúc đó cái kiếp Ngài làm ma vương. Ngài mới nhập vô một đứa bé khiến cho nó lấy cái cục đá nó liệng vô cái đầu của Ngài đệ tử đệ nhất trí tuệ của Phật Kakusandha. Liệng đá bể đầu, máu chảy xối xả. Đức Phật Kakusandha Ngài đang đi bát đàng trước nghe cái "bịch" như vậy.

Trong kinh nói vị Chánh đẳng giác không có quay đầu, mà Ngài xoay nguyên người lại, Ngài nhìn thấy. Ngài biết chuyện gì, Ngài nói "Ma vương đúng là không có biết điều, tấn công một cái vị đại Thánh như vậy đó." Thì Ngài Vidhura, Ngài cũng y chang Ngài Xá Lợi Phất vậy đó, là La hán đệ nhất thinh văn đệ nhất trí tuệ, tuy máu chảy ròng ròng Ngài cứ lấy cái tay lau vậy thôi, lau cho thấy đường đi, chứ máu ra đầy cái mặt vậy rồi. Lau mặt rồi đi nữa, không hề hờn giận gì hết. Thương cái kẻ hại mình như là mẹ thương con. Và còn hơn thế nữa, các vị không có thể tin nổi cái này, lấy tay lau máu rồi đi nữa, mà không có một mảy may trách phiền hờn giận, khiếp như vậy.

Khi mà Đức Phật Ngài nói "Ma vương đúng là không có biết điều!" thì ngay lúc đó trọng nghiệp của ác ma lớn quá, không có trời đất nào chứa nổi, ác ma ngay lập tức mệnh chung và sanh thẳng vào địa ngục. Mà ác ma đó chính là Ngài Mục Kiền Liên.
Chưa hết. Còn cái vụ này mới ghê. Trước khi liệng đá bể đầu một vị đại thánh chí thượng thinh văn như vậy, thì Ngài Mục Kiền Liên còn làm cái chuyện phải nói là long trời lở đất là Ngài phá đạo.

Tức là Ngài dùng thần thông Ngài hiện ra một vị sa di 7 tuổi, mặt mũi đẹp như tiên giáng thế, bay lơ lửng trên hư không thuyết pháp. Giọng nói vang lừng, lanh lảnh, cực kỳ duyên dáng, hợp lý, dễ thương, lôi cuốn, thuyết phục. Trời ơi, bà con một lòng tín ngưỡng Phật Pháp, ôi thôi người ta cúng bái đạo Phật biết là bao nhiêu. Chính hình ảnh đó Ngài làm cho những vị tỳ kheo thích hưởng thụ và nương theo đó mà hưởng thụ bao nhiêu sự cúng bái của Phật tử.

Xong rồi, Ngài Mục Kiền Liên đổi qua cái tông khác. Ngài mới dùng thần thông tạo ra hình ảnh những vị tỳ kheo bê tha chè chén, dây dưa phụ nữ, rồi ăn nhậu gì tùm lum ở đầu đường xó chợ. Ngài dùng thần thông tạo những hình ảnh đó để chi? Để cho người ta chà đạp, người ta phỉ nhổ, báng bổ Phật Pháp. Ngài làm ngược làm xui như vậy đó. Ngài Mục Kiền Liên làm với mục đích Ngài phá cho tanh bành đạo Phật Ngài mới vừa lòng.

Các vị có tưởng tượng không? Tanh bành đạo Phật Ngài mới vừa lòng, ghét phá chơi vậy đó.

Mà tất cả những chuyện đó là Đức Phật Kakusandha Ngài biết. Ngài biết đây là cái thời điểm vô minh của con người này thôi. Chứ sau khi mà con người này nó qua cái cơn điên đó rồi, thì nó quay lại nó tu cũng dữ dội lắm. Bởi vì Ngài biết, Ngài nhìn Ngài biết. Ngài biết trong cái kiếp trái đất này, ác ma thiên tử này nè sẽ trở thành đệ nhị thinh văn mà đệ nhất thần thông của Đức Phật Gotama Thích Ca Mâu Ni. Ngài biết vậy nhưng mà biết sao bây giờ?

Nãy giờ tôi kể các vị nghe một loạt những câu chuyện đó để các vị thấy "Ồ thì ra lý do vì sao có bài kinh này." Tức là một người đắc quả Tu Đà Huờn họ không bao giờ mà họ có thể làm những chuyện đó. Trong khi một người hễ mà còn phàm thì cơ hội mà gọi là chằng ăn trăn quấn thì coi như là có thừa, miễn là mình còn phàm. Ai trong chúng ta hôm nay cũng yểu điệu thục nữ hết trơn, hiền lành, hiền nhân quân tử.

Nhưng mà chưa đâu. Tới lúc mà cái cơn nó tới nó gặp đúng cái môi trường, điều kiện, hoàn cảnh rồi là nó lên tới cái mức coi như là trời không dung, đất không tha, người không chịu nổi đó, nói cho các vị biết.

Nhưng đối với một vị tu hành đắc tới Tu Đà Huờn, tối thiểu Tu Đà Huờn thì không bao giờ quay lui mấy cái này. Cho nên ở vị Tu Đà Huờn, 5 điều đầu tiên là không có thể phạm 5 cái tội ngũ nghịch.

Trích bài giảng ngày 19.06.2019 KTC.6.93 Hành
 
💀
NHỮNG CÁI XÁC CHƯA CHÔN
🖤


🍂
Khi nghĩ về mảnh đời phù du thì có hai thái độ sống:


Cái thái độ phổ biến nhất đó chính là đời phù du quá không hưởng thì uổng, lỡ chết rồi là hết mà ta chỉ có một lần có mặt trên thế giới này, mà bây giờ chúng ta lại bày đặt tâm linh, tinh thần này nọ, không hưởng đời ngũ dục nhiều sắc màu thì uổng quá. Thế là vì thấy đời mong manh nên tận hưởng, đó là thái độ của đa phần chúng ta. Chỉ có một số ít trong đó thấy ngược lại, họ thấy chính vì đời qúa mong manh, quá phù du nên mới phải chuẩn bị cái kiểu nào để ra đi cho êm đẹp một tí.

- Nếu có đời sau kiếp khác thì những chuẩn bị này là không thừa

- Không bàn tới chuyện đời sau kiếp khác, chỉ tính cái khoảng mà đối diện với cái chết trên giường thì kẻ nào có công phu, có nội lực, nội hàm, hàm dưỡng… kẻ đó sẽ chết đẹp.

🍂
Tôi nói các vị có thể không tin nhưng mà đây là sự thật, nếu ai đó tin tôi thì người đó cũng được an lạc. Đó là sống bao lâu không thành vấn đề mà vấn đề đó là:

1/ Khi anh sống có hy hiến, có đóng góp gì cho đời hay không?

2/ Anh chết bằng cái tâm trạng gì?

Chết có 3 kiểu:


- Cái chết thanh thản của thánh nhân, xong việc rồi thì đi, không còn lý do gì để nấn ná nắm níu.

- Cái chết thứ hai là của người chán chường, nhìn sau lưng không còn gì để tiếc nuối, quá khứ chỉ là vầng trăng xám xịt, thôi thì về một phương trời khác, không biết nó đẹp, nó xấu ra sao nhưng phương trời vừa rồi nó hải hùng quá, hắc ám quá, mờ mịt quá.

- Cái chết thứ ba là cái chết kinh dị nhất: chết trong sự sợ hãi, trong tiếc nuối, trong ray rứt, ra đi mà không đành lòng, không có can tâm, chân đi rồi mà còn quay đầu, ngoái mắt lại nhìn. Cái chết đó là cái chết của sợ.
Cho nên tôi nói một chuyện, giờ tôi sống thêm bao năm nữa không quan trọng mà cái tôi mê mẫn, đắm đuối, thèm khát nhất là được chết trong sự tỉnh táo, trong sự chán chường, là tôi biết mình còn bao nhiêu hơi nữa để thở rồi tỉnh táo, bơ bơ cái mặt mà đi.

🆘
Chúng ta sống dễ ngươi* lắm, dễ ngươi do thất niệm, có nghĩa là mình không biết cái gì diễn ra cho thân tâm này. Mình là cái xác chưa chôn, chưa có thúi, chưa sình, chưa trương phồng, chưa chảy nước, chưa bốc mùi. Chớ còn mình đi, đứng, nằm, ngồi, sinh hoạt, thiện ác, buồn vui mình không có biết gì hết. Rõ ràng mình là những cái chết chưa chôn.

🛑
*Kiến thức bổ sung:

DỄ NGƯƠI gồm có 3:


- Coi thường điều ác nhỏ rồi làm. Nhỏ quá đáng cái gì?
- Coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm. Nhỏ quá làm chi mất công?
- Không e sợ sanh tử. Khi nào chết hẳn hay, bây giờ còn sống thì sống cho nó đã.

Ôi bao nhiêu người đâu có tu hành gì đâu, địa ngục nào mà chứa cho hết hả trời?

Trùn, dế, cào cào, châu chấu chó, heo, mèo, gà… không có tu hành gì hết rồi địa ngục đâu chứa hết tụi nó? Bảy tỷ người trên hành tinh này có ai tu hành gì đâu, có được bao nhiêu phần trăm, rồi không lẽ về địa ngục hết sao?
Thôi để mai mốt gần chết rồi tính, bây giờ mình cứ sống xả láng mát trời đất.
 
Sửa lần cuối:
☸
ĐỨC PHẬT NGÀI DẠY CHỈ CÓ MỘT CÁCH DUY NHẤT ĐỂ TRẢ ĐƯỢC ƠN CHA MẸ

ĐÓ CHÍNH LÀ AN TRÚ CHA MẸ VÀO BỐN PHÁP : CHÁNH TÍN, GIỚI HẠNH, THÍ XẢ, TRÍ TUỆ.

🔴
Trên đời này có hai hạng người khó mà mình trả xong cái ơn. Đó chính là cha mẹ. Ngài xác định rằng cho dù một đứa con có để cha mẹ ngồi lên hai vai của mình để mà đi hết một đời như vậy, để cho cha mẹ tiểu tiện trên người của mình. Một trăm năm đâu phải là ít, một kiếp người cũng khá dài khi mà phải chịu đựng bao nhiêu thứ khó nhọc đó.

Tuy nhiên sự khó nhọc đó của người con cũng không thể nào bù đắp được cái tấm lòng, ơn sâu nghĩa nặng mà cha mẹ đã dành cho mình. Là vì bản thân đứa con đó, tấm lòng của đứa con trong lúc cõng cha mẹ trên vai không bì được với tấm lòng của cha mẹ lúc chăm sóc con cái, chỉ cái khoảng này thôi, mặc dù trên hình thức quay phim chụp hình thì mình thấy một đứa con mà cõng cha cõng mẹ suốt một trăm năm trên vai, để cho ông bà tiểu tiện trên người của mình, thì mình thấy hình ảnh đó nó dễ sợ thiệt

. Nhưng mà ngồi ngẫm lại vì sao Đức Phật dạy như vậy, chuyện rất là đơn giản, vì tấm lòng của đứa con mà họ cõng, dầu là đại hiếu chí hiếu cũng không có bì được cái tấm lòng từ bi hỷ xả của cha mẹ mà dành cho con cái từ lúc biết nó đã tượng hình phôi thai, cho đến khi nó chết hoặc mình chết. Trong suốt khoảng thời gian đó tấm lòng trời bể của cha mẹ, con cái không thể nào bì được. Khi ngài xác nhận để trả ơn cha mẹ thì với hình thức vật chất ấy không thể nào đáp đền trong muôn một. Tuy nhiên chỉ cần người con hướng dẫn cha mẹ có một đời sống tâm linh thì coi như có thể đáp đền được .

🌟
Trong Chú giải có ghi rõ :Con cái chỉ có một cách duy nhất để báo hiếu rốt ráo là giúp cha mẹ có được bốn pháp lành sau đây : Saddha-Chánh tín, Sila-Giới hạnh, Caga-Thí xả, Panna-Trí tuệ.


Vì nhờ hành trì bốn pháp này thì cha mẹ sẽ có đường luân hồi tốt đẹp.Thậm chí chấm dứt luân hồi .

☸
Ngài giải thích thêm giống như trường hợp ngài tôn giả Xá Lợi Phất, năm 40 tuổi ngài đi tu, 84 tuổi ngài trở về gặp mẹ. Chỉ có một đêm gặp mẹ lúc rạng sáng trước khi nhắm mắt viên tịch, ngài thuyết pháp cho mẹ nghe, giúp cho mẹ chứng sơ quả Tu-Đà-Hườn, rồi ngài xuôi tay ra đi. Thì đây là cách trả ơn mà được xem là rốt ráo nhất. Nói là đắc Tu-Đà-Hườn nhưng thật ra đó là một cách nói khác của bốn cách tôi vừa nói.

1️⃣
Đức tin.
Là chánh tín. Có nghĩa là niềm tin căn cứ trên trí tuệ, nghiệp báo và tam tướng. Tin rằng làm thiện thì được vui, làm ác thì bị khổ. Mọi thứ do duyên mà có, có rồi phải mất.

2️⃣
Giới hạnh.
Là người sơ cơ giữ giới để cầu phúc, giữ giới vì người khác như vì e ngại thị phi. Có nghĩa là nếu mà mình giữ giới để cầu phúc, để tránh tội thì mình không có sát sanh. Bởi vì mình sợ kiếp sau mình sanh ra mình yểu thọ, bệnh, để kiếp sau mình được trường thọ khỏe mạnh. Còn riêng bậc hiền trí nói chung , bậc hiền thánh nói riêng , giữ giới vì lòng của các vị không có lý do nào để mà cướp đoạt mạng sống của người khác, và chẳng những không sát sanh mà các vị còn tránh luôn cả cái râu ria những liên quan đến giới sát sanh. Ví dụ làm khổ chúng sanh khác nó cũng là râu ria của giới sát.

Như giới hành dâm là tính giao, giao phối nam nữ, có 7 điều liên quan gọi là : methunasamyoga có nghĩa là không gần gũi thân xác nhưng thích nhìn ngắm, nghe tiếng nói, tơ tưởng đều là liên quan đến việc tính giao. Mình không sát sanh, không trộm cắp cũng vậy. Đúng là mình không có cướp đoạt lén lút lấy của người ta, nhưng mà có lòng ham thích chú ý lưu tâm đến cái của người khác cũng là không nên. Đại khái như vậy. Vậy thì giới có 2 trường hợp, một là cầu phúc tránh tội, hai là bản chất thiện pháp của mình không cho mình làm chuyện đó.

3️⃣
Thí Xả.
Giúp cho cha mẹ có khả năng thí xả, có nghĩa là mình nói làm sao để cho cha mẹ thấy rằng buông ra tốt hơn nắm lại. Chẳng hạn như trong kinh Đức Phật dạy rằng : Một ngôi nhà đang cháy thì việc làm duy nhất mà gia chủ cần phải thực hiện đó là nhanh chóng đem ra những thứ có giá trị mà mình không muốn mất.

Cũng vậy, trong tấm thân này nó sẵn sàng gặp bao nhiêu điều bất trắc, lão, bệnh, tử, tai họa, những bất thường không lường trước được, chúng ta có thể ra đi bất cứ lúc nào.

Một mình ăn sẽ hết, người khác ăn sẽ còn. Khả năng bố thí cũng có ý nghĩa, một là bố thí cầu phúc để đời sau sanh ra không thiếu thốn để được dư.

Hai là bố thí để mài mòn cái ý niệm sở hữu, mài mòn cái thói quen bủn xỉn, thói quen ôm giữ ghì chặt của nhiều đời, của vô số kiếp sanh tử tiền thân. Hiểu như vậy thì bố thí mới tới nơi tới chốn.

4️⃣
Trí Tuệ.
Mình giúp làm sao mà cho cha mẹ luôn nhớ lấy điều này : Nghiệp lý là đời này cái gì cũng có nhân có quả, nhân quả luôn luôn tương ứng nhau, mọi thứ không phải ngẫu nhiên mà có cũng không phải do đấng cao sanh nào tạo ra, mọi thứ do nhiều nhân duyên vô vàn tác động.

Mọi thứ do duyên mà có, có rồi cũng mất. Do thiện mới có vui, do ác mới có khổ. Cả thiện ác buồn vui này đều do vô số điều kiện mà có, có rồi phải mất đi. Tuy nhiên vì bản chất mình là thiện, vì tôn trọng điều thiện thì mình phải hành thiện lánh ác, nhưng luôn luôn nhớ rằng quả của thiện cũng là vô ngã vô thường, quả của ác cũng là vô ngã vô thường. Dầu tránh ác thì cũng luôn luôn nhớ là vô ngã vô thường và dầu hành thiện thì cũng phải nhớ dầu cái quả thiện nào có hay cách mấy cũng luôn luôn nhớ nó là vô ngã vô thường.

Đó được gọi là sống trong trí tuệ. Trong một câu trả lời của Đức Phật cho quỷ Dạ Xoa Ngài có dạy rằng : Paññājīvim jīvitamahu settham : Cuộc sống trí tuệ là cuộc sống cao quý nhất .

♻️
Cuộc đời này nó là một màng đêm mịt mù. Phúc thay cho kẻ nào sống ở đời này được sống trong ánh sáng, bởi vì không có ánh sáng thì mình chỉ có sống mò thôi.
Quí vị biết trong một căn phòng chật hẹp bụi bặm nhiều đồ đạc, mà ban đêm mình mò thì khả năng tai nạn rất lớn nói chi là trong cuộc đời bao la mênh mông này, trong một biển đời mênh mông bát ngát mịt mù tối thui, thì các vị tưởng tượng cái kiểu tai nạn Titanic là chuyện nhỏ, nó còn những cái khác khủng khiếp hơn nữa.

Cho nên được sống trong nguồn sáng của trí tuệ là cả một đại phúc đại hạnh. Cho nên Đức Phật ngài dạy chỉ có một cách duy nhất để trả được ơn cha mẹ đó chính là an trú cha mẹ vào bốn pháp này.
 

Có thể bạn quan tâm

Top