• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Kinh Nghiệm Học Phật - Vấn đáp Phật Pháp

PHẬT PHÁP CHỈ DÀNH CHO NGƯỜI BIẾT CHÁN SỢ SINH TỬ.


Chỉ vậy thôi,

Không có biết chán sợ sanh tử thì Phật Pháp nầy tôi năn nỉ đừng có rớ tới là vì ba lý do :


1️⃣

Không có chán sợ sanh tử thì mình không có chấp nhận nỗi lời Phật bởi vì Phật xúi mình đi ra mà.
Mình chấp nhận không có nỗi.

2️⃣

Không chán sợ sanh tử thì có nghĩa là mình đang Mê.
Nếu mình còn Mê thì tại sao mình lại đúc cái đầu vô cái con đường lìa bỏ làm chi.

3️⃣

Cái lý tưởng Phật Pháp đi ngược lại cái đời sống của mình thì tại sao mình ngu dại gì mình đúc cái đầu vô trong đó.

Vì thế, Phật Pháp chỉ dành cho một hạng người duy nhất là biết CHÁN SỢ SANH TỬ.
Kẻ nào còn cầu mong hưởng phúc Nhân Thiên, còn mong được hưởng cái trăng thanh gió mát là kẻ đó chưa có phải là cầu đạo Giải Thoát.
Phải thấy một phút hít thở của La Hán cũng là Khổ thì mới thật sự chán sợ sanh tử ...!!!


Gớm như vậy đó,
Phải đến mức như vậy.
Cái một phút hít thở của La Hán chứ không phải của mình nha, một phút thôi cũng là Khổ thì mới thật sự là chán sợ sinh tử. Còn thấy mình còn muốn được cái nầy, cái kia là Chết.

Và tôi đã nói cái cuối cùng, mình thấy một phút mà hít thở của vị La Hán có gì đâu.
Hít với thở thôi đâu có gì mà thơm ngon, béo ngọt, bùi giòn gì đâu ...
Nhưng mà hễ còn có mặt là còn Khổ nha.

Đức Phật dùng hình ảnh nầy nè :

● Ngài nói giống như phân người dầu cho nó là một đống lớn hay nó chỉ dính một miếng nhỏ xíu trên đầu cây que thì lúc nào nó cũng là phân, lúc nào cũng đáng gớm.

● Dầu nó là một đống lớn hay chỉ là một miếng ở đầu que gỗ thì phân ở đâu cũng là phân.

● Ngài nói bất cứ hình thức hiện hữu nào, dầu thô hay là tế đến mấy thì cũng đều là đáng chán, đáng sợ hết.


Cái người không hiểu Đạo, không học Giáo Lý, không hành Tứ Niệm Xứ thì không có tin được cái chỗ nầy.

Các vị rất là ngạc nhiên là tại sao Đức Phật Ngài nói về cái chuyện sanh tử, cái chuyện có mặt ở đời này bằng cách nói rất là khắc khe, nghiêm túc như vậy.

Các vị phải thấy biết như vậy thì các vị mới thấy Ngài nói đúng.

Các vị thử tưởng tượng đi, cái này tôi đang nói kiểu thường thức dành cho người dốt đặc không có biết gì hết nè.
Trong một ngày, cái Tâm ác và Tâm thiện của quý vị cái nào nhiều hơn ...?!

Chắc chắn là Tâm ác nhiều hơn Tâm thiện rồi từ đó suy ra bước ra ngoài đời nhắm mắt quơ tay toàn là người xấu nhiều hơn người thiện không à.
Tại vì bản thân đã là xấu.

Các vị tưởng tượng đi, mình xấu mà chung quanh mình toàn là người xấu thì hỏi quý vị vậy có cơ hội nào để mà mình làm thiện không.
Rất hiếm.
Toàn là chuyện tầm bậy không.

● Bây giờ, các vị có nhan sắc một chút, có tiền một chút, có sức khỏe một chút, có tuổi trẻ một chút thì thử hỏi các vị cái tâm tình nào mà các vị tìm đến với Phật Pháp ...?!

Làm ơn trung thực, làm ơn chân thành với lòng mình một chút đi.
Bây giờ các vị có tiền, có sức khỏe, có nhan sắc, có tuổi trẻ, có uy tín quyền lực, có chức vụ, đặc biệt là có tình cảm nam nữ đang mùa yêu thì hỏi có bao nhiêu kẻ chịu đến để mà nghe đạo ...?


Nhưng mà các vị chán đời, sợ khổ nên trong cái room nào giảng cũng nhào vô nghe không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, nghe được cái gì bỏ túi bao nhiêu hay bấy nhiêu.

● Cho nên cái đạo này, là dành cho cái người Ly Tham, dành cho những người muốn Tịch Diệt, dành cho những người chán sợ Sanh Tử.

Ác nhiều bao nhiêu thì khổ nhiều bấy nhiêu.

Khi nào, cơ hội làm ác nó nhiều hơn cơ hội làm thiện thì cái cơ hội Đọa lớn hơn cái cơ hội sanh về Nhân Thiên.
Cái cơ hội làm giun, làm trùn, làm dòi, làm bọ nó lớn lắm.

Còn cái chuyện mình quay trở lại mình làm nam thanh nữ tú, tài tử giai nhân, đủ ăn đủ mặt, có học, có tiền, có nhan sắc, có sức khỏe, rồi có tình yêu, có quyền lực, có chức vụ ....


Tôi xin hứa với các vị cái chuyện đó nó hiếm dữ lắm.
Hiếm lắm ...
 
Sửa lần cuối:
Hỏi

1- Chúng con thắc mắc thân nữ giới xấu tệ và quá bất hạnh hay sao?

2- Tại sao cũng có nhiều vị thánh nữ rất ok? Như vậy mình sẽ nói sao về trường hợp các vị đó?

3- Có phân biệt phụ nữ và nam giới? Chẳng hạn như những quả vị Độc Giác, Đế thích Chuyển Luân Vương, Ác Ma Thiên Tử tại sao không có nữ?

ĐÁP

Ở đây không hề có chuyện phân biệt, bởi vì đó là luật của vũ trụ, không do một cá nhân nào áp đặt. Chúng tôi xin trả lời từng phần.

Có 3 lý do chúng ta mang thân nữ :

Do quá nhiều phiền não, chẳng hạn như tánh nhỏ mọn, ích kỷ, bủn xỉn, hoặc đa cảm đa tình, lằng nhằng không dứt khoát trong trong suy nghĩ cảm xúc, trong quyết định công việc. Gom chung những thứ đó là phiền não, những thứ đó nó nhiều quá cũng đẩy làm mang thân nữ. Chính do những đặc điểm tâm lý đó, nó tạo ra những sở hành, hạnh nghiệp mà nó dẫn mình đến thân nữ.

Ta mang thân nữ vì ta phải trả nghiệp xấu nào đó, đặc biệt là nghiệp tà dâm. Chẳng hạn như thường lui tới quan hệ những đối tượng nam hoặc nữ, mà xã hội không cho phép. Thí dụ gái chưa chồng, phụ nữ đã có gia đình, đàn ông đã có vợ, v.v... trong trường hợp xã hội lên án được gọi là tà dâm. Với nghiệp tà dâm chúng ta có thể bị mang thân nữ trong một kiếp sau.

Chúng ta mang thân nữ vì một bổn nguyện nào đó (trường hợp này cực hiếm). Thí dụ như bà Maya, cách đây 100 ngàn đại kiếp bà quỳ dưới chân một Đức Phật, bà nguyện sẽ có một kiếp là mẹ của một vị Bồ Tát kiếp chót trước khi vị này thành Phật.

Chúng tôi xin lưu ý: bà con đối với Thế Tôn vì lòng tôn kính chúng ta không nói là mẹ Thế Tôn, hoặc bà Yasodharā (Gia- Du- Đà- La) mình không nói vợ của ngài được, mà mình phải nói là vợ của thái tử Tất Đạt.

Bà nguyện sẽ có một kiếp là mẹ của một vị Bồ Tát kiếp chót trước khi vị này thành Phật. Khi bà nguyện như vậy, bà làm các công đức và trải qua 100 ngàn đại kiếp, cuối cùng bà mang thân nữ là bà Maya. Và trong kinh nói rất rõ lúc đó bà đã tháo cởi sạch sẽ toàn bộ cái gọi là nữ tính. Chẳng qua vì do hạnh nguyện kiếp xưa, bà mang thân nữ là vợ của vua Tịnh Phạn để cưu mang hoài thai thái tử Tất Đạt trong 10 tháng.

Sau khi sanh hạ thái tử rồi, đúng một tuần sau bà mất và bà lập tức sanh về cõi Đâu Suất trong thân một vị tiên nam. Đến 42 năm sau lúc Thế Tôn thành đạo được 7 năm, ngài lên cõi trời thuyết pháp, mình cứ nói là độ cho Phật mẫu, đền ơn Phật mẫu, nhiều người cứ tưởng bà còn là thân nữ. Nhưng thật ra lúc đó bà từ Đâu Suất nghe pháp trong hình hài một vị tiên nam. Tại sao vậy? Vì bà không còn lưu luyến tơ tình nam nữ nữa, đã chán sợ thân nữ và đã hết sạch.

Và một người nữa là bà Yasodharā (Gia- Du- Đà- La) là do hạnh nguyện phò trì Bồ Tát viên thành Phật đạo, bà phải đi theo làm bạn đường bạn đời của ngài trong vô lượng kiếp để hỗ trợ. Bởi vì theo quy luật tự nhiên của trời đất thì tất cả chư Phật ba đời mười phương trước khi thành Phật đều có vợ con, sau đó đi tu. Bà cũng là thành phần nhân sự trong đại nghiệp đó của ngài.

Tuy nhiên theo mô tả trong kinh thì đối với bà chuyện tư tình nam nữ không còn nữa, bà chỉ thương quí Bồ Tát như một người anh, như tri kỷ, tri âm, mặc dù hai người có với nhau một người con. Chuyện đó đúng là vì ngài phải có con rồi mới thành đạo. Nhưng trong tư tình nam nữ bà cạn rồi. Đây là lý do vì đâu mà khi bà xuất gia, bà đắc sơ, nhị, tam, tứ thiền sắc giới, 4 tầng thiền vô sắc, bà đắc thiền dễ hơn mình nháy mắt.

Các vị biết một người muốn đắc thiền nhiều nhanh như vậy thì phải có khả năng ly dục cực kỳ đáng nể. Phải nói là như vậy.

* Nữ không thành tựu quả vị lớn rất đơn giản là vì khi mình có tâm nguyện hướng tới quả vị như Đế Thích Chuyển Luân Vương, Ác Ma Thiên Tử, Độc Giác, Toàn Giác thì khi mình có hạnh nguyện như vậy thì tự nhiên tánh nữ sẽ bỏ từ từ, và sẽ có hào khí trượng phu hừng hực sùng sục trong người thì máu nữ nó bị tan biến bốc hơi dần dần. Khi công thành quả mãn thì máu nữ cũng dứt sạch sẽ. Mĩnh sẽ không mang thân nữ nữa, chỉ đơn giản như vậy. Và khi sanh trở lại chắc chắn là thân nam. Có nhiều người coi kinh có nửa trang rồi lại hiểu không đúng nói rằng phân biệt nam nữ. Ở đây không hề có phân biệt.

Cho nên bây giờ mới có định nghĩa : “Nam đích thực thì không thích đực, mà thích đực thì không phải là nam đích thực “.
Có nhiều người mang thân nam mà hồn sâu xác bướm hoặc hồn bướm xác sâu. Có nhiều người họ mang thân nữ nhưng tâm tánh rất là nam, mình nhìn đoán chắc là nghiệp gì đây, rất là ok.

Đó là hồn nam xác nữ. Còn có nhiều người hồn nữ xác nam, cơ bắp cuồn cuộn 6 múi, 12 múi, như là bưởi là cam, nhìn là muốn chấm muối ớt rồi, tánh cực kỳ nhỏ mọn, ghen tuông, tị hiềm.

* Khi mình nuôi hạnh nguyện lớn thì tánh nữ sẽ bớt từ từ, và ngay lúc mình sơ phát tâm thì tánh nữ đã bớt mấy chục phần trăm, rồi bổ sung các hạnh nghiệp dần dần, giống như trong người mình tập luyện đàng hoàng thì giống như thuốc đến thì bệnh đi. Mình khỏe thì bệnh nó mất. Cái lành nó đến thì cái ác nó đi, chuyện đó rất là đơn giản.

Có nhiều người nói con sợ nữ lắm, con muốn làm nam đi xuất gia, cái cách của họ trề trề : “ hổng muốn làm nữ nữa “, nghe chữ “ Nữa “ là thấy tánh nữ nó tràn trề trong đó rồi, là biết họ sẽ tiếp tục làm nữ nữa. Không được như vậy, mà mình phải là hào khí trượng phu hừng hực sung thiên mới được.

* Ở đây không hề có chuyện kỳ thị, vấn đề là chính mình tự xử trong cõi đời này. Đường mình đi là do mình vạch ra, không ai bồng bế bắt mình phải bước.
 
Chuột Trắng Chuột Đen

Khi học về giáo lý mười hai duyên khởi là cùng lúc chúng ta học về nghiệp báo lẫn tái sinh. Nghiệp báo là sao mà tái sinh là sao?

Tất cả chúng sinh từ phạm thiên, đế thích xuống tới con trùng, con dế đều có điểm giống nhau là sống bằng sáu căn. Và sáu căn nó tồn tại là bằng cách tiếp xúc với sáu trần. Cái này không ghi lại không có được.

Thế giới này được gọi là ảo là bởi vì hai lẽ: Thứ nhứt, nó không có cái gì mà gọi là nam nữ, người tốt kẻ xấu. Không có cái gì mà gọi là núi non, kênh rạch, đất đá. Không có. Mà tất cả chỉ gồm có sáu thứ cộng lại thôi. Đó là: đất, nước, lửa, gió, là bốn, cộng với hư không và thức, là sáu. Là lục đại. Mình học có tứ đại thôi, mà thật ra nó là lục đại. Cho nên đất nước lửa gió, hư không và thức là sáu. Và sáu cái này nó cộng lại làm ra cái gọi là chúng sinh, làm ra cái gọi là vũ trụ

. Ảo là ảo vậy đó. Nó là đồ ráp. Thế giới này được tạo ra bằng lục đại. Và ngoài lục đại thì không có cái gì là ông A bà B, con mèo con chó, con giun con dế. Không có. Và chính lục đại đó nó làm nên 12 thứ sau đây: là sáu căn và sáu trần. Vậy thì lẽ thứ nhất: Bản chất thế giới chỉ là lục đại cộng lại tạo ra sáu căn và sáu trần.

Tôi biết tôi nói này nhiều người rất là sốc nhưng mà không nói không được. Sáu trần chỉ được gọi là sáu trần khi nó được sáu căn biết. Và sáu căn chỉ được gọi là sáu căn khi nó biết là sáu trần. Có nghĩa là giả bên ngoài mà bên trong cũng giả luôn. Là sao? Tức là sáu căn sáu trần nó chỉ là lục đại thôi: đất nước lửa gió hư không và thức. Nó đã là đồ giả rồi mà cái giả thứ hai là lục căn chỉ được gọi là lục căn khi nó có biết sáu trần. Mà sáu trần được gọi là sáu trần khi nó là đối tượng của sáu căn.

Tôi chứng minh: Tôi hỏi các vị vậy chứ, cái (cây dùi chuông) này nó là trần nào trong sáu trần, sắc thinh khí vị xúc, nó là trần nào? Nó là cả sáu trần. Mình có thể thấy nó hay không? Có thể biết bằng lỗ tai không? Có thể ngửi hay không? Rồi mình có le lưỡi mình liếm, sờ chạm nó được không? Rồi mình liệng nó qua một bên mình nghĩ về nó có được không? Như vậy nó là sáu trần đúng không? Và khi mà mình nằm trong phòng mình ngủ, nó nằm ngoài này thì lúc đó đối với mình nó có là sáu trần không? Có. Rồi bây giờ mình nằm mình ngủ trong phòng thì nó không còn là trần nào hết. Tức là tôi để nó đây, tôi vô trong phòng tôi ngủ thì lúc bây giờ đối với tôi nó không là cái trần nào hết. Nó là cái trần của người khác, của cái người nào đang biết nó. Ví dụ như con kiến nó đang bò lên đây, thì đối với con kiến nó là bờ đê vì nó to lắm.

Nhưng nếu có người nào đó đang dùng nó để đánh chuông thì nó là cái dùi chuông. Mà trong khi mới lúc nãy tôi mới nói nó là sáu trần của tui, mà giờ tui vô nằm tui ngủ hoặc tui thức mà tui làm chuyện khác tui không còn biết về nó thì nó trở thành trần của ai đang biết về nó. Có hiểu không?

Như vậy, sáu trần chỉ được gọi là sáu trần khi nó là đối tượng của sáu căn. Và ngược lại, sáu căn cũng chỉ được gọi là sáu căn khi nó nhận biết được sáu trần. Nếu bà con không tin, các vị lại nhà quàn Vĩnh Phước mà coi. Thì cũng mắt tai mũi lưỡi đó mà còn là căn hay không? Bởi vì lúc đó không còn khả năng nhận biết sáu trần nữa. Mà nếu lúc đó đưa vô hòm nó nằm mà nó vẫn mở mắt nó nháy thì ... Hiểu không?
Cho nên sáu trần chỉ được gọi là sáu trần khi nó là đối tượng của sáu căn và sáu căn chỉ được gọi là sáu căn khi nó biết sáu trần. Rồi, vậy là ôn được rồi đó. Thì như vậy, tôi nhắc lại, cả thế giới này chỉ là con số mười hai đó thôi.

Còn sanh tử là gì? Sanh tử có nghĩa là do vô minh trong bốn đế không biết được rằng: sáu căn sáu trần là của nợ, là gánh nặng, là khổ. Mà mình cứ thấy cái trần nào khó chịu mình giải quyết bằng cách đi tìm trần khác. Chính vì mình giải quyết cái khổ như vậy mà không thể thoát khổ, giống như khát nước mà đi uống nước muối vậy đó.

Còn có người bất mãn cuộc hôn nhân là ly dị lấy thằng khác. Cũng thế thôi. Người ta nói đàn ông là lần đầu mà lấy vợ đó là mạo hiểm. Lấy được vợ mà không ly dị là nghị lực. Mà ly dị được vợ là sáng suốt. Mà ly dị rồi mà lấy lại lần nữa là u mê. Tui biết tui nói các vị nhiều người tự ái. Mà nói thiệt là ở trong chăn mới biết chăn có rận. Nó khổ kinh dị lắm.

Cho nên, cái chuyện đầu tiên là do vô minh trong bốn đế không biết sáu căn sáu trần là khổ nên người ta đã trốn khổ tìm vui bằng cách là hoạt động thiện hoặc là ác. Có người trốn khổ tìm vui bằng sát sanh, săn bắn, câu cá, bài bạc, shopping, nấu ăn tùm lum hết. Đó là cách trốn khổ tìm vui. Cách thứ hai là người ta trốn khổ tìm vui là đi vào chùa ngồi thiền nghe pháp tụng kinh để kiếp sau khá hơn. Nhưng họ không biết rằng, kiếp sau có khá hơn thì cũng là một cách quay lại con đường cũ.

Vì trong kinh nói: Cảnh giới nào cũng chỉ là những con đường trong khu rừng. Và những ai đã từng đi rừng, đi park thì biết. Chỗ có gai và chỗ không có gai cách nhau có một mét thôi. Nghe kịp không? Các vị có dám nói với tôi là các vị đang trong một con đường mòn trong rừng các vị an toàn hơn cái đứa trong bụi hay không? Khi màn đêm phủ xuống, con cọp nó đâu có thèm biết trong đường mòn hay trong bụi, nó nghe cái mùi thịt là nó tới thôi. Con rắn nó cắn mọi người, nó đâu chỉ cắn người trong bụi mà nó tha người đi trên đường đúng không? Trong rừng mà. Đúng không?

Cho nên trong kinh nói: Cảnh giới nào thì cũng chỉ là những nơi chốn ẩn nấp trong một khu rừng hoang mà thôi. Mà khi màn đêm nó phủ xuống thì không có nơi nào trong khu rừng là an toàn hết. Chẳng qua là mình thấy mình thấy chỗ mình là gò đất hơi cao cao, còn cái bà này bà ở nơi chỗ sình thì mình thấy mình hơn bả. Nhưng màn đêm phủ xuống thì gò cao hay bãi sình thì hình như cũng như nhau. Chính vì cái chuyện vô rừng cho nên nó có cái chữ nibbana, nghĩa là ra khỏi rừng.

Chữ nibbana có nhiều nghĩa lắm. Nghĩa một của chữ nibbana là ra khỏi rừng. Nghĩa hai là sự chữa lành vết thương. Nghĩa ba là sự tháo gỡ những gì đã được đan dệt. Bởi vì thế giới này sự tồn tại của những chúng sinh chỉ là sự cộng ghép của những gì được đan dệt. Có đúng vậy không?

Cuộc đời của quý vị chỉ là sự đan dệt của bốn thứ : Thiện – Ác – Buồn – Vui. Niềm vui của đời này là quả lành của việc thiện đời trước. Nỗi khổ đời này, buồn khổ đời này là quả xấu của những việc ác đời trước. Cái ác đời này là nhân của khổ đời sau. Cái thiện đời này là nhân của vui sướng đời sau. Như vậy cả quý vị trong một đời một tháng một năm một tuần một giờ và trong từng phút các vị sống với hai thứ nhân – quả, thiện – ác. Thiện ác buồn vui nó cứ đan xen lẫn nhau. Chính nó đan xen như vậy, chúng ta cứ luẩn quẩn, chúng ta ra không có được.

Chính vì vậy, Niết bàn là Nibbana là sự tháo gỡ những cái gì được đan dệt. Mình không có tiếp tục đan nữa, mình chỉ tháo bung bung nó ra. Ai đó từng nhìn thấy một cái cuộn chỉ rối mới thấy. Mình nhìn cái rối mình mệt rồi. Cái gì được tháo gỡ mình thấy khỏe. Khi tui thấy ai mà dẹp cái bụi rậm, tui nhìn cái bụi rậm được dẹp tui thích lắm. Tui nhìn cái cuộn chỉ mà rối là tui mệt lắm. Cho nên niết bàn là tháo dỡ cái gì đan dệt, rối rắm. Thứ hai, Niết Bàn là sự chữa lành vết thương. Thứ ba, Niết Bàn là sự ra khỏi rừng. Nibbana là ra khỏi rừng.

Và vì mình không hiểu rằng mình đang có mặt trong một khu rừng hoang, mình không hiểu rằng mình đang bị rất là nhiều thương tích, mình không hiểu rằng mình là một cái gì đó rất là rối rắm, nên mình mới bắt đầu có cái sự đầu tư hết cái này tới cái khác. Tôi nói rất là nhiều lần, nếu bà con biết rằng bà con đang bị kẻ thù truy sát, bà con đang bị nhà nước, pháp luật truy nã, bà con biết rằng bà con đang bị một chứng nan y thời kỳ cuối, bà con biết rằng bà con đang bị chủ nợ kiếm tìm, nếu mà mình biết rằng mình đang bị ở trong một trong những hoàn cảnh ấy thì tôi nghĩ rằng là bà con không có cái hứng thú đi shopping nữa. Có đúng không? Như vậy tại sao mình vẫn có cái gan đi shoppin ?

Bởi vì mình nghĩ là mình ok. Hiểu không? Tại sao mình yêu đời được? Bởi vì là mình không ngờ rằng mình đang bị rất nhiều chủ nợ rượt mà mình không biết. Có biết chủ nợ đó là ai không? Tuổi già, cái bệnh, cái chết, sự sa đọa. Mà đó toàn là những chủ nợ thú dữ. Khi mình lọt lòng mẹ thì trong hình hài một đứa bé nó đã ẩn tàng trong đó một cái tuổi già hom hem gầy yếu, nó đã ẩn tàng trong đó những chiếc băng ca của bệnh viện, những dao mổ, những ngọn đèn không hắt bóng, phòng mổ đó. Trong hình hài một đứa bè nó đã ẩn tàng những thứ đó mà mình không biết.

Các vị tưởng tượng là giờ mình còn duyên gặp nhau ở đây, chứ mình không biết là nay mai ai sẽ là người được nằm trên một cái giường trên cái bánh xe được y tá đẩy vào. Rồi trước khi vào, nếu mình chưa hôn mê, mình nhìn lại mình thấy người thân họ đứng bên ngoài cửa họ vẫy tay, họ đâu có theo mình được. Nếu may mắn còn trở ra mà không may mắn thì đi thẳng ra Vĩnh Phước kiếm bà Kim chủ nhà quàn.

Tôi biết bà chủ kia có con chó. Bả cưng lắm. Nó chết. Bả bỏ ra cả ngàn đô làm cái bia: "Nơi đây đời đời an nghỉ con chó dấu yêu của trẫm." Chắc có lẽ bây giờ vẫn còn đó. Cái bia nó nằm ở trước nhà quàn. Tui còn nhớ nó. Hồi đó bên đây tui đi đám ma hoài. Hỏi: Tụng kinh chi thầy? Kiếm tiền đổ xăng. Hỏi: Mua xăng chi thầy. Để đi đám ma. Đi đám ma để chi? Kiếm tiền đổ xăng. Mà đổ xăng chi? Kiếm tiền đi đám ma. Bởi vì sao ? Bởi vì "hai con một hột". Bả nghe bả nhớ cái chuyện đó. có ai biết chuyện đó không ? Ở đây có người mới tới họ không biết. Tức là, đời sống của mình là một cái hành trình của con kiến nó tha cái gạo thôi. Cứ hai con một hột hai con một hột.

Sáng ra đi làm, đi làm có tiền bỏ vô nhà băng, bỏ vô nhà băng để có tiền đi làm, đi làm có tiền bỏ vô nhà băng, tiền nó vô nhà băng thì lấy cái tiền nhà băng đó đi mua gạo, mua gạo ăn, ăn để đi làm, đi làm rồi bỏ tiền nhà băng. Tiền vô nhà băng rồi từ nhà băng lấy tiền mua gạo ăn rồi đi làm lấy tiền bỏ nhà băng mà nó cứ như vậy vòng vòng cứ vậy: "hai con một hột, hai con một hột". Lâu lâu nó có chen vô một vài cái giọt mật thì gọi là hạnh phúc.


rats_bw.jpg



Trong kinh kể hình ảnh nghe khiếp lắm. Có anh kia ảnh đang ngủ trong một cái căn nhà thì nghe tiếng đập cửa. Ảnh liếc ra ảnh thấy những kẻ thù lâu năm của ảnh đã tìm tới nơi ảnh nấp, cho nên anh tông cửa bỏ chạy. Khi đang chạy thì anh lọt xuống một cái giếng cạn. Ảnh lọt xuống ảnh sợ lắm. Khi lọt xuống thì phản xạ ảnh chụp được gì ảnh chụp. Thì ảnh chụp được cái rễ cây. Kẻ thù đang rượt ở trên. Anh đang đu toòng teng trên cái rễ cây mà dưới chân anh là nguyên một bầy rắn độc. Mà cái rễ cây mà anh đang đu là nó có hai con chuột, một con chuột trắng, một con chuột đen nó cạp cái rễ cây đó. Mà con chuột nó cạp đứt thì ảnh lọt xuống ổ rắn. Mà giờ ảnh sợ ảnh leo trở lên thì kẻ thù đang chờ ở trên. Lúc mà ảnh đang tiến thoái lưỡng nan tự nhiên có một cái tổ ong ở trên nó bị vỡ có vài cái giọt mật nó nhiễu xuống. Ảnh nếm thì thấy mật ngọt thiệt. Hiểu không?

Câu chuyện đó là câu chuyện ví dụ. Trong kinh nói chúng ta bị cái già, cái bệnh, cái chết nó rượt đuổi. Và cái sợi dây đu toòng teng tượng trưng cho cái hơi thở mà chúng ta còn sống. Mà hai con chuột tượng trưng cho ngày đêm đang gặm nhấm mạng sống của mình. Dưới chân mình bầy rắn đó tượng trưng cho tứ đại đang trong tình trạng xáo trộn. Mình sẵn sàng bệnh mà. Trên đầu mình là bao nhiêu thứ cái tai nạn, tai ương, già, bệnh, chết. Cái sợi dây mình đu hơi thở là mạng sống mà trong khi hai con chuột ngày và đêm nó đang gặm cái mạng sống. Mật ngọt là những cái vị ngọt lâu lâu mới có một lần : shopping, du lịch, gặp người thân, thăm người nam, nhổ tóc sâu, lâu lâu nó lọt thấy đã.

Mà chỉ vì mấy giọt mật đó mà quên bầy rắn dưới chân. Quên hai con chuột đang cạp cái dây. Quên một lũ cầm mã tấu đang trên đầu. Câu chuyện rất là khiếp. Tức là mình chỉ vì vài giọt mật mà mình quên sạch nguyên bầy rắn, hai con chuột và một đám kẻ thù. Hai con chuột đó là ngày và đêm nó đang gặm gặm gặm tuổi đời của mình. Nếu mà thấy các vị mới khiếp.

Các vị biết hình trôn ốc không ? Nếu bây giờ mình có cái hình trôn ốc thật là lớn. Cái băng chuyền của phi trường mà nó chuyển hàng hóa đó. Nếu bây giờ mà có cái băng chuyền hình dạng trôn ốc thiệt là lớn trên cái băng chuyền để cái quan tài để tên mình là mình từng phút mình mới lúc đó mình mới khiếp. Chiều dài đó tới đây 8000 cây số, mỗi phút nó di chuyển khoảng chừng 1 feet mà 8000km thôi cho 8000 miles đi. Mỗi phút nó di chuyển được 1 feet thì lúc đó mình mới thấy nó di chuyển rất nhanh. 8000 miles là xa lắm. Mình biết là nó lên tới nơi là mình tắt thở rồi. Là mình chán chứ không có cái gì hết. Tức là 8000 miles mà một chiếc xe di chuyển mà một giờ đi 1 feet thì quá chậm đúng không? Nhưng nếu là cái quan tài của mình thì quý vị thấy là nó đi rất là nhanh. Và lúc đó quý vị thấy 8000 miles hình như không có dài lắm, không có lâu lắm. Nó bò từ từ từng chút.
 
Chủ thớt mày đang tu chùa nào vậy, tao gửi con ghệ tao lên cái, diệt dục nó giùm tao chứ kiểu này tao giảm thọ chục năm quá
 
Hãy xếp bằng lại và theo dõi hơi thở

Hãy cứ ngồi xếp bằng đi. Rồi nhìn cái thân này coi nó thế nào. Nó nhột, nó ngứa, nó đau, nó tê, nó mỏi, nó nhức, nó đói, nó khát, nó nóng, nó lạnh, nó đòi đi tiêu, nó đòi đi tiểu, rồi nó chóng mặt, nó nhức đầu... tùm lum hết.


Hành giả thấy như vậy. Hành giả thấy rằng mình không có một tí ti lý do nào để đi tìm đến một cái tôi, không có một tí ti lý do nào có hứng thú trong việc xác định một bản ngã ở khối tổng hợp rất đỗi phù du và đầy bất trắc này. Phù du chưa đủ, nó còn bất trắc nữa. Phù du là không bền, còn bất trắc là không lường được. Đã nói tam tướng là sao? Mỗi giây nó có kiểu vô thường riêng, thân tâm có kiểu vô thường riêng, mà kiểu vô thường này nó bị tác động bởi nhiều lý do lắm.

Một là tác động bởi tiền nghiệp.

Hai là những điều kiện hiện tại. Điều kiện hiện tại gồm nhiều thứ: thực phẩm cũng là một kiểu điều kiện, tâm lý cũng là một kiểu điều kiện, điều kiện thiên nhiên cũng là một kiểu điều kiện.

Mấy cái này từng phút, từng phút làm cho mình từ trạng thái này qua trạng thái khác. Hành giả quán chiếu thấy rõ như vậy thì còn lý do gì để đi xác định một cái Tôi.

Sẵn ở đây tôi nói luôn một chuyện: các vị hoàn toàn có thể nghi ngờ nhân thân của tôi, các vị hoàn toàn có thể nghi ngờ về bản chất của con người tôi nhưng có việc quý vị phải đồng ý. Đó là: Thứ nhất, người ba la mật kém, phước duyên mỏng khó chấp nhận được giáo pháp của Đức Phật, một giáo pháp có nội dung đi ngược dòng đời, lúc nào cũng xúi người ta buông hết. Trong khi đa phần thiên hạ có khuynh hướng nắm bắt. Thứ hai, dầu có chấp nhận quan điểm của Đức Phật chúng ta cũng rất khó hành trì.

Bởi vì mình có khuynh hướng tâm lý kỳ lạ.

Đó là mình thích tìm về... cõi chết! Những cái mình theo đuổi suốt một đời toàn là cái hại mình không à. Đó chính là do tác động của tập khí sinh tử, thưa quý vị. Mình chơi với bạn xấu thường vui hơn chơi với bạn tốt. Mình làm chuyện bất thiện thường vui hơn làm chuyện lành. Để ý coi có phải vậy không?
Tôi sợ nhất là mấy người chối. "Không có đâu sư, con thấy con làm phước con vui."

Họ nói vậy thôi, tại vì họ chưa có đủ điều kiện vật chất, chưa đủ điều kiện về sức khỏe, chưa đủ điều kiện về thời gian, chưa đủ điều kiện về quan hệ xã hội. Nếu họ có hết những thứ tôi vừa kể thì thử hỏi họ có dành thời giờ để tu học hay không?

Tôi đã hỏi ở rất nhiều đạo tràng, nhiều pháp hội, có rất nhiều người họ cũng chân thành gật đầu. Họ nói đúng, nếu bây giờ hoàn cảnh sống của con khá hơn một chút, ví dụ một tháng thu nhập vài chục ngàn, vài trăm ngàn, vài triệu USD thì chuyện đi chùa có lẽ phải xét lại. Nói như vậy không có nghĩa là hôm nay họ đi chùa vì họ nghèo, không phải.

Vì họ nghèo cho nên họ có thời gian và cái đầu họ có một chút rảnh. Chứ nếu quý vị ngủ một giấc thức dậy thấy trong tài khoản nhà băng của mình có thêm vài chục triệu USD, tự nhiên soi gương thấy mình trẻ đi 30 tuổi, rồi đi bác sĩ thì bác sĩ khen nức khen nở và tự nhiên mình soi gương mình thấy mặt mũi mình sao bữa nay nó đẹp gấp trăm lần. Quý vị tưởng tượng dùm tôi đi. Nhan sắc, tiền bạc và sức khỏe cực tốt thì quý vị còn hứng thú gì chuyện bắt vô trong chùa bắt cái chân mình ngồi xếp bằng? Khó lắm quý vị, nha.

Ba la mật kém cho nên khả năng dễ ngươi của chúng ta cực lớn.

Ở đây pháp cần phải đoạn trừ chính là ngã mạn. Ngã mạn là vì sao? Là bởi vì chúng ta chưa thấy được mọi sự là khổ, chưa thấy mọi sự là lắp ráp cho nên chúng ta mới có ý hướng, có hứng thú để xác định có cái gì đó là Tôi, là Của Tôi. Chứ nếu biết rõ 100%, biết rõ mười mươi, biết rõ đến đầu đến đũa mọi thứ là khổ, hình thức tồn tại nào cũng là khổ, thì lúc đó mình mới thấy cái mạn chấp "đây là Tôi", "đây là của Tôi" này nó bậy cỡ nào. Có một điều mình chưa có thấm, mình chưa có gặp cảnh tan nát. Đến lúc đó mình mới thấy.

Tôi phải nói một câu tôi đã nói nhiều lần. Ai cũng muốn mình có một quá khứ tu hành nhưng ai cũng muốn mình có một hiện tại vui vẻ. Quý vị nghĩ coi có phải không? Nếu bây giờ quý vị 90 tuổi và quý vị có một phép lạ có thể làm thay đổi quá khứ của mình thì một ông cụ 90 nào cũng muốn mình có một quá khứ tu hành trên núi hết trơn.

Nhưng mà nó khổ ở chỗ: khi mình còn trẻ thì ai mà kêu đi lên núi học A Tỳ Đàm, tu Tứ Niệm Xứ thì khó à.
Nhưng khi chúng ta qua tới tuổi đời cao niên lạp trưởng cỡ 90, 100 rồi đó, ai cũng mong mình có một quá khứ tu hành.
 
☸️Bài Kinh 211: KINH MẮNG NHIẾC (Akkosaka)☸️

Đức Phật Ngài dạy rằng: Một vị Tỷ Kheo mà có cái tâm bất mãn thầy bạn đồng tu, đặc biệt là có lòng bất kính đối với các bậc hiền thánh thì coi như đời tu của vị đó đã bị kết thúc. Vị đó tự chặn đứng con đường tu hành của mình, thậm chí còn bị sa đọa.

Ngài nói một vị Tỷ kheo như vậy DỄ DÀNG mắc vào 5 nguy hiểm sau:

🎯 Nguy hiểm Thứ 1:
Vi phạm các đại trọng giới (như là tội bất cộng trụ).

Một vị Tỷ Kheo có 227 giới, 17 trọng giới đầu được xem là quan trọng nhất mà trong 17 trọng giới có 4 trọng giới đầu tiên mà đã vi phạm rồi là không còn là Tỷ Kheo nữa. 13 trọng giới tiếp theo vị Tỷ Kheo chỉ còn mấy chục phần trăm giới phẩm thôi, phải trải qua một số Tăng sự thì mới có thể phục hồi giới phẩm. Các giới còn lại gọi là Saṃkiliṭṭhaṃ āpattiṃ là những vi phạm chỉ vừa đủ làm cho đương sự bị đốt nóng (tâm lý bất an).

Nhưng đặc biệt với 4 trọng giới đầu là pārajika thì nghĩa là giống như đối với một người lính bại trận đồng nghĩa với cái chết. Tỷ Kheo mà mắc vào 4 trọng giới này thì không còn là Tỷ Kheo nữa.

Mà 4 trọng giới đó mắc mớ gì khi mà mình bất mãn thầy bạn, bất kính hiền thánh? Liên quan thế này:

Có 2 lý do mà một Tỷ Kheo vi phạm vào 4 đại trọng giới này:

1. Tai nạn bất trắc: Nghĩa là trong một tình huống đặc biệt nào đó vị đó thiếu cảnh giác, thiếu đề phòng nên đã vi phạm.

2. Không có niềm tin trong giáo pháp: Do thiếu niềm tin trong giáo pháp cho nên vị đó thấy rằng việc phạm hay không phạm không có vấn đề. Trước khi phạm thấy chuyện đó không quan trọng nên phạm và khi phạm rồi thấy nó cũng không có gì đáng sợ cho nên tiếp tục giấu kín.

Trong Tứ Thanh Tịnh Giới của Tỳ Kheo:

- Giới bổn thanh tịnh có 227 điều (thành tựu nhờ đức tin).

- Thu thúc thanh tịnh (thành tựu nhờ chánh niệm)

- Nuôi mạng thanh tịnh (thành tựu nhờ tinh tấn)

- Quán tưởng thanh tịnh (thành tựu nhờ trí tuệ).

Một Tỷ Kheo mà thiếu niềm tin Phật pháp, quý vị nghe qua rất là ngạc nhiên là “ủa! Tỳ Kheo mà sao thiếu đức tin? Mình là cư sĩ, mình phải có đức tin mình mới đến chùa lạy Phật, thọ giới, mới có tam quy mà tại sao một Tỷ Kheo lại thiếu đức tin?”

Xin thưa, chuyện đó rất đơn giản bởi vì có tới 1001 lý do để một người cạo đầu đắp y, chứ không phải chỉ một lý do là chán sợ sinh tử, cầu giải thoát vô thượng bồ đề, không phải!

• Lý do thứ nhất và duy nhất: Được xem là đáng kính đó là cầu giải thoát.

• Lý do thứ hai: Tệ hơn một chút là cầu được sanh về các cảnh giới này nọ, cầu có được thần thông, phép màu, trình độ tu chứng, hoặc công đức hữu lậu nào đó.

• Lý do thứ ba: Tệ nhất là giải quyết nhu cầu sinh kế hoặc là cầu danh lợi. Ngay cả ở những xứ quốc giáo như Tích Lan, Thái,.. có thời kì có nhiều chính khách đã đi xuất gia để tranh thủ phiếu bầu của dân chúng, có trường hợp đó nữa!

Cho nên ở đây, tại sao một Tỷ Kheo bất mãn thầy bạn đồng tu, bất kính với thánh nhân lại dễ dàng vi phạm vào các giới là vì đơn giản là vị đó không có niềm tin, khi không có niềm tin thì cái chuyện vi phạm các đại giới là một chuyện rất bình thường, dễ hiểu, đơn giản và rất dễ xảy ra.

🎯 Nguy hiểm Thứ 2: Nếu không phạm các đại trọng giới cũng rất dễ dàng coi nhẹ các giới còn lại – những giới đủ để đốt nóng mình, tiếng Pali là Saṃkiliṭṭhaṃ.

Āpattiṃ là những giới không ảnh hưởng nghiêm trọng đến giới phẩm Tỳ kheo nhưng đủ để đốt nóng đương sự. Thí dụ đức Phật Ngài cấm các Tỳ Kheo không được giữ tài sản, tiền bạc, không được sử dụng các thứ như: Ngà, đồ da, đồ lông…, không được giữ thực phẩm qua đêm, không được sống chung dưới một mái che với phụ nữ, không được ngồi chỗ kín khuất với phụ nữ, không được giữ y bát dư quá mức hạn định (ngoài y mặc trên người Tỳ Kheo tối đa giữ bộ tam y thứ hai để dự phòng và bộ y đó gửi cho kappiya chứ mình cũng không nên giữ nữa). Thì những giới đó được gọi là những giới đủ đốt nóng một Tỷ Kheo. Trong Kinh nói, cầu đạo giải thoát họ xem một tiểu giới như đại giới và xem một đại giới như chuyện mất mạng vậy! Nghĩa là, với một người tham sống sợ chết thì họ bằng mọi cách tránh cái gì nguy hiểm đến tánh mạng thì một Tỷ Kheo cầu giải thoát cũng phải bằng mọi cách tránh mọi cơ hội để vi phạm trọng giới. Vậy mà một người thiếu niềm tin đến mức bất mãn thầy bạn đồng tu, bất kính với hiền thánh. Chuyện này mình thấy rất rõ trong đời sống thường nhật.

Hàng xuất gia tôi không dám đụng tới, tôi chỉ nói cư sĩ. Do không học giáo lý hoặc do bẩm sinh là người không có niềm tin tôn giáo, vì một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, quý vị cũng đến chùa cũng thọ giới quy y, có pháp danh, làm công đức, bố thí, tụng Kinh, ngồi thiền,… nhưng mà mai này chỉ cần bị cái shock nào đó, quý vị không ngần ngại phán một câu rất bất kính về Tam Bảo, về Tăng Ni, rất là dễ dàng! Chuyện đó tôi có gặp!

Một khi họ đã bất mãn rồi thì cỡ nào họ cũng phun ra hết!

Sẵn đây tôi nói thiệt chuyện này:

Khi đến với đạo một cách quá dễ dàng và đơn giản: Không có lý tưởng - Không có lý do - Không tìm hiểu giáo lý, thì mai này mình rất dễ dàng quay lưng lại với đạo.

Tôi nói không biết bao nhiêu lần, tình cảm nam nữ cũng y chang như vậy. Chúng ta đến với nhau quá dễ dàng, cưới nhau dễ dàng như mua một cái áo thì mai này chúng ta dễ dàng xa nhau, mất nhau, bỏ nhau, phụ nhau, lừa dối nhau vì chúng ta chưa kịp hiểu nhau, chưa kịp biết gì về nhau hết!

Ngay cái chuyện ngoài đời nó đã như vậy thì nói gì là đối với chuyện tu hành, chuyện mình đến với đạo?

Cho nên bài Kinh này là bài Kinh chạm vào những tử huyệt của người tu hành chứ không phải đọc cho vui. Nghĩa là một người tu, dù là xuất gia hay cư sĩ khi mà không có được cái niềm tin và kiến thức Phật pháp đúng mức thì rất dễ dàng rơi vào tình trạng báng bổ, xúc phạm những bậc chân tu khả kính là thầy hoặc bạn của mình. Một khi có lòng bất mãn như vậy thì chuyện gì mình cũng làm được hết!

🎯 Nguy hiểm Thứ 3: khi mình không có giới, không có niềm tin thì rất dễ trọng bệnh. Trong room không tin chuyện đó, nhưng tôi tin. Các vị cũng đồng ý với tôi rằng sống trong thời gian dài với âu lo, sợ hãi, hờn giận, ghen tuông thì các vị thấy vấn đề: Tiêu hóa, bài tiết, tim mạch, thần kinh, huyết áp của các vị dứt khoát là sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cái đó tôi hứa, tôi bảo đảm. Tôi không phải là bác sĩ nhưng trong room có nhiều vị có thẩm quyền để xác nhận chuyện đó.

Tức là sau một thời gian dài mà các vị sống bi quan, tiêu cực, bịnh hoạn. Sống thiếu năng động, tích cực mà sống bị vây bủa, bị đè nén, nặng lòng với bao nhiêu tâm cảm tiêu cực kiểu như là: sợ hãi, ghen tuông, hờn giận, căm thù, tức tối, nghi ngờ thì sau một thời gian dài như vậy thì dễ dàng bị suy nhược thần kinh, ảnh hưởng tim mạch, ung bứu, bao tử, chuyện đó đừng có lấy gì làm lạ hết! Cho nên người sống thiếu thiện tâm rất dễ bị trọng bệnh.

🎯 Nguy hiểm Thứ 4: Nếu mà có một đời sống tinh thần lấn cấn, lợn cợn như vậy thì vào giờ phút lâm chung, hấp hối, cận tử rất dễ bị rơi vào tình trạng hoản loạn.

Một người mà sống lành, họ đi nhẹ, đi êm lắm, kể cả họ bị trọng bệnh thì họ cũng đi rất êm, chính cái phước nó dàn xếp. Mình thấy họ trương sình, bụng to chướng, hôi hám vậy đó, mà bản thân họ sẽ ra đi rất nhẹ, rất êm, rất ngọt, mát lạnh! Họ có thể mỉm cười mà trong khi người khác nhìn họ thấy ớn, nghĩ rằng: “Chắc người này đau đớn lắm!”. Mà nhờ cái phước gia trì, cho nên trong phút cận tử, họ chỉ cần một phút đồng hồ thôi quý vị! Mà chuyện đó thì cái phước quý vị dư sức làm. Một phút thôi! Một phút nó làm cho quý vị êm ái, mát lạnh. Nó leo lét, leo lét, lấy hơi thở vô rồi là khì ra đi luôn, mát lạnh! Không có phải trải qua những giây phút hoang tưởng, ác mộng, thấy bậy, thấy bạ, tay chân co quắp, lạnh ngắt, đau chỗ này, nhức chỗ kia, nhói chỗ nọ. Không có! Cái phước báu nó gia trì cho mình như vậy đó! Một phút thôi! Mấy chục năm tu hành chỉ đổi lấy một phút đó thôi! Nha! Quan trọng lắm! Còn nếu mà các vị không có được nội tâm thanh tịnh thì có được một phút đó không phải là chuyện dễ đâu!

🎯 Nguy hiểm Thứ 5: Một người trong lúc bình sinh sống bằng tâm bất thiện lại ra đi bằng một tâm cảm, tâm thái không lành thì cái chuyện sa đọa là chuyện đương nhiên.

Cho nên, nhớ! Bài Kinh này là nói cho mình chứ không phải nói chuyện của ai đâu, đừng thấy “Các Tỳ Kheo! Các Tỳ Kheo!” là nghĩ không có mắc mớ tới mình là không có được!
 
✴️
HỎI - ĐÁP về Chánh Mạng

● HỎI :


Con có một thắc mắc và hoang mang kính xin Sư từ bi giải đáp.
Trong Bát Chánh Đạo có Chánh Mạng là Nuôi Mạng Chân Chánh.

Con hiện tại ở Mỹ, nghề của chồng con là đi bắt sò bắt cá, còn bản thân con thì chỉ quanh quẫn ở nhà lo con cái. Vậy nghề của chồng con, con và các cháu có bị Cộng Nghiệp chung với chồng con không ạ ...??
Và con có phải bị chịu lãnh Nghiệp Nhân Quả như trong phần Chánh Mạng nuôi mạng chân chánh không ạh ...??

Kính xin Sư từ bi chỉ dạy.

Kính Sư.

● ĐÁP :

Một người không hiểu đạo, lại đang kiếm sống bằng việc Sát Sanh thì rất khó chấp nhận câu trả lời này, nhưng đã trả lời theo Phật Pháp thì phải nói thật.

- Về vấn đề nghề nghiệp của chồng cô, dầu cô không làm nhưng thụ động và gián tiếp hỗ trợ thì cũng là một cách Cộng Nghiệp.

- Vấn đề thứ hai, Cô không trực tiếp hỏi thẳng, cũng xin nói ra đây. Cách Cầu Vãng Sanh tốt nhất là sống thiện trong từng ngày và ngay bây giờ.


Việc thiện nào làm được thì làm ngay,
Điều ác nào tránh được thì tránh ngay.

Không đợi đến hành động hay lời nói ra miệng mới gọi là thiện ác, mà ngay đến những suy nghĩ tốt xấu thoáng qua trong đầu cũng đã là Thiện hay Ác rồi.
 
Có 4 loại ngựa:

1. Loại ngựa thứ nhất: thấy cái dáng roi là nó chạy.
2. Loại ngựa thứ hai: quất một cây nó mới chạy.
3. Loại ngựa thứ ba: đánh nhiều nhiều nó mới chạy.
4. Loại ngựa thứ tư: đập chết nó cũng không chạy.
Loại ngựa thứ tư này thường người ta đem làm thịt. Bên Pháp họ ăn thịt ngựa.


Nhưng mà con người cũng y chang như vậy chứ không phải là ngựa thôi.
Có những người họ thấy cái dáng roi là họ chạy, có nghĩa là sao? Có nghĩa là họ chỉ nhìn thấy cái cảnh đời không mắc mớ gì tới họ là họ đã muốn đi tu rồi.

Cái hạng thứ hai là họ phải đợi cái chuyện gì đó nó xảy ra với những người họ quen biết thì họ mới bị sốc. Chứ còn mình ngày nào mình đi ngang bệnh viện mình cũng biết có người chết thì lòng dững dưng. Nhưng mà có người họ phải đợi trong số người quen họ có người bị cái gì đó, họ mới hết hồn họ mới lo tu hành.

Rồi cái hạng thứ ba là phải đợi chuyện xảy ra trên đầu của mình mình mới chịu tu. Có nghĩa là mình phải bị sanh ly tử biệt, chuyện xảy ra trong gia đình của mình hoặc trên người của chính mình đó, mình mới chịu tu.

Và cái hạng thứ tư là chuyện gì thì chuyện chứ chết bỏ không thèm tu.

Đó, 4 hạng chúng sanh như vậy đó.
 
Câu hỏi: Thưa Thiền sư. Làm thế nào một thiền sinh thực hành xả ly khi năng lực Chánh niệm còn yếu?
✅
Thiền sư Ottamathara: Hãy cứ tiếp tục thực hành & bên canh đó làm nhiều việc thiện nguyện. Cùng hành Thiền và hành Thiện
Ngay cả khi bạn chưa thể thành tựu trong pháp Thiền, bạn vẫn có thể thành tựu trong pháp Thiện.

Nỗ lực thiền tập là một đòi hỏi rất khó. Khi đó, thiện pháp sẽ rất hữu ích để hỗ trợ thiền tập.

Một giải pháp tạm thay thế Thiền miên mật là bạn hãy hỗ trợ thiền sinh khác.

Chính việc hỗ trợ, giúp đỡ Thiền sinh hành thiền cũng sẽ là một nhân tốt cho tương lai, khi bạn đã thực sự trở thành một thiền sinh thực thụ - thực tập giữ Chánh niệm toàn thời gian.

- Thiền sư Ottamathara -
 
Nghe cho kỹ cái này.

Không ai trên đời này không chết. Cái chết là cái không tránh được, mà không lẽ bây giờ mình run bắn lên, vãi ra quần hay sao ?? Đó là bậy. Cái chết mình tránh không được, mà không lẽ mình sống trong kinh hoàng hay sao ? Thì sao đây ?
Đây là 2 kinh nghiệm. Mỗi kinh nghiệm trị giá 5.000 đô.

1/ Sống khổ chút, thì sẽ không sợ chết.
Sống khổ là sao ? Có nghĩa là các vị tưởng tượng, tại sao người ta tự tử ? Bởi vì tình cảm, tiền bạc, công việc…. bao nhiêu chuyện nó làm người ta khổ, đến mức người ta không còn muốn sống, không sợ chết nữa. Thì bây giờ, Phật tử mình sống khổ một chút không sợ chết. Ngồi thiền đau, ráng ngồi.

Mỗi lần sợ chết, nghe lời tôi đi, bắt cái chân vô, nó đau, cứ theo dõi cơn đau tới đau tới đâu. Mỗi lần sợ chết. Ráng ghi chép kinh điển, ráng ghi nhớ, ráng học đạo, ráng hành đạo. Nghe cho kỹ nha. Ráng học đạo, ráng hành đạo, ráng đến lúc không sợ chết nữa vì quá cực. Tin tôi đi. Cái này có thật.

Mỗi lần sợ chết mà run bắn lên, vãi ra quần, cứ nghe lời tui. Ngồi xuống. Gài cái chân vô, bắt đầu theo dõi. Một là theo dõi hơi thở, hai là theo dõi cơn đau. Ghi nhận thế này : Có thân là phải như vậy, có thân là phải như vậy.

Hồi nãy tôi nói sợ bà con hiểu lầm : Sống khổ không sợ chết là sao ?
Ở ngoài thì khi người ta gặp cảnh gì ghê quá người ta không sợ chết. Còn mình, cứ nỗ lực tu học, chính cái cực nó làm mình không sợ chết. Mà cái cực đó rất có ý nghĩa.

Chứ không phải bây giờ tôi lấy đồ kẹp các vị đau quá mình cũng không sợ chết nữa. Tôi biết có nhiều người ung thư. Hồi họ đau ít ít họ sợ chết, mà đau quá, họ chỉ muốn đi thôi quý vị. Ở đây cũng vậy. Mà mình chịu đau một cách thông minh, chịu đau một cách trí tuệ. Ngồi thiền mà đau cứ nhớ thế này. « Cho mày chết, cho mày chết, cho mày còn thích nữa không, coi mày còn thích sống nữa hay không ». Nhưng mà chỉ ngồi thiền thôi nha. Chứ đừng lấy đồ kẹp vô thịt rồi nói sư Giác Nguyên ổng bày là không được, cứ phải ngồi thiền.

Rồi ráng thức khuya dậy sớm, mình đang buồn ngủ cách mấy, ráng nhớ lời của ổng, « chịu cực hết sợ chết, chịu cực hết sợ chết » Cứ nhớ vậy là bật dậy liền. 3 giờ, 3 giờ rưỡi, bật dậy liền, ngồi thiền, đi kinh hành, tập thể dục, ghi chép kinh điển, ráng cho nó cực chút, lâu ngày nó không sợ chết.

2/ Nghĩ nhiều về người khác cũng hết sợ chết.
Tức là mình lên chương trình làm sao giúp đỡ tăng ni tu học ở vùng sâu vùng xa, Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam. Làm sao giúp mấy người mồ côi, cơ nhỡ, neo đơn. Dốc lòng nghĩ « Bây giờ mình nằm xuống thiền viện nó ra sao, học viện nó ra sao, bây giờ mình nằm xuống bao nhiêu tăng ni Miến Điện đói nghèo, ghẻ lở, họ sẽ ra sao »

Khi lòng nghĩ nhiều về người khác như vậy giống như người mẹ đơn thân nuôi con thì bả không sợ chết. Phải nói như vậy. Nếu lúc cận tử, bả chỉ nghĩ « mình đi rồi ai lo cho tụi nhỏ » bản thân bả bả không nghĩ.

Mà đây là kinh nghiệm bằng vàng, có thật. Mình làm con gái, mình không có chồng không có con tối ngày xin lỗi cứ nhí nhảnh chảnh chọe cứ sợ chết, chứ còn một người mẹ cứ lo cho con, lo cho chồng, lo cho gia đình thì không nghĩ đến thân.
Ở đây cũng vậy, khi mình nghĩ nhiều về người khác, mình sẽ không sợ chết.

Cái đáng ngại nhất, cái chết không đáng ngại bằng sự sợ chết. Nhớ nha. Cái chết nó không đáng sợ, nó chỉ diễn ra trong mấy phút là xong. Nhưng cái sợ chết theo đuổi mình mấy chục năm trong đời lận.

Cho nên có 2 câu mà các vị phải xăm trên người :


Câu thứ nhứt : Cái chết không đáng sợ bằng lòng sợ chết.
Câu thứ hai : Cái đáng sợ nhất trên đời này chính là lòng sợ hãi.
 
Nội tâm

Khi tâm Sân chiếm giữ, cuộc sống bấp bênh nguy hiểm.

Khi tâm Tham chiếm giữ, cuộc sống không bao giờ được đủ đầy.

Khi tâm Si có mặt, chúng ta sẽ không thể nào thấu biết được Sự thật.


Vì vậy, chúng ta cần xả ly khỏi tam độc Tham - Sân - Si.

Khuyến khích hành Thiện mới đúng là giáo dục chân chánh. Chúng ta đang dạy mọi người biết làm lành, tránh dữ và thanh lọc tâm.

Trên thế giới, mọi người đều có cơ hội thực hành tất cả các loại hình thiện Pháp. Nhưng hành thiền là thiện Pháp cao tột mà chúng ta có thể làm.

Vì vậy, hãy không ngừng nỗ lực hành Thiền với Chánh niệm & xả ly.

- Thiền sư Ottamathara -
 
SỰ RA ĐI CỦA NGÀI SARIPUTTA (XÁ LỢI PHẤT) ĐỆ NHẤT TRÍ TUỆ.

Ngài Sariputta nghĩ người như mình sẽ viên tịch ở đâu? Bây giờ mình 84 tuổi, mẹ 120 tuổi. Mẹ có 7 người con đều chứng quả A La Hán. Bây giờ mẹ vẫn là 1 người có tà kiến nhưng mẹ có đủ Parami (Ba la mật) để chứng Tu Đà Hườn. Đó là lý do để ta trở về gặp mẹ lần cuối.

Ngài cùng với 500 vị Tỷ Kheo đi đến hầu Đức Phật để xin viên tịch. Đức Phật biết duyên đã mãn nên nói rằng: thôi thì trước khi Xá Lợi Phất đi, hãy thuyết Pháp cho chư Tăng. Trong Chú Giải nói Ngài hiểu Đức Thế Tôn muốn Ngài thuyết Pháp một cách đặc biệt không như mọi khi.

Mọi khi Đức Thế Tôn giảng xong mà có Ngài Xá Lợi Phất kế bên thì nói: này Xá Lợi Phất, chư Tỳ Kheo chưa buồn ngủ, mà Như Lai đang bị đau lưng. Như Lai sẽ nằm nghỉ 1 lát. Và vì chư Tăng chưa buồn ngủ nên Xá Lợi Phất hãy thuyết Pháp đi. Đây là 1 mẫu câu bình thường chúng ta thấy trong Kinh.

Ngài Xá Lợi Phất nghe vậy thì cứ dạ và nhìn vào căn cơ của chư Tăng mà thuyết Pháp. Nhưng hôm nay trong lần cuối cùng đức Phật muốn Ngài thuyết Pháp cách đặc biệt. Xưa nay thần thông của Ngài Mục Kiền Liên là đệ nhất. Sau Ngài Mục Kiền Liên là Ngài Xá Lợi Phất. Trí tuệ Ngài Xá Lợi Phất là đệ nhất, sau kế là Ngài Mục Kiền Liên.

Tuy nhiên trí tuệ của Ngài Mục Kiền Liên thì người ta có nghe Ngài thuyết giảng và trả lời câu hỏi. Còn thần thông của Ngài Xá Lợi Phất thì không mấy khi người ta thấy. Cho nên Đức Phật muốn Ngài Xá Lợi Phất thuyết bằng cách hóa thông, là hiện thần thông.

Ngài Xá Lợi Phất mới dùng thần thông bay lên hư không. Trong kinh nói là chiều cao của 1 cây thốt nốt, khoảng 10-12m. Ngài bay lên đó rồi xuống đảnh lễ Phật. Ngài bay lên đó 2 lần như vậy rồi xuống đảnh lễ Phật. Tất cả 7 lần, 7 lần chiều cao cây thốt nốt như vậy. Rồi Ngài bắt đầu thuyết Pháp.

Thuyết pháp xong rồi Ngài bạch Đức Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, bây giờ giờ đã đến, con từ biệt Thế Tôn con đi về ngôi làng của mẹ con. Lúc đó Đức Phật mới có suy nghĩ : Ta sẽ tiễn Xá Lợi Phất đi 1 đoạn. Cả đời Đức Phật chỉ có lần duy nhất này thôi.
Ngài đứng dậy tiễn biệt 1 người đi. 45 năm trụ thế chỉ 1 lần duy nhất này Ngài đứng dậy tiễn người đi. Ngài đứng ở bậc cửa bằng đá quý. Ngài Xá Lợi Phất không dám quay lưng đi. Ngài quỳ xuống đảnh lễ rồi cứ đi lùi.

Lúc đó Ngài Xá Lợi Phất mới nói: Bạch Thế Tôn, cách đây 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, con đã quỳ dưới chân Phật Anoparasi và mong trở thành Thượng Thủ Thanh Văn. Lúc đó là lần đầu tiên con gặp Ngài trong quá trình thực hành Parami. Kiếp sống này lần đầu tiên con gặp Ngài, Chú Giải kể rõ lắm, là lúc Thế Tôn mới thành Đạo.

Khi con chứng được Sơ Quả từ Ngài Assaji thì con xin xuất gia với Thế Tôn tại chùa Trúc Lâm. Đó là lần gặp mặt đầu tiên trong kiếp sống này. Và hôm nay là lần gặp mặt cuối cùng, con sẽ không bao giờ gặp mặt Thế Tôn nữa. Ngài nói rồi đi lùi lại. Ngài lùi đến lúc khuất rồi thì Ngài xoay lưng đi.

Trong Kinh Tăng Chi có kể lại 1 đoạn Kinh, sau khi Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tịch rồi thì trong một buổi chiều ngồi bên bờ sông, Đức Thế Tôn có dạy rằng: Này các Tỳ Kheo, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên hôm nay không còn nữa. Chiều nay họ đã viên tịch hết rồi. Này các Tỳ Kheo, ở hội chúng nào mà không có họ, Ta thấy có 1 sự trống vắng.

Trong Chánh kinh nói vậy. Và ông Krisnamuthi là 1 nhà tư tưởng và là 1 vị giáo chủ lớn của Ấn Độ mà cả thế giới đều biết đến. Ông rất giỏi Kinh Phật. Trong room này ai học triết Ấn thì đều phải biết ông.

Ông có nhận xét mà tôi rất là tâm đắc: Ông nói rằng cả đời đức Phật, người là đệ nhất tri kỷ tri âm của Đức Phật chỉ có 1, dù người ấy không xứng tầm, không ngang với Đức Phật được, nhưng người ấy phải nói là người duy nhất, hiểu Đức Phật nhiều nhất, người có thể chạm vào chéo y Đức Phật chính là Ngài Sariputta.

Sau đó thì mới tới Ngài Mục Kiền Liên. Đặc biệt như vậy. Thì Ngài ấy từ biệt rồi ra đi. Ngài về đến làng thì gặp người hầu, lúc bấy giờ đã già rồi. Người hầu nhận ra Ngài mới chạy về báo tin cho người nhà biết là Sư cậu, tức là thiếu gia, đã về rồi. Bà mẹ nghe như vậy mới nghĩ thế này: Cả tuổi trẻ đi tu gió sương phong trần, giờ về già chắc muốn kiếm chỗ nghỉ ngơi đây!
Bà nghĩ như vậy chứ đâu có ngờ chuyện gì. Khi Ngài vào thì bà hỏi Ngài đi 1 mình hay đi với ai. Đây là tôi chỉ kể vắn tắt. Khi nãy có đoạn mà tôi bỏ qua.

Khi Đức Phật tiễn Ngài Sariputta rồi thì Đức Phật mới nói với chư Tăng thế này: Này các Tỳ Kheo, thôi thì hôm nay là lần cuối, thôi thì hãy đi theo Sư huynh các ngươi, đi tiễn lần cuối đi. Chư Tăng mới tập họp lại hết. Lúc đó Ngài Sariputta thấy như vậy thì biết là chư Tăng nguyên nhóm này sẽ đi theo mình đi về cái chỗ Ngài Nibbana.

Ngài mới nói: Này các huynh đệ, đứng lại hết. Đừng dễ duôi, ở lại ráng cố gắng tu hành. Nói xong rồi Ngài đi mất. Rồi thiên hạ Phật tử mới nghe tin Ngài đi, thì mới nói thế này: Ngày xưa Ngài còn sống thì Ngài đi du hành thuyết pháp chỗ này chỗ kia cho mình gặp mặt. Kể từ hôm nay chúng ta sẽ không bao giờ còn có dịp gặp Ngài nữa, sẽ không bao giờ trở lui chỗ này nữa. Và họ đi theo 1 đoàn lũ lượt và họ khóc.

Thì Ngài cũng nói như vậy: các pháp hữu vi là vô thường, có sanh là phải có diệt, gặp rồi phải chia tay. Hãy ở lại ráng mà tu hành đi. Vì đã đến lúc Ta phải đi rồi. Xong rồi Ngài đi về đến làng, người hầu mới vô báo cho bà mẹ Ngài biết, rằng Sư cậu đã về rồi, thiếu gia đã về rồi. Bà mẹ mới hỏi là Sư cậu về 1 mình hay về với ai. Người hầu mới nói là về với 500 vị Sư nữa. Bà giàu lắm, cho nên bà nghe 500 vị như vậy bà tỉnh bơ. Giống như về thêm 5 người nữa vậy.

Bà mới cho người sửa soạn phòng ốc giường chiếu nghỉ ngơi cho 500 vị Tỳ Kheo. Riêng phần của Ngài thì bà cho dọn cái phòng mà ngày xưa cách đây 84 năm về trước Ngài đã chào đời. Giàu mà, sanh tại nhà, rước mụ tới luôn. Khi Ngài đi tu thì bà để nguyên căn phòng như vậy, không sửa đổi thêm bớt gì, chỉ cho người lau dọn thơm phức để chờ con suốt 84 năm (dạ không phải 84 năm vì khi lớn rồi Ngài ấy mới xuất gia).

Bây giờ thì Ngài về, còn chư Tăng thì nhà có lầu nên đưa hết chư Tăng lên lầu, còn Ngài ở phòng của Ngài. Khi chư Tăng về phòng chư Tăng, Ngài ở lại một mình thì sao? Một cơn bạo bệnh ập đến cho Ngài Trưởng Lão. Ngài đi toàn là máu không với cái cảm xúc có thể đau chết đi được. Cứ 1 cái bô đem vào thì 1 bô khác đem ra. Kinh khủng như vậy.

Đau lắm chứ không phải không. Đọc cái này quý vị mới thấy hồn vía lên mây. Vị Đệ Nhất Trí Tuệ tu 4 A-Tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp mà ngay lúc này Đức Phật cũng còn đó. Bản thân Ngài là thiền định cao nhất, đạt đến tầng thiền Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, có thể nhập thiền diệt như ý mình muốn, thần thông của Ngài di sơn đảo hải, hô phong hoán vũ, đằng vân giá võ, ..., dời non lấp biển, làm được bao nhiêu chuyện. Vậy mà lúc này máu ra thì cứ ra, đau thì cứ đau.

Trong Chú Giải nói rằng: lúc đó 4 vị Tứ Thiên Vương suy nghĩ rằng không biết Ngài Tướng Quân Chánh Pháp đang ở đâu? Họ quán xét và thấy rằng Ngài đang nằm trên cái giường chết, tức là cái Giường, tử sàn, trong căn phòng ngày xưa Ngài đã chào đời, ở làng Naraka. Thôi thì hôm nay ta sẽ đến gặp Ngài lần cuối. Và họ đã đến đảnh lễ rồi đứng 1 bên.

Ngài mới hỏi: Ai đó? Họ trả lời tụi con là Tứ Thiên Vương. Ngài mới hỏi: đến đây làm gì? Họ trả lời là chúng con để hầu bệnh Ngài. Ngài cần đỡ đần gì hay không? Ngài nói không, đi hết đi. Ta có người hầu hạ, giúp đỡ rồi. Đi về đi.

Cứ như vậy Tứ Thiên Vương đi rồi thì các vị vua cõi trời Dục Giới, Yama, Tusita, Hóa Lạc Thiên khác đến. Cuối cùng Đại Phạm Thiên cũng đến để hầu ngài và Ngài cũng tiễn họ đi sạch. Lúc bấy giờ bà mẹ suốt đêm, con bị bệnh mà, đâu có ngủ được. Bà cứ coi coi con làm sao. Bà cứ thấy trong phòng con mình phát sáng lên từng đợt, càng về sáng lại càng chói ngời. Sáng bà mới vào bà hỏi trong đêm ánh sáng phòng con sáng rực là sao. Ngài mới nói là đầu hôm là Tứ Thiên Vương, rồi tới Đế Thích, rồi Phạm Thiên xuống xin hầu nhưng con không để họ hầu. Con tiễn họ đi hết rồi.

Bà mẹ nghe mới hết hồn nói: trời đất ơi, con là ai mà Tứ Thiên Vương, mà nhất là Phạm Thiên, là vị mà mẹ thờ từ nhỏ đến giờ, đến hầu con? Điều đặc biệt là Ngài không hề nói về Ngài mà Ngài nói rằng: Thưa mẹ, mẹ có biết không? Tứ Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên, đối với Thế Tôn, giống như những người Thị giả, Sadi, hầu hạ giống như người giữ vườn cho chùa.
Bà nghe như vậy thì mới hoan hỷ. Lúc đó, Ngài đã cho bà thấy thì bà hết hồn rồi. Bà nghe như vậy thì Ngài mới giảng cho bà nghe về Phật Pháp.

Dĩ nhiên là nội dung về 4 Đế. Bà nghe như vậy thì chứng quả Tu Đà Hườn.

Xong xuôi rồi Ngài nói mẹ Ngài đi nghĩ, Ngài thấy trời gần sáng mới hỏi người em ruột, cũng là 1 vị Tỷ Kheo: Bây giờ là lúc nào rồi? Vị em mới trả lời là đã rạng sáng. Ngài mới bắt đầu sửa soạn viên tịch: Sư đệ hãy triệu tập tất cả chư Tăng tới.
Chư Tăng tới rồi Ngài mới nói: chúng ta đã ở cạnh nhau 44 năm trời. Trong suốt thời gian đó, nếu tôi có làm gì, nói gì khiến anh em không vui thì hãy bỏ qua cho tôi.

Chư Tăng mới nói rằng: thưa Ngài, trong suốt mấy chục năm qua chúng tôi đi theo Ngài như bóng với hình không rời. Ngài không có lỗi lầm gì với chúng tôi. Nếu chúng tôi có lỗi lầm gì, xin Ngài bỏ qua cho
Sau đó thì trời rạng sáng. Địa cầu rung động. Ngài viên tịch Nibbana. Sau đó bà mẹ của Ngài mới lấy gỗ trầm, không lấy gỗ khác, chất thành 1 núi, thiêu xác của Ngài. Bà mẹ làm với một tâm tư tuyệt đối không phải là mẹ con vì lúc này bà là 1 vị tín nữ Tu Đà Hườn.

Bà biết rõ con người vừa ra đi này là bậc Chí Thượng Thanh Văn, Đệ Nhất Đệ Tử của bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi thiêu xong thì Xá lợi của Ngài có màu như ngọc trai. Xá lợi này được gom về 1 nơi. Sau này đến đời vua A Dục thì phân tán mỏng ra thờ chỗ này chỗ kia.

Đến năm 1947, người Anh trước đó suốt thời gian họ đô hộ Ấn Độ, trong 1 lần khai quật ở Sanchi, họ tìm thấy 2 hộp bằng đá sa thạch. 1 hộp đề chữ Ma, 1 hộp ghi chữ Sa. Hộp ghi chữ Ma là Xá Lợi Ngài Mục Kiền Liên. Hộp ghi chữ Sa là Xá Lợi của Ngài Sariputta. Họ bèn mang 2 hộp về Viện Bảo Tàng London 1 thời gian nhiều năm. Đến năm 1947 họ mới đem trả lại cho Ấn Độ. Ấn Độ mới tôn trí 2 hộp Xá Lợi này vào trong Viện Bảo Tàng của Ấn Độ với tất cả sự tôn nghiêm bậc nhất mà chính phủ Ấn dành cho.

Có 1 huyền thoại đặc biệt, là không biết hôm nay, nhờ các vị Sư Thái Lan hay VN tu hành đến 1 đỉnh tuyệt đối nào đó. Mà coi như là Xá lợi của Ngài Sariputta, người ta gia tài chỉ có 1 ít, 1 viên nhỏ, viên của Ngài Sariputta, 1 viên của Ngài Moggalana thôi, mà không biết sao ở VN và Thái lan có nhiều quá xá trời. Có lần tôi thấy 1 vỉ 54 viên, trong đó có Xá Lợi Ngài ... Đệ Nhất Vô Bệnh. Khi Nibbana Ngài ấy nhập hỏa giới Tam Muội thiêu sạch không còn dư sót gì. Vậy mà ở VN có xá lợi của Ngài ấy.

Trong cái vỉ 54 viên ấy có Xá Lợi của Ngài Rahula, trong khi Ngài Rahula Nibbana trên cõi trời Đao Lợi. Vậy mà ở VN cũng có Xá Lợi của Ngài ấy. Sự thực là hiện nay Xá lợi của Ngài Sariputta và Moggalana trên thế giới chỉ có 1 nơi có thôi. Đó là Viện Bảo Tàng Delhi Ấn Độ.

Sau khi Ngài Sariputtạ tịch xong thì em Ngài là Ngài Cunda mới đem Xá Lợi về trình với Đức Phật. Đức Phật Ngài cầm tấm vải lược nước đựng Xá Lợi của Ngài Sariputta. Mở ra, Ngài cầm trên tay rồi Ngài ngâm 1 loạt 16 hay 18 câu kệ (tôi không nhớ rõ) tán thán Ngài Xá Lợi Phất.

Đây là lần cuối cùng, con người vĩ đại này không còn trên cuộc đời này nữa. Vĩnh viễn không bao giờ gặp lại con người này nữa. Ngài tán thán Ngài Sariputta là người có hạnh tu như nước, như đất, như lửa, như gió. Người có trí tuệ như đại dương, như hư không..
 
QUAN SÁT PHẢN ỨNG KHI SÂN
Ngay khi bạn gặp một điều không vừa ý nào đó ở bên ngoài, liền có một cảm thọ ở trên thân. Do đối tượng là không vừa ý nên cảm thọ sẽ rất khó chịu (thọ khổ) và bạn phản ứng lại với tâm sân.

Nếu bạn học được cách: làm thế nào để quan sát những cảm thọ trên thân với thái độ BÌNH THẢN hay XẢ LY, không phản ứng lại chúng, bạn sẽ thoát ra khỏi thói quen cũ của bừng bừng NỔI GIẬN và tự làm hại mình.

Thực hành Minh Sát sẽ giúp bạn phát triển được khả năng quan sát mọi loại cảm thọ khác nhau, mà bạn kinh nghiệm trên những thân phần khác nhau, từ lúc này đến lúc khác, và giữ được thái độ xả do KHÔNG PHẢN ỨNG lại với chúng.

Thói quen cũ của bạn trước đây là: khi bạn cảm giác một cảm thọ dễ chịu (thọ lạc) thì bạn sẽ phản ứng lại với THAM ÁI và chấp thủ. Khi bạn có những cảm thọ khó chịu (thọ khổ) thì bạn liền phản ứng lại với NÓNG GIẬN và sân hận. Thiền Minh Sát (Vipassana) sẽ dạy bạn biết quan sát mọi cảm thọ, cả dễ chịu lẫn khó chịu, một cách KHÁC QUAN và giữ thái độ XẢ, với sự hiểu biết rằng: mọi cảm thọ đều có bản chất sanh và diệt hay vô thường, không có cảm thọ nào tồn tại vĩnh hằng cả.

Nhờ thực hành thường xuyên việc quan sát cảm thọ một cách xả ly sẽ giúp bạn thay đổi thói quen phản ứng mù quáng tức thời đối với cảm thọ này. Như vậy, trong cuộc sống hằng ngày, bất cứ khi nào bạn tiếp xúc với một điều gì không vừa lòng, bạn để ý thấy rằng: một cảm thọ khó chịu đã phát sanh trong thân và bạn bắt đầu quan sát nó, không để cho đùng đùng NỔI GIẬN như trước. Dĩ nhiên phải mất một thời gian mới đạt được giai đoạn này, và giai đoạn này giúp bạn hoàn toàn giải thoát khỏi sân hận.

Trích: THIỀN NGAY BÂY GIỜ
Cố Đại Lão Thiền sư Goenka.
 
SAMATHA ( CHỈ) HAY VIPASSANA (QUÁN) ?

Học viên: Sáng nay chúng ta đã thảo luận về việc nên phát triển samatha trước hay vipassana trước. Xin quý vị hãy tiếp tục chia sẻ về vấn đề này.

A: Chúng ta cần làm quen với việc luôn phải tìm hiểu từng từ một. Ví dụ, thế nào là bhāvanā-phát triển tâm trí? Thế nào là samatha-an tịnh? thế nào là vipassanā- minh sát? Không ai muốn có thêm bất thiện pháp, vì thế khi nói đến bhāvanā thì chắc chắn không phải nói đến sự phát triển của bất thiện pháp. Tuy nhiên, nếu không hiểu về bất thiện pháp, liệu có thể có được những khoảnh khắc của phát triển thêm thiện pháp hay không? Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, nếu không có hiểu biết đúng ở những mức độ khác nhau thì không có phát triển tâm trí, dù là samatha hay vipassanā.

Về mặt bản chất, samatha là những khoảnh khắc thấy được hiểm họa của ngũ dục. Một người chưa thấy được hiểm họa của bất thiện sẽ không thể biết phải làm thế nào để có thêm thiện pháp trong cuộc sống của mình. Như vậy, ngay từ ban đầu phải có được nhận thức về hiểm họa của bất thiện. Và cũng phải hiểu các bất thiện sinh khởi từ đâu. Khi có cái thấy và không có hiểu biết đúng về cái thấy cũng như đối tượng thị giác, sẽ có sự dính mắc với những gì được kinh nghiệm. Tương tự, sẽ có sự dính mắc với những gì được kinh nghiệm qua nghe, ngửi, nếm, xúc chạm… suốt cả ngày. Hiện giờ có ai nhận ra được rằng, ở ngay khoảnh khắc này đây đang có sự dính mắc sinh khởi sau cái thấy hay không? Cần phải có hiểu biết đúng sinh khởi thấy được rằng không muốn có thêm bất thiện pháp do những kinh nghiệm qua ngũ quan mang tới. Nhưng vấn đề này không thể được giải quyết bằng cách nhắm mắt hay bịt tai, bởi vì không thể không thấy, nghe và suy nghĩ. Các pháp đều là vô ngã.

Những người ở thời đức Phật không biết cách tận diệt phiền não và bất thiện pháp trước khi được nghe Ngài thuyết Pháp. Họ không biết làm thế nào để có thể tận diệt được vô minh và tham ái, do tà niệm*. Ở thời điểm đó, mọi người chỉ biết tới loại trí tuệ có thể vun bồi sự an tịnh. Trước khi đức Phật giác ngộ, không ai biết cách thức tận diệt các phiền não. Mức độ tuệ giác ở những thời điểm đức Phật chưa thuyết Pháp chỉ hiểu được sự khác biệt giữa những khoảnh khắc của thiện pháp và bất thiện pháp, và biết những thiện hay bất thiện pháp đó sinh khởi do bởi đối tượng như thế nào. Chẳng hạn hiện giờ chúng ta nghĩ về cái chết: không ai có thể tránh khỏi cái chết. Khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời này sẽ tới khi duyên chín muồi, và khi đó sẽ là sự chấm dứt của cái gọi là một con người trong thế giới này, sẽ không còn sự tồn tại của chúng sinh đó nữa. Vậy điều tốt nhất có thể sinh khởi trước khi cái chết tới là gì?

Những người không được nghe Giáo lý đức Phật vẫn có thể phát triển thiện pháp bằng những cách khác nhau. Nếu không có việc bố thí thứ cần thiết cho những người khác với tâm từ, thì có thể có những khoảnh khắc hiểu biết về tâm từ ở những khoảnh khắc bố thì hay không? Và nếu hiểu biết sinh khởi thì có thể có sự suy niệm về thiện pháp của bố thí được gọi là Niệm thí - Dananussati. Tương tự, nhờ những khoảnh khắc hiểu được rằng những gì mình đang dính mắc vào về thực chất chỉ là tứ đại mà thôi, rằng những gì tồn tại trên thế giới này thực chất chỉ là tứ đại, sẽ có sự sinh khởi những khoảnh khắc suy niệm đi suy niệm lại về những tính chất này. Đề mục kasiṇa đất là một ví dụ, ý nghĩa của từ kasiṇa có nghĩa là “tất cả mọi thứ”.!

J: Pathavī có nghĩa là “đất”, kasiṇa có nghĩa là “mọi thứ”, vì vậy pathavī kasiṇa có ý nghĩa là: tất cả những cái gì tồn tại trên đời này đều là đất, hay địa đại. Như vậy, quán kasiṇa đất thực chất là việc suy niệm về yếu tố địa đại có mặt trong tất cả những gì là vật chất. Sự suy niệm này cần phải được phát triển mạnh mẽ thêm một cách rất thường xuyên. Tuy nhiên, bản chất của sự suy niệm này là sự suy ngẫm về tính chất ấy, chứ không phải là việc tập trung vào một cái gì đó. Mọi người thường cho rằng việc phát triển samatha qua kasiṇa đất là tập trung vào một cái đĩa làm bằng đất. Nhưng đây là một hiểu biết sai lầm, bởi vì không phải cứ có định tâm là tự động có thiện pháp. Bản thân đối tượng [cái đĩa đất] không phải là nhân tố tạo nên thiện pháp khi tập trung vào nó. Chính cách thức suy niệm về đối tượng đó mới là yếu tố quan trọng. Từ mấy ngày nay, chúng ta đã nêu rằng những gì là sắc, là vật chất trên thế giới này đều được tạo trên nền tảng tứ đại. Tứ đại, trong đó có địa đại-yếu tố đất, sinh khởi với tất cả các sắc.

Vừa rồi chính là mô tả về bản chất của “thiền” với kasiṇa đất làm đề mục. Chỉ khi hiểu biết về bản chất của mọi vật chất trên thế giới này [chỉ là đất-VDH] được phát triển, khi đó mới có duyên để hình ảnh hay tướng của kasiṇa đất được gắn chặt trong tâm. Nhưng đó là một mức độ tuệ giác đã phát triển. Hiện giờ có thể có một chút suy niệm rằng những gì mà chúng ta coi là “thế giới” thực chất chỉ là đất mà thôi. Hiểu biết ở mức độ đó có thể sinh khởi mà không cần phải có một cái đĩa bằng đất làm đối tượng suy niệm. Toàn bộ Giáo lý của đức Phật đều hướng đến những gì sinh khởi hiện giờ, đến phát triển hiểu biết về những gì xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày một cách tự nhiên.

(*): Tà niệm (miccha sati) là pháp bất thiện nhưng bị lầm tưởng là chánh niệm, do bị dẫn dắt bởi tà kiến.
 
PHÉP LẠ CỦA ĐẠO PHẬT LÀ SỰ CHUYỂN HOÁ TỪ XẤU NÊN TỐT

Tuỳ vào vốn liếng của mỗi người mà chúng ta đóng góp được gì cho thế giới, và chính sự đóng góp đó là phép lạ. Trong tinh thần của Phật pháp phép lạ không phải là cái gì để mình nhìn cho nó đã con mắt mà phép lạ là một sự hoán chuyển .
Tôi nhớ có một vị thiền sư nói thế này : “Bạn có thể dời một ngọn núi lấp một con sông, nhưng cái đó nó không có ghê gớm bằng bạn có thể chuyển hoá cho những người tà kiến thành chánh kiến, những người sân si thành mát mẻ, những người u mê tự nhiên có trí tuệ , những người cuồng tín trở nên chánh tín .”

Và có một chuyện quí vị phải đồng ý với tôi, chuyện khoa học dời núi họ làm được phải không, nhưng chuyện muốn thay đổi suy nghĩ của một người “ chắc chích thuốc tử hình chứ không có cửa “ .

Ngày còn bé tôi đọc được câu này của Tàu : “Chém đầu ngàn viên tướng ngoài trận dễ hơn là thay đổi suy nghĩ của kẻ thất phu “ .Tôi thấy rất vô lý, nhưng bây giờ tôi già rồi tôi thấy đúng, một ngàn viên tướng đúng là khó chặt đầu, nhưng mình có thể dùng mỹ nhân kế, ly gián, khổ nhục kế ..v.v hoặc lấy bom “bùm “ là xong, nhưng để thay đổi suy nghĩ một người rất khó. Cho nên phép lạ của Đạo Phật là gì ?Là sự chuyển hoá từ xấu nên tốt .

Tôi nhớ Có một ông minh triết của Hồi Giáo, ông sống đến già, ngày ông 80 tuổi bạn bè đến thăm, lúc ông đang nằm ngáp ngáp thoi thóp trên giường bệnh ông thều thào nói thế này :

-Năm 20 tuổi tôi ôm mộng thay đổi thế giới, năm 40 tuổi tôi ôm mộng thay đổi mọi người chung quanh tôi, năm nay tôi 80 tuổi tôi mong thay đổi được tôi thôi.

Các vị đừng coi thường chuyện đó, nếu mọi người trong đám đông này mà tự thay đổi được mình thì thế giới sẽ được thay đổi.
Tôi thấy tôi phun một miếng kẹo Chewing gum đâu có bao nhiêu, cô kia cũng nghĩ không có bao nhiêu, cuối cùng nguyên đống toàn là Chewing gum.Tôi liệng xuống một bao nilon, vị đó liệng xuống một chai nước, cô kia liệng xuống một cái lon. Một cái lon, tờ giấy, bao nilon, chai nước, lon nước chưa đủ là rác, nhưng gom tất cả lại chúng ta có nguyên một đống rác.
Thế giới này là một môi trường cộng hưởng, không có gì trên đời này tồn tại độc lập mà không cần đến sự kết nối liên đới, cộng hưởng, cộng sinh với vô vàn những thứ khác, vì đó là bản chất duyên khởi của thế giới .

Vô ngã là gì ?
Là không có một cái gì đơn thuần bất biến một mình nó mà nó có thể tồn tại. Ngay cả một nụ cười, một giọt nước mắt của chúng ta nó cũng cần vô số điều kiện để có được. Do đó người Phật tử hiểu được nguyên tắc này phải sống có trách nhiệm hơn. Vì sao vậy ?Vì một nụ cười, một cái lườm liếc của mình vẫn có thể đưa đến một bi kịch .
 
TÁM NGỌN GIÓ THẾ GIAN LÀM THÂN TÂM RUNG CHUYỂN

Người hỏi: Con có một người con trai thường xuyên vay nợ do mê cá độ banh. Mỗi lần như vậy, phần vì thấy cháu có vẻ ăn năn, phần thì sợ xã hội đen nên con vẫn cố vay mượn để trả nợ cho cháu, nhưng rồi cháu vẫn chứng nào tật ấy.

Gần đây, sự việc lại tái diễn, cháu nói rằng trong hai ngày nữa nếu không có tiền trả nợ thì cháu sẽ tự tử. Một lần nữa, con lại thấy điên đảo và lại đi vay. Con giờ sống như người không có hồn.

Mong bà chỉ dạy liệu con có nên tiếp tục cứu con mình như trước đây không. Nếu không cứu nó thì cần chuẩn bị như thế nào cho tình huống xấu xảy ra để có được tinh thần vững vàng.
-

J: Đây quả là một tình cảnh éo le. Và tôi sẽ cho người mẹ ấy cùng lời khuyên mà đức Phật đã đưa ra cho tất cả những ai tới gặp Ngài để hỏi về các vấn đề trong cuộc sống của họ: sự bảo hộ tốt nhất cho cuộc sống là phát triển thiện pháp . Bởi lẽ sẽ luôn có những điều bất như ý hay các sự kiện éo le xảy ra trong cuộc đời mỗi người, và khi những điều ấy xảy ra, không có cách nào tránh khỏi chúng và bảo vệ được ta ngoài sự phát triển thiện pháp.

Như chúng ta đã biết, có nhiều mức độ của thiện pháp, và khi nói đến thiện pháp, chúng ta thực chất nói về các khoảnh khắc thiện tâm chứ không phải là những việc làm thiện theo nghĩa chế định thông thường. Một ví dụ: nếu hiện giờ có khoảnh khắc từ tâm hướng tới mọi người ngồi đây, đó chính là thiện pháp. Không nhất thiết là từ tâm ấy phải được thể hiện ra ngoài theo một cách nào đó qua hành động hay lời nói. Từ tâm đó chính là thiện pháp.

Và trong các buổi Pháp đàm, chúng ta cũng đã bàn luận rằng, loại thiện pháp tối thắng nhất là chánh niệm cùng trí tuệ hiểu về các thực tại, các pháp chân đế hiện khởi, vì kết quả của chánh niệm và trí tuệ là sự tận diệt các phiền não và cuối cùng chấm dứt luân hồi sinh tử. Bất cứ loại thiện pháp nào khác thì đều chỉ đưa tới kết quả là tiếp tục trong vòng luân hồi. Và chừng nào còn trôi nổi trong vòng tử sinh thì vẫn còn có duyên cho những sự kiện bất hạnh, éo le xảy ra, còn có tám ngọn gió đời của được-mất, khen-chê, vinh-nhục, hạnh phúc-khổ đau, còn phải xa lìa người thương, hay gần gũi người ghét, đó là một phần không thể tránh khỏi của các kiếp sống trong luân hồi, đối với tất cả mọi người, trong đó bao gồm cả những bậc thánh nhân.
-
Đặc tính khổ của các pháp hữu vi mà ta đề cập tới lúc trước cũng là một phần của cuộc sống trong luân hồi, kể cả với các bậc thánh nhân. Như vậy, những sự kiện bất như ý sẽ còn có thể xảy ra với tất cả mọi người cho tới ngày bát niết bàn – tức là chấm dứt luân hồi sinh tử. Và như vậy, ta lại quay về điểm ban đầu: khởi sự hiểu về các pháp mà đức Phật đã giác ngộ và thuyết giảng. Đó là hình thái thiện pháp cao nhất mà duy nhất chỉ một vị Phật mới có thể khai ngộ và giáo hoá. Nó bắt đầu với hiểu biết tư duy về bản chất của các pháp hiện khởi, cũng như hiểu thế nào là chánh niệm về các pháp ấy.
-
S: Chúng ta được đọc về nhiều hoàn cảnh bi thương vào thời đức Phật còn tại thế, chẳng hạn như câu chuyện về một người phụ nữ lần lượt mất toàn bộ những người thân trong gia đình, đã trở nên điên loạn và cuối cùng tới gặp đức Phật trong trạng thái không vải che thân. Bất luận hoàn cảnh và mức độ buồn đau của những người tới gặp Ngài, đức Phật luôn nói về phát triển thiện pháp và hiểu biết về bản chất của các pháp. Ngài giúp mọi người có thể sống độc cư với cái thấy, với cái nghe, và hiểu rằng chỉ có một thế giới ở một thời điểm. Vấn đề thực sự luôn nằm ở bất thiện, ở những suy nghĩ với dính mắc, với ưu não. Một trong các vị A-la-hán cũng phải chịu kết quả của nghiệp bất thiện đã tạo một cách rất khủng khiếp, nhưng tâm Ngài không bị xáo động bởi những sự kiện ấy.
-
Đôi khi, có người có thể nghĩ rằng, đối với các hoàn cảnh cụ thể, sẽ có thể có câu trả lời hay giải pháp đơn giản để giải quyết vấn đề. Hoặc ngược lại, ai đó có thể nghĩ rằng khi có hiểu biết về pháp rồi thì không cần phải làm gì cả. Trong chế định, người mẹ này cùng bạn bè của mình ở trong vị trí thực tế phù hợp hơn chúng tôi để tìm giải pháp, đơn cử như chuyển nơi sống để không còn trong tầm với của xã hội đen nữa – chỉ là một ví dụ thôi vì chúng tôi không có các chi tiết cụ thể. Chúng tôi không thể nói cách nào là tốt nhất. Tất cả những gì mà chúng tôi có thể làm, như những gì đức Phật đã làm, đó là nói về bản chất các pháp và giúp đỡ mọi người – bất kể người ấy đang trong hoàn cảnh nào – phát triển được hiểu biết. Cuối cùng thì, chỉ có chánh kiến về các pháp hiện giờ đang xuất hiện mới là giải pháp triệt để cho các vấn đề của vòng sinh tử luân hồi.
-
A: Sẽ luôn có các vấn đề: vấn đề của cậu ấy, của bạn, của tôi, các vấn đề của gia đình, của đất nước, mọi nơi…Nhưng ngay khi chết đi thì các vấn đề của kiếp sống vừa qua đâu mất rồi? Nhưng vì vô minh vẫn còn đó, sẽ lại có các vấn đề trong kiếp sau, cũng như đã từng có các vấn đề trong kiếp này và các kiếp quá khứ. Ai có thể tránh khỏi các khó khăn, vướng mắc chừng nào vẫn còn sống? Sẽ không có rắc rối chỉ khi có trí tuệ hiểu bản chất cuộc sống. Chừng nào còn ý niệm về “tôi” và “của tôi”, chừng đó sẽ còn có các vấn đề. Nếu không có vấn đề với con cái, sẽ lại có vấn đề với cái răng. Ai có thể ngăn không cho các vấn đề này sinh khi có duyên để chúng phát khởi? Đó chính là thực tế của cuộc sống –lúc được, lúc mất – hoàn toàn do duyên.
-
Nếu ngay bây giờ con trai của bạn đang hấp hối, bạn có thể làm gì? Bạn có thể làm gì để cứu cháu không khi tới thời điểm cháu phải ra đi? Và với mạng sống của chính mình, bạn có thể làm gì không? Dù chỉ kéo dài thêm một sát-na, có ai làm được không? Vì vậy, vấn đề cốt lõi là vô minh. Sau khi ta chết đi, sẽ phải có một cuộc sống mới, một con người mới, một câu chuyện mới, không còn nhớ chút nào về những gì đã xảy ra trong kiếp trước – tức là kiếp hiện giờ. Vậy chừng nào vẫn còn sống trong cuộc đời này, điều gì là tối thượng nhất? Là hiểu rằng, gốc rễ, căn nguyên của mọi vấn đề nằm ở vô minh. Hiểu biết thì không bao giờ làm tổn thương ai. Khi ta buồn khổ, bất hạnh, nó chứng tỏ điều gì? Không hiểu đúng sự thật của cuộc sống, rằng nó diễn ra do các duyên tương ứng. Có ai có năng lực làm mình buồn khổ không? Chính vô mình và các phiền não đang làm công việc ấy, không phải con người nào cả.
-
Tất cả những gì sinh khởi đều vô cùng ngắn ngủi và tạm bợ. Có những duyên để sinh khởi cả hạnh phúc và khổ đau, cả thiện và bất thiện. Ai biết được ngày mai sẽ ra sao? Ai biết được, cái chết có thể tới bất cứ lúc nào, có thể ngay hôm nay. Lo lắng về các tình huống không giúp được gì. Nhưng có thể có hiểu biết rằng không thể thay đổi các pháp đã sinh khởi do duyên rồi. Quãng thời gian tồn tại dưới tư cách con người này thực chất rất ngắn ngủi. Bất kể điều gì sẽ tới hay đang tới, hãy làm điều tốt nhất mà mình có thể làm, vậy thôi. Đừng lo lắng quá nhiều, bởi những gì xảy ra là bởi đã có duyên khiến chúng xảy ra như vậy.
 
KHỔ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ DƯỚI THẨM NGHIỆM VI TẾ

A: Khổ đế là gì đây? Khổ đế thứ nhất là tất cả các thực tại đã sinh thì phải diệt. Hiện giờ các thực tại đang xuất hiện, điều ấy có thú vị không? Vẫn chưa có chánh niệm cùng trí tuệ đủ để hiểu rằng ngay khoảnh khắc này là Khổ đế. Nếu không có hiểu biết về từng thực tại xuất hiện ở từng thời điểm, liệu có thể tận diệt ý niệm về tự ngã hay không? Chúng ta vẫn nghe rằng hiện giờ cái thấy sinh và diệt, rồi được tiếp nối bởi khoảnh khắc của cái nghe cũng sinh và diệt, và cứ như vậy nhưng chúng ta không thấy có vấn đề gì cả. Sở dĩ ta thấy điều đó không có vấn đề gì cả là bởi trí tuệ chưa sinh khởi để thấy được hiểm họa của sự sinh và diệt của các thực tại, rằng không có gì lạc thú trong đó.

Hiểu biết sai hay tà kiến sẽ nghĩ rằng việc hiểu về những gì đang xuất hiện hiện giờ không phải là con đường để phát triển trí tuệ. Tà kiến luôn nghĩ đến những khoảnh khắc khác, một thời điểm khác, một nơi khác để hiểu đúng. Nhưng một sự thực là, chừng nào Trí tuệ chưa phát triển để có thể hiểu mọi thực tại ở mọi thời điểm, đương nhiên nó chưa thể thấy được sự sinh diệt của các thực tại.

Các bạn có quy y Pháp không ? Nếu bạn quy y Pháp, hãy lắng nghe sự thật. Hiểu biết đúng sẽ phát triển đến khi hiểu từng khoảnh khắc của sự dính mắc, trí tuệ biết rằng với việc hiểu từng khoảnh khắc của thực tại, dần dần sự dính mắc đó sẽ được tận diệt. Vậy Thánh đế thứ hai là gì?

Người dịch: Thánh đế thứ 2 là Tập đế - nguyên nhân của khổ, những thứ cần phải được tận diệt - là vô minh và tham ái.
A: Liệu có ai có thể tận diệt được dính mắc mà không có hiểu biết hay không? Toàn bộ con đường tận diệt các phiền não theo từng giai đoạn là con đường của trí tuệ. Từ điểm khởi đầu cho đến điểm cuối hoàn toàn là công việc của trí tuệ.

Bây giờ chính là khoảnh khắc chúng ta có thể phát triển trí tuệ. Khi thời điểm chín muồi, có thể có trí tuệ bắt đầu, không còn là hiểu biết về câu chuyện về các thực tại, mà là hiểu biết trực tiếp về đặc tính thực tại khi chúng xuất hiện, khi ấy đặc tính của thực tại sẽ là đối tượng của chánh niệm cùng với trí tuệ. Trong một ngày có rất nhiều khoảnh khắc của cái thấy, tùy thuộc sự chín muồi của duyên mà liệu có thể sinh khởi những khoảnh khắc của hiểu biết đúng về nó hay không. Trước khi có hiểu biết rõ ràng, tức là sự sinh khởi của các thực tại mà chúng ta gọi là các Tuệ minh sát, sẽ phải có bước khởi đầu của sự phát triển chánh niệm tỉnh giác. Từ thời điểm chưa có gì cả đến những khoảnh khắc có hiểu biết cùng với chánh niệm, cứ dần dần như vậy mà không phải do mình cố tạo ra. Nếu nghĩ rằng có thể dùng ý chí hay ý muốn để quyết định, lựa chọn đối tượng của chánh niệm thì khi không phải là cái hiểu về vô ngã, và dính mắc đang ở đó. Và nếu không có sự bắt đầu bằng việc hiểu rằng các thực tại xuất hiện một cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày là vô ngã thì chưa thể nói đến việc kinh nghiệm sự sinh diệt của các thực tại.

Chúng ta không thể cố làm cho trí tuệ sinh khởi. Việc cố gắng một cách mãnh liệt không phải là cách thức để cho trí tuệ sinh khởi. Bởi vì con đường này là con đường của sự xả ly, nó bắt đầu cũng với sự xả ly. Và con đường rất tự nhiên ở khoảnh khắc có cái hiểu rằng không có một ai có thể kiểm soát được những gì sinh khởi. Ở khoảnh khắc muốn liễu ngộ ngay lập tức bản chất của thực tại thì cái gì đang ở đó? Bất cứ khi nào có sự mong cầu, mong muốn, dính mắc, nó sẽ che lấp bản chất của thực tại. Nó sẽ làm kéo dài quá trình phát triển thực sự của trí tuệ. Điều ấy xảy ra cả với những người hiểu đúng về con đường. Nhưng với những người không hiểu đúng về con đường, ngoài tham ra thì còn có thêm cả tà kiến. Đừng quên rằng các thực tại vô cùng vi tế. Vậy trí tuệ có thể hiểu được sự vi tế của các thực tại ấy cũng phải vô cùng vi tế.

Phải thực sự chân thực để thấy hiện giờ trong khoảnh khắc này chánh niệm (samma sati) có sinh khởi hay không? Đây là một câu hỏi đấy. Hiện giờ có chánh niệm hay không?

Ai đó trả lời: Không ạ

A: Đó là sự chân thực. Trí tuệ luôn hiểu sự khác biệt giữa khoảnh khắc hiểu ở mức độ tư duy và khoảnh khắc hiểu ở mức độ trực tiếp. Ngay từ lúc khởi đầu, dù ở bất cứ mức độ nào, cũng có sự khác biệt lớn giữa khoảnh khắc của hiểu biết cùng chánh niệm và khoảnh khắc không có chánh niệm. Liệu chánh niệm có phải là ý định, tác ý hay không? Đây cũng là một câu hỏi. Không phải đúng không? Liệu đó có phải là nhất tâm (Sammadhi), hay không?

Ai đó trả lời: Không.

A: Trí tuệ có phải là chánh niệm hay không?

Ai đó trả lời: Không

A: Đúng là như thế. Để trí tuệ có thể trở nên sâu sắc hơn, trước hết phải có nhân duyên để cho chánh niệm sinh khởi và yếu tố làm duyên đó chính là hiểu biết vững vàng rằng bản chất của các thực tại là vô ngã. Khi có chánh niệm thì chánh niệm cũng là một thực tại sinh khởi do duyên chứ không phải do ý chí hay ý định. Ở khoảnh khắc đó nó hiểu rằng nếu không có hiểu biết ở mức độ tư duy thì sẽ không có cơ sở để cho chánh niệm thực sự sinh khởi. Bây giờ cứng đang xuất hiện đúng không? Chánh niệm có sinh khởi hay không?

Ai đó trả lời: Không ạ

A: Biết rằng không có chánh niệm, đó là hiểu biết đúng. Nếu ta tưởng rằng cứ thấy cứng đã là chánh niệm rồi thì không phải là như vậy. Khi vẫn chưa có sự hiểu biết thì có nghĩa là vẫn chưa có chánh niệm sinh khởi cùng nó. Có nhiều mức độ của chánh niệm khác nhau. Ở khoảnh khắc của bố thí, không phải là một tự ngã hay một ai đó làm việc bố thí, mà chính là tâm sở chánh niệm không quên làm việc thiện là bố thí. Có thể có một mức độ cao hơn của chánh niệm ở khoảnh khắc của bố thí hay không?
Người dịch: Có ạ.

A: Rõ ràng ở khoảnh khắc của bố thí có chánh niệm hay biết không quên việc thiện là bố thí, nhưng cũng có thể có mức độ của chánh niệm cao hơn đó là khi nó sinh khởi cùng với hiểu biết rằng không phải là một con người làm việc bố thí đó mà thực chất là một thực tại sinh khởi.Thực tại sinh và diệt rất nhanh, nhưng khi có đủ duyên, có thể có trí tuệ sinh khởi hiểu tính chất vô ngã của thực tại ấy. Khi đó là một mức độ của hiểu biết cao hơn. Ở khoảnh khắc đó, cái gì biết được chánh niệm và trí tuệ có sinh khởi hay không?

Người dịch: Trí tuệ biết.

A: Chỉ duy nhất trí tuệ biết điều đấy. Chỉ có trí tuệ mới phân biệt được ở khoảnh khắc ấy có Trí tuệ và chánh niệm hay không. Vậy, khi có hiểu biết thực sự sinh khởi sẽ không cần hỏi câu hỏi Liệu đó có phải là chánh niệm hay trí tuệ hay không? Đức Phật không thể đem trí tuệ của Ngài đưa cho một người khác, nhưng những lời dạy của Ngài có thể làm duyên cho hiểu biết sinh khởi nơi chính người đó. Khi ấy hiểu biết đó sẽ tới từ tự thân mình và không cần sự giải thích của người khác. Và điều quý giá nhất trong cuộc đời của mỗi người là gì? Đây là một câu hỏi.

Người dịch: Đó là hiểu biết

A: Điều quý giá trong mỗi một cuộc đời là hiểu biết, bởi vì cái thân này hay bất cứ điều gì khác đều không thể đi theo sau khi chết. Chúng ta dính mắc vào cái gì nhất trong cuộc đời này? Tất cả những gì mà chúng ta cho là tôi và của tôi, như là cái thân tôi chẳng hạn, nhưng có cái gì thuộc về bạn đâu?

Chúng chỉ là các thực tại sinh và diệt, không thể kiểm soát được. Nhưng vô minh cứ tưởng rằng đó là tôi và của tôi. Cái thấy có phải là bạn không, có phải là của bạn không?

Thân có phải là bạn và của bạn không? Cái sinh và diệt trong mỗi khoảnh khắc thì không còn bao giờ quay lại nữa. Trí tuệ sẽ bảo vệ chúng ta khỏi Tà kiến. Còn tham ái sẽ đưa chúng ta ra khỏi con đường đúng. Khi càng có hiểu biết đúng đắn về các thực tại sẽ càng làm duyên cho sự xả ly. Dù có mong muốn, cố gắng rất nhiều để có được hiểu biết, điều đó cũng không thể xảy ra. Trí tuệ tự nó phát triển theo tiến trình riêng của nó. Trong 52 tâm sở thì trí tuệ thuộc về hành uẩn.

Khi sinh khởi nó đảm nhận chức năng phát triển hiểu biết, chứ không phải một ai đó, một người nào đó phát triển hiểu biết. Vậy trong Giáo lý của Đức Phật, hiểu biết đúng sẽ dẫn tới sự xả ly. Bởi tham ái và dính mắc sẽ làm duyên cho khổ đau. Tất cả khổ đau đều tới từ sự dính mắc. Nếu những thứ mình rất yêu thương bị mất thì điều gì xảy ra? Khi đó có buồn không, có đau khổ không? Kể cả việc một cái răng bị vỡ thôi cũng đã khổ lắm rồi. Dù chỉ một cái răng thôi cũng đã khổ lắm. Vậy chúng ta có thể thấy dính mắc sẽ đem lại khổ đau.
 
PHÁT HIỆN TÂM ÁC

Tôi luôn luôn chủ trương phát hiện tâm ác. Thí dụ như: Đây là bủn xỉn, ganh tị, tham, sân, sợ.

Thường xuyên phát hiện những cái đó, khi mình nhìn tâm ác có hai cái lợi:

- Khi mình nhìn tâm ác là có tâm thiện.

- Khi cả ngày mình nhìn tâm ác thì con người mình nó khiêm tốn lắm.

Còn tu mình nhìn tâm thiện nó dễ kênh kiệu. Bởi vì khi mình là người phát hiện ra cái bất thiện thì nó đã là thiện. Cho nên mình đừng lo đi kiếm tâm thiện.

Và cái này quan trọng:

- Tu không phải để chứng thánh, mà tu không còn là phàm nữa.
- Tu không phải để đắc cái gì, mà tu để bỏ được cái gì.

Tu kiểu này nó an toàn, còn tu kiểu mong đắc thì nó dễ hiểu lầm, khi chưa đắc mà tưởng đắc rồi.

Tôi nói lại một lần nữa: Tu Tứ Niệm Xứ không hề suy nghĩ, không lý luận, là một cái nhìn trực quan. Không có kéo lê thê một núi sách, tủ kinh đi theo sau mình. Tuy nhiên anh phải có khả năng Văn và Tư thì khả năng Tu mới tốt.

Thời này gần như là mình tự tu, thời này không có Thánh không có Phật nữa . Ngày xưa có các Ngài, chỉ cần một câu chỉ điểm khai thị ta bèn đến nơi đến chốn. Ở đây cũng vậy, thánh hiền chư Phật không còn nữa, hành giả ngày nay phải tự mình có trách nhiệm với mình hơi nhiều. Bởi vì thầy chỉ có trách nhiệm với mình một mớ, phần còn lại là mình, chứ cái gì mình cũng đổ cho người khác thì ai gánh cho mình đây?
 
* CỐT LÕI CỦA TAM TẠNG (Tipiṭaka)
Chỉ có ba điểm cốt lõi trong Tam Tạng (tipiṭaka):


1. Thượng giới học phần (Adhisīlasikkkha)
2. Thượng tâm học phần (Adhicittasikkha)
3. Thượng tuệ học phần (Adhipaññāsikkha).


Cốt lõi của Giáo Pháp là giới, định và tuệ. Trì giữ ngũ giới, bát giới hoặc thập giới được gọi là giới. Định có nghĩa là cận định (upacāra samādhi) và an trú định (appanā samādhi). Tuệ có nghĩa là minh sát tuệ (vipassanā ñāṇa), đạo tuệ (magga ñāṇa) và quả tuệ (phala ñāṇa).

Trong số ba sự thực hành cốt lõi này, giới thuộc vào loại thiện pháp đã sanh khởi vì nó đã được thực hiện và được duy trì trong hiện tại. Tuy nhiên, định và tuệ thuộc vào loại thiện pháp chưa sanh khởi. Mặc dầu nhiều người thực hành định như niệm Ân Đức Phật (Buddhānusati) hoặc thân hành niệm (kāyagatā sati), nhưng họ thường thường chỉ đạt đến giai đoạn khởi đầu với mục đích để kiếm phước. Những nỗ lực của họ không thành khẩn, không chín mùi, cho nên, thậm chí cận định cũng không chứng đắc được. Loại định vững chắc cần thiết cho giải thoát vẫn là một thiện nghiệp chưa sanh khởi.

Nhiều Phật tử đếm tràng hạt và tụng kinh (sutta), hoặc niệm ‘vô thường, khổ, vô ngã’, nhưng họ vẫn không thể thâm nhập vào tuệ minh sát. Mặc dầu họ tích lũy phước báu, nhưng tuệ minh sát của họ vẫn là giả tạo vì nó không thể tẩy trừ được hư tưởng hoặc niềm tin sai lầm vào một cá nhân, một thực thể, một bản ngã, một linh hồn. Họ không chứng đạt được minh sát vào những hiện tượng danh sắc hoặc những sự thật chân đế. Minh sát thật sự, tức là loại tuệ minh sát hoàn thiện và đã được phát triển tốt đẹp, không thể chứng đạt được thông qua nỗ lực sa sút và trí tuệ yếu kém. Do đó, trí tuệ của họ cũng là loại pháp thiện chưa được sanh khởi.

Thậm chí trong vấn đề giới hạnh, mà đã được liệt kê là đã được sanh khởi, nhiều người chỉ có thể duy trì nó trong những khoảng thời gian ngắn ngủi; do đó, họ chỉ chứng đạt được giới hạnh tạm thời. Họ không thể đạt đến giai đoạn toàn vẹn và vững chãi, tức là loại giới hạnh có được do cắt đứt phiền não (samuccheda sīla). Chỉ khi nào một người đạt được giới hạnh vững chắc, người đó mới được gọi là một người có giới hạnh thật sự, đúng nghĩa.

Về giới điều tránh sát sanh, hầu hết mọi người chỉ đạt được loại giới hạnh tạm thời. Số đông nhiều người, nếu trì hành ngũ giới hoặc chỉ giới sát sanh này, đạt được giới hạnh tốt đẹp chỉ trong một thời gian ngắn giống như tia chớp trong bóng tối. Họ đạt được sự thành tựu giới hạnh một vài lần, nhưng họ cũng đánh mất nó một vài lần. Do đó, giới hạnh của họ có đặc tính bất ổn, không trường tồn.

Điều này là có thật. Trong vô số những kiếp sống quá khứ, sự thành tựu giới hạnh tạm thời thông qua việc ngăn tránh khỏi việc sát sanh đã xảy ra thường xuyên. Trong nhiều kiếp sống quá khứ, một người đã chứng đạt được địa vị, tư cách của một người có giới hạnh. Tuy nhiên, những thành tựu về giới hạnh này, vì là tạm thời, đã không mang lại sự an toàn thật sự và toàn diện. Loại giới hạnh tạm thời này là không đáng tin cậy và chỉ là nông cạn bề mặt. Ví dụ, hôm nay một người có thể là sở hữu giới hạnh, nhưng ngày mai người đó có thể trở nên đồi bại và vô liêm sỉ vì vi phạm một giới điểu. Giới hạnh chứng đạt trong vòng một tháng chỉ để rồi mất đi vào tháng sau đó. Tính không vững chắc này cũng áp dụng cho hiện tượng sau khi chết. Trong kiếp sống này, một người có thể là cẩn thận, những trong kiếp sống kế tiếp, người đó có thể là vô liêm sỉ. Do đó, một tu sĩ cẩn thận, một người tốt đẹp, có giới hạnh trong kiếp sống này có thể trở thành một kẻ trộm cướp, một sát nhân, một xạ thủ hoặc một người quái kiệt trong kiếp sống kế tiếp.

Thậm chí những bậc thánh thiện đã chứng đắc thiền (jhāna), và có thể bay trên trời với những năng lực thần thông, vẫn có thể trở thành những kẻ trộm cướp, sát nhân, xạ thủ hoặc người quái kiệt trong những kiếp sống kế tiếp của họ. Mặc dầu họ bắt gặp, đối diện với Giáo Pháp quý hiếm này, nhưng họ lại không ghi nhận được tầm quan trọng của những cô hội độc nhất vô nhị hiện bày. Nếu họ vẫn thỏa mãn với giới hạnh tạm thời, họ sẽ tái sanh làm ma quỷ, súc sanh, kẻ trộm cướp, sát nhân, vân vân. Họ sẽ hứng chịu đau khổ trong địa ngục do giới hạnh của họ vẫn còn tính có thể bị hỏng vỡ, tức là đặc tính của loại giới hạnh tạm thời.

Loại giới hạnh tạm thời và có thể bị hỏng vỡ này có tồn tại thậm chí ngoài Giáo Pháp của Đức Phật. Nó tồn tại một cách tự nhiên giống như thế gian và môi trường của thế gian. Nó là thông thường ở mọi nơi và mọi lúc. Nó thậm chí có tồn tại ở những vũ trụ khác nơi mà chưa từng có Đức Phật xuất hiện, nơi mà Giáo Pháp của Đức Phật chưa từng được tuyên thuyết tại đó. Có vô số những vũ trụ nơi nhân loại, thiên chúng và Phạm thiên đang sinh sống tại đó mà không nhận được phúc lợi nào từ Giáo Pháp của Đức Phật cả. Nhưng những chúng sanh đó vẫn đạt được phẩm vị nhân loại, thiên chúng và Phạm thiên do bởi quả của giới hạnh tạm thời này. Tuy nhiên, giới hạnh của họ là vô thường; do đó, phẩm vị về giới hạnh của họ có thể bị rơi rớt. Điểm quan trọng là loại giới hạnh thông thưởng và tạm thời này không thể được xếp loại là giới hạnh thật sự, tức là loại giới hạnh mà chỉ có trong thời kỳ Giáo Pháp của Đức Phật. Giới hạnh tạm thời thì không phải là giáo pháp thật sự. Chỉ có loại giới hạnh duy nhất, được gọi là “giới hạnh thông qua đoạn diệt phiền não” (samuccheda sīla), mới là giới hạnh thật, ổn định, thuộc vào Giáo Pháp của Đức Phật. Nó có nghĩa là giới hạnh không thể hỏng vỡ, giới hạnh đích thực.

* Sự Cuồng Dại Của Những Người Si Mê

Chúng ta không nên đánh giá quá cao giới hạnh thông thường, hời hợt và tạm thời vì nó là bất ổn và không đích thực. Để miêu tả điều này, sự cuồng dại của những người si mê sẽ được trích dẫn ở đây. Những người có năng lực thần bí rất là hiếm có; rất khó để gặp được một người như vậy thậm chí một lần trong cuộc đời. Một lần nọ, một kẻ si mê, ngu dốt đã gặp được một người tinh thông như vậy và đã được ban cho một điều ước. Kẻ ngu dốt đó đã ước muốn có thuốc xổ, là loại thuốc thông dụng, phổ biến trong mọi gia đình. Do đó, ông ta đã mất đi cơ hội quý giá để đạt được những vật quý hiếm.

Một ngày nọ, một cư dân ngu dốt đã gặp được vua trời Đế-thich (Sakka). Khi vua trời ban cho ông một điều ước, ông đã ước có một que diêm và một hộp quẹt mà sẽ đánh ra lửa ngay. Vua trời đã ban cho ông những thứ đó, nhưng que diêm và hộp quẹt là những thứ thông dụng trên thế gian. Người cư dân đó đã không nhận được gì có giá trị cả.

Tại Ava, vào thế kỷ 16, một vị vua, trong lúc săn bắn, đã gặp được một người có năng lực như vậy và đã được ban tặng cho một điều ước. Vị vua ước có được một tiên nữ để ông có thể tận hưởng dục lạc cao tột. Ông đã nhận được điều ước muốn của mình, nhưng việc tận hưởng dục lạc là tầm thường. Hơn nữa, vị vua đã bị lạc và cô tiên nữ đã biến mất. Ông chỉ đạt được sự thỏa mãn chỉ một lần và rồi chết trong rừng với tâm trí điên loạn vì thương nhớ cô tiên nữ.

Những câu chuyện ở trên chỉ rõ rằng cơ hội quý hiếm này phải cần được nắm bắt với trí tuệ và sự hiểu biết để nó trở nên có lợi ích. Khi Đức Phật đã xuất hiện và Giáo Pháp quý hiếm của Ngài vẫn còn tồn tại, người Phật tử phải không nên thỏa mãn với giới hạnh tầm thường, hạ liệt và tạm thời vì nó là không đáng tin cậy. Một người trí phải nỗ lực cố gắng để đạt được giới hạnh quý hiếm vững bền vì nó là vô giá và duy nhất. Những ai quá đề cao giới hạnh tạm thời và không bền vững thì giống như những kẻ ngu dốt ở trong những câu chuyện trên chỉ ước muốn những thứ tầm thường khi được ban tặng cho một điều ước. Yếu kém và khuyết điểm của giới hạnh tạm thời phải được ghi nhận và thấu suốt.

-- Trích - Pháp Triều dịch
 
Đại Trí của Đức Phật

1️⃣
Cái thứ nhất là Ngài biết rõ cái gì là hợp lý, vô lý.


ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato

2️⃣
Cái thứ hai là biết rõ về cái nghiệp của chúng sanh, nghiệp lý.


atītānāgatapaccuppannānaṃ kammasamādānānaṃ ṭhānaso hetuso vipākaṃ

3️⃣
Cái thứ ba, biết rõ về thiền định.


jhānavimokkhasamādhisamāpattīnaṃ saṃkilesaṃ vodānaṃ vuṭṭhānaṃ

4️⃣
Cái thứ tư, Ngài biết rõ về cái quả luân hồi.


anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati, seyyathidaṃ – ekampi jātiṃ, dvepi jātiyo…pe… iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati.

Tức là nhớ lại vô số đời trước không giới hạn. Có nghĩa là nhớ kiếp xưa cách đây một ngàn kiếp, một tỷ kiếp, một triệu tỷ kiếp mình hoặc là người khác đã sanh ra ở đâu, làm gì, hình dáng, tuổi thọ, sinh hoạt, thích ghét, nhu cầu ra sao biết rất rõ, nhớ rất rõ đó gọi là nhớ quả luân hồi.

5️⃣
Tiếp theo là sanh tử trí, tức là cái nhân luân hồi.


dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena…pe… yathākammūpage satte pajānāti
Là nhớ rất rõ biết rất rõ là ông nào đó, bà nào đó hoặc bản thân Ngài kiếp đó, trong kiếp đó vì nghiệp nào mà được giàu, vì nghiệp nào mà bị nghèo, bị bệnh, vì nghiệp nào có sức khỏe, thông minh, vì nghiệp nào có quyền lực, có nhan sắc, vì nghiệp nào được kẻ thương người ghét. Biết rất rõ, đó gọi là nhân luân hồi.

6️⃣
Và cuối cùng cái thứ sáu là gì?
Khi mà biết rõ cái nhân và quả luân hồi thì Ngài mới thấy được ra cái 4 đế.
āsavānaṃ khayā…pe… sacchikatvā upasampajja viharati.

Ngài thấy rằng tất cả quả luân hồi đều là khổ, tất cả nhân luân hồi đều là tập, còn thích trong khổ là còn đầu tư trong tập, muốn hết khổ thì phải vắng mặt của tập đế tức là lòng tham trong 6 trần. Và cái hành trình nào dẫn tới sự vắng mặt ấy đó? Chính là Tứ niệm xứ hay còn gọi đủ là Bát chánh đạo.

Có nghĩa là từ cái chuyện thấy nhân thấy quả sanh tử Ngài mới ngộ ra được 4 đế, Ngài ngộ theo cái hướng đó. Thấy tất cả quả sanh tử đều là khổ, tất cả nhân sanh tử đều là tập đế. Muốn vắng mặt khổ đế phải lìa tập đế, hành trình lìa bỏ tập đế chính là đạo đế, tức là Bát thánh đạo vậy. Khi mà Ngài có được 6 cái trí này thì Ngài mới được gọi là vị vô thượng điều ngự, thiên nhân sư, Đức Phật, Thế Tôn.

Sáu cái trí này ở vị Thinh văn có không? Có chứ, nhưng mà không có đáng kể so với Thế Tôn, từ cái trí 1 cho tới trí thứ 6. Chỉ có trí thứ 6 thì có điểm giống hơi nhiều giữa đạo sư và đệ tử, giống ở chỗ nào? Giống ở chỗ cả hai đều phải thấy rõ 4 đế và 12 duyên khởi mới là chứng thánh, mới lìa hẳn tất cả phiền não kiết sử. Giống nhau là giống chỗ đó. Và với một người như vậy thì sau kiếp sống này không còn luân hồi nữa, đây là điểm giống thứ hai.

Tuy nhiên cái biết, cái mà giác ngộ cái trí thứ 6 của vị Chánh đẳng giác là do thấy tất cả mọi sự rồi chứng tứ đế. Cái thấy của Ngài bao la lắm. Nếu các vị đọc kinh các vị tinh ý một chút sẽ thấy rằng chỉ riêng cái khoản túc mạng minh mà Ngài dùng hẳn một canh. Khiếp chưa? Một canh để Ngài nhớ, tức là Ngài nhìn ngược nhìn xuôi "Trời ơi, nhìn đâu cũng khổ vậy".
Rồi tới canh thứ hai Ngài mới quán nhân sanh tử "Ồ! cái giàu đó, cái nghèo đó, cái xấu, cái đẹp, cái sướng, cái khổ đó, cái đen trắng, mập ốm, ngu khôn, sang hèn đó đó là nó do mấy cái nghiệp này nè". Ngài quán đó Ngài mới lạnh xương sống, và khi Ngài đã nghe xương sống nó lạnh rồi thì Ngài mới bắt đầu Ngài mới thấy nhàm chán, Ngài mới quán chiếu 4 đế thông qua nhân và quả sanh tử.

Trong chú giải ghi rất rõ là trong tích tắc Ngài có thể tu qua tất cả các đề mục thiền chỉ. Tuy nhiên, trước khi thành đạo Ngài phải dùng tứ thiền từ đề mục hơi thở. Chư Phật luôn dùng tứ thiền từ đề mục hơi thở để làm nền tảng quán chiếu 12 duyên khởi và 4 đế để thành Phật.
Đại khái như vậy. Cái này trong room thế nào cũng có người thắc mắc "Cái này ổng nghĩ ra hay là ở đâu?" Dạ thưa cái này trong chú giải có ghi.

Các vị nào mà biết Tiếng Anh, các vị dịch dùm cái câu này. Tôi không có giúp các vị nữa. Thời này là thời internet, thời này là thời Google, các vị dịch dùm cái Tiếng Anh, dịch qua Tiếng Pháp, dịch qua Tiếng Đức, dịch xong rồi mới liệng qua Google. Tôi cho các vị một cái từ khóa luôn, là anapana catutthajjhana paccayakara, đánh cái từ khóa này vô Google rồi coi nó dắt mình đi đâu. Thì trong đó sẽ có cái câu nói là "Bồ tát phải dùng cái tứ thiền có từ hơi thở để mà quán chiếu cái duyên khởi." Duyên khởi và 4 đế không có rời nhau, vì sao vậy?



12links2.jpg


Vì duyên khởi gồm có hai chiều thuận và nghịch. Khi hai chiều thuận nghịch của 12 duyên khởi cộng lại thì có đủ 4 đế. Tức là do vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc. Do u mê trong 4 đế mới tạo các nghiệp thiện ác, rồi từ các nghiệp thiện ác mới có tâm đầu thai. Do các tâm đầu thai nên mới có lục căn, lục xúc, lục thọ, lục ái. Và từ lục ái sanh ra tứ thủ, tứ thủ sanh ra hai hữu. Đó là hành trình từ khổ đến tập và từ tập đến khổ.

4-noble-truths.jpg
Khi vô minh diệt, có nghĩa là khi không còn vô minh trong 4 đế nữa thì sao? Thì không còn các nghiệp thiện ác. Cái đó là hành trình ngược lại, hành trình diệt và đạo là đó. Cái tinh thần của 4 đế được thể hiện qua hai chiều thuận nghịch của 12 duyên khởi. Cho nên khi ai đó nói "Thinh văn chỉ có biết 4 đế, Độc giác chỉ có biết 12 duyên khởi" thì con lạy các bố, các bố có học giáo lý kỹ không, các bố nói gì kỳ vậy?

Tôi vừa giảng xong là 6 cái trí này ở Thinh văn cũng có, nhưng mà chỉ là cái mảnh vụn của Chánh đẳng giác thôi. Thí dụ như túc mạng minh, sanh tử minh đệ tử của Đức Phật cũng có vậy, các vị Thinh văn cũng có vậy nhưng chỉ là một mảnh vụn. Các vị có thể nhớ được 100 ngàn đại kiếp, 200 ngàn đại kiếp trong khi Đức Thế Tôn là không giới hạn bởi các con số.

Sanh tử minh cũng vậy, lậu tận minh cũng vậy. Còn mấy cái trí đầu tiên như là trí hiểu biết về thiền, trí hiểu biết nghiệp lý, trí hiểu biết cái gì là có thể và không có thể, những cái trí đó Thinh văn cũng có nhưng chỉ là những mảnh vụn.

Và cuối cùng là cái lậu tận trí, như tôi đã nói, Thinh văn chỉ cần nhìn vào một giọt sương, nhìn vào một giọt nước, nhìn một tí ánh trăng, Thinh văn chỉ cần quan sát hơi thở, quan sát một tâm trạng, một cảm xúc là Thinh văn đắc chứng, mặc dù trước đó mù tịt không biết cái gì hết. Không biết cái gì hết nhưng mà duyên đủ rồi thì chỉ cần nhìn cái mặt nước, sao gợn ánh trăng, nhìn một chiếc lá rơi, quan sát hơi thở trong tích tắc, v v… có thể chứng, nhưng mà riêng vị Chánh đẳng giác thì không.

Cái hành trình của các Ngài là kèn trống ầm ĩ, nghi trượng gọi là trang nghiêm lắm. Là sao? Các Ngài phải trải qua bao nhiêu thứ. Có nghĩa là các Ngài phải đắc chứng toàn bộ các tầng thiền định xong rồi các Ngài lấy đó làm nền tảng để mà quán chiếu danh sắc, quán chiếu 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới thông qua 12 duyên khởi và từ đó là 4 đế. Và đây là lý do vì đâu mà sau khi thành Phật rồi, Thế Tôn và Chư Phật nói chung, đã nhập 2 triệu 400 ngàn lần các cái tầng thiền vào ra, ra vào, vào ra, ra vào, vào ra. Suốt 2 triệu 400 ngàn lần như vậy sau khi thành Phật, thời gian tích tắc là đã xong.

Và trước khi niết bàn đã lập lại một lần nữa chuyện ấy. Có nghĩa là xuất nhập vào ra 2 triệu 400 ngàn lần, chín tầng thiền tất cả, vô sơ thiền ra sơ thiền, nhập nhị thiền ra nhị thiền, nhập tam thiền ra tam thiền, nhập tứ thiền ra tứ thiền sắc giới, nhập vào hư không ra khỏi hư không vô biên, nhập vào thức vô biên ra khỏi thức vô biên, nhập vào vô sở hữu xứ ra khỏi vô sở hữu xứ, nhập vào phi tưởng phi phi tưởng ra khỏi phi tưởng phi phi tưởng, nhập vào diệt thọ tưởng định xuất khỏi diệt thọ tưởng định, nhập vào sơ thiền ra khỏi sơ thiền, nhập vào nhị thiền ra khỏi nhị thiền, nhập vào tam thiền ra tam thiền,... cứ như vậy mà đến 2 triệu 400 ngàn lần sau khi thành Phật và trước khi niết bàn.

Cho nên đây cũng là một trong những cái lý do mà cái bữa ăn của Bà Sujata và cái bữa ăn của ông Cunda có công đức rất lớn. Cái bữa ăn của Bà Sujata là nhờ cái bữa ăn đó mà Bồ tát coi như là thành Phật chứng được hữu dư y niết bàn, chứng được phiền não niết bàn và cũng nhờ bữa ăn đó Ngài đủ sức khỏe để Ngài nhập thiền 2 triệu 400 ngàn lần. Và bữa ăn của Cunda được xem là công đức tương đương vì nhờ bữa ăn đó Ngài cũng đủ sức để nhập được 2 triệu 400 ngàn lần các tầng thiền định, và cũng từ bữa ăn đó Ngài mới có thể viên tịch niết bàn tức là vô dư y niết bàn. Từ đó gọi là tuyệt đối an lạc tịch tịnh, không còn phải nhọc sức đi hóa độ người này người kia, bị chúng chửi, bị chà đạp, rồi thị phi, rồi dè bỉu, quàng xiên, khổ nhọc. Mệt lắm.

buddha3sqr.jpg
Mình thương Phật mình muốn Phật trụ thế đời đời nhưng mà thật ra mình quên nghĩ tội nghiệp Ngài lắm, mệt lắm. Xuất thân đế vương mà mỗi ngày đi bát nó cho tầm bậy tầm bạ củ sắn, củ khoai gì đó ráng mà nuốt. Nó thương thì nó quì nó lạy, nó ghét thì nó đứng chống nạnh nó chửi từ sáng cho tới chiều. Rồi làm sao? Cũng đứng mà nhịn chứ làm gì? Cho nên quí Phật, muốn Phật trụ thế đời đời nhưng cũng phải thương Phật chứ. Ngài thương chúng sinh Ngài đâu có được cái gì đâu? Đi hoằng pháp không có được cái gì hết, Đức Phật không được một cái gì hết.

Cái hành trình của các Ngài là kèn trống ầm ĩ, nghi trượng gọi là trang nghiêm lắm. Là sao? Các Ngài phải trải qua bao nhiêu thứ. Có nghĩa là các Ngài phải đắc chứng toàn bộ các tầng thiền định xong rồi các Ngài lấy đó làm nền tảng để mà quán chiếu danh sắc, quán chiếu 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới thông qua 12 duyên khởi và từ đó là 4 đế. Và đây là lý do vì đâu mà sau khi thành Phật rồi, Thế Tôn và Chư Phật nói chung, đã nhập 2 triệu 400 ngàn lần các cái tầng thiền vào ra, ra vào, vào ra, ra vào, vào ra. Suốt 2 triệu 400 ngàn lần như vậy sau khi thành Phật, thời gian tích tắc là đã xong. Và trước khi niết bàn đã lập lại một lần nữa chuyện ấy. Có nghĩa là xuất nhập vào ra 2 triệu 400 ngàn lần, chín tầng thiền tất cả, vô sơ thiền ra sơ thiền, nhập nhị thiền ra nhị thiền, nhập tam thiền ra tam thiền, nhập tứ thiền ra tứ thiền sắc giới, nhập vào hư không ra khỏi hư không vô biên, nhập vào thức vô biên ra khỏi thức vô biên, nhập vào vô sở hữu xứ ra khỏi vô sở hữu xứ, nhập vào phi tưởng phi phi tưởng ra khỏi phi tưởng phi phi tưởng, nhập vào diệt thọ tưởng định xuất khỏi diệt thọ tưởng định, nhập vào sơ thiền ra khỏi sơ thiền, nhập vào nhị thiền ra khỏi nhị thiền, nhập vào tam thiền ra tam thiền,... cứ như vậy mà đến 2 triệu 400 ngàn lần sau khi thành Phật và trước khi niết bàn.

Cho nên đây cũng là một trong những cái lý do mà cái bữa ăn của Bà Sujata và cái bữa ăn của ông Cunda có công đức rất lớn. Cái bữa ăn của Bà Sujata là nhờ cái bữa ăn đó mà Bồ tát coi như là thành Phật chứng được hữu dư y niết bàn, chứng được phiền não niết bàn và cũng nhờ bữa ăn đó Ngài đủ sức khỏe để Ngài nhập thiền 2 triệu 400 ngàn lần. Và bữa ăn của Cunda được xem là công đức tương đương vì nhờ bữa ăn đó Ngài cũng đủ sức để nhập được 2 triệu 400 ngàn lần các tầng thiền định, và cũng từ bữa ăn đó Ngài mới có thể viên tịch niết bàn tức là vô dư y niết bàn. Từ đó gọi là tuyệt đối an lạc tịch tịnh, không còn phải nhọc sức đi hóa độ người này người kia, bị chúng chửi, bị chà đạp, rồi thị phi, rồi dè bỉu, quàng xiên, khổ nhọc. Mệt lắm.

Mình thương Phật mình muốn Phật trụ thế đời đời nhưng mà thật ra mình quên nghĩ tội nghiệp Ngài lắm, mệt lắm. Xuất thân đế vương mà mỗi ngày đi bát nó cho tầm bậy tầm bạ củ sắn, củ khoai gì đó ráng mà nuốt. Nó thương thì nó quì nó lạy, nó ghét thì nó đứng chống nạnh nó chửi từ sáng cho tới chiều. Rồi làm sao? Cũng đứng mà nhịn chứ làm gì? Cho nên quí Phật, muốn Phật trụ thế đời đời nhưng cũng phải thương Phật chứ. Ngài thương chúng sinh Ngài đâu có được cái gì đâu? Đi hoằng pháp không có được cái gì hết. Đức Phật không được một cái gì hết.

Trích bài giảng KTC.6.64 Sư Tử Hống
Kalama xin tri ân bạn elteetee ghi chép
======================

Mười trí lực (Dasabalañāṇa), hay mười Như Lai trí lực (Tathāgatabalañāṇa)

1. Trí hiểu nguyên lý và phi nguyên lý (Ṭhānāṭhānañāṇa),
đức Như Lai biết rõ các sự kiện, cái gì có thể xảy ra và cái gì không thể xảy ra.

2. Trí biết quả nghiệp (Kammavipākañāṇa), đức Như Lai biết rõ các hạnh nghiệp của chúng sanh, thiện ác dẫn đến quả dị thục tốt xấu ra sao? Quả trổ mức độ như thế nào?

3. Trí biết đạo lộ mọi sanh thú (Sabbatthagāminīpaṭipadāñāṇa), đức Như Lai biết rõ các sự thực hành là con đường dẫn đến tái sanh trong những cõi vui và cõi khổ, biết rõ hành động đưa đến lợi ích hiện tại, lợi ích tương lai và lợi ích tối thượng.

4. Trí biết bản chất dị biệt (Nānādhātuñāṇa), đức Như Lai biết rõ thế gian có bản chất đa dạng như uẩn sai biệt, xứ sai biệt, và giới sai biệt.

5. Trí biết khuynh hướng dị biệt (Nānādhimuttikañāṇa), đức Như Lai biết rõ sự khác biệt khuynh hướng của chúng sanh, có chúng sanh khuynh hướng hạ liệt, có chúng sanh khuynh hướng cao thượng, chúng sanh đồng khuynh hướng sẽ thuận dòng với nhau, hạ liệt thân cận hạ liệt, cao thượng thân cận cao thượng, dù ở quá khứ hay hiện tại cũng vậy.

6. Trí biết thượng hạ căn (Indriyaparopariyattañāṇa), đức Như Lai biết rõ căn cơ cao thấp của chúng sanh, biết rõ chúng sanh có kiến chấp như vậy tiềm miên như vậy, sở hành như vậy, có căn trì độn, có căn lanh lợi, có tính khó dạy, có tính dễ dạy, có khả năng giác ngộ hay không thể giác ngộ.

7. Trí biết sự nhiễm-tịnh-ly của thiền định (Jhānādisaṅkilesādiñāṇa), đức Như Lai biết rõ sự ô nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất ly của thiền định, nhập định và sự giải thoát.

8. Trí biết tiền kiếp (Pubbenivāsānussatiñāṇa), đức Như Lai có trí nhớ chính xác và nhớ nhiều về các kiếp sống quá khứ, từng nét đại cương và chi tiết đa dạng.

9. Trí biết sự sanh tử (Cutūpapātañāṇa), đức Như Lai với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân ngài thấy rõ sự sống chết của chúng sanh; biết chúng sanh này sanh đến chỗ hèn hạ hoặc cao sang, xấu xí hay xinh đẹp, hạnh phúc hay đau khổ, là do hạnh nghiệp như vậy. Chúng sanh đi đến tùy theo nghiệp.

10. Trí đoạn lậu (Āsavakkhayañāṇa), đức Như Lai tự mình thắng tri vô lậu tâm giải thoát, đoạn tận các lậu hoặc. Ngài biết rõ sự đoạn diệt hoàn toàn các lậu hoặc như vậy.

[M.I.69; A.V.33; Vbh.336]

Kho Tảng Pháp Học - TK Giác Giới
 
THỨC TRI: Thức trong ngữ cảnh Phật học không phải là "kiến thức, tri thức" như tác giả đã viết, mà là nhãn thức, nhĩ thức, ... ý thức, và các cảnh mà 6 căn nhận biết: mặn, ngọt, ... Gõ chữ vijānāti ở mục tìm kiếm ở database của Tam Tạng sẽ thấy.
Tác giả luận theo chữ THỨC nên viết: "Thức tri (vijànàti) tức sự hiểu biết thế gian, là kiến thức, tri thức mang tính học hỏi và tích lũy kinh nghiệm, được trưởng thành trên cơ sở học tập, thu thập, tích lũy và trau dồi kiến thức; sự hiểu biết mang tính nhị nguyên, đi đôi với ngã tưởng, gắn liền với thói quen tham ái và chấp thủ, có công năng chuyển đổi và cải thiện đời sống theo chiều hướng phước báo hữu lậu nhưng không làm sanh khởi đạo lộ xuất thế vì không nhận thức đầy đủ Khổ đế (không hướng đến thắng tri, tuệ tri và liễu tri)."

XIN BỎ "TU" ĐI

Phật Pháp là một lối sống, một lối thực hành – điều này rất nhiều người hiểu. Nhưng, thực tế, ít ai nói “thực hành Phật Pháp, thực hành Giáo Pháp”, mà thường nói “tu tập”, “tu Phật”, hay đơn giản là “tu”. Vậy thì, nói “tu” là sao, và nói như thế có những hệ quả phụ gì?

[1] Nói “tu” là sao?

Từ “tu” vốn dĩ là từ dùng để dịch từ gốc Pali “bhāveti”. Vậy thì dịch như thế có thật chính xác không? Muốn biết chính xác hay không, ta khảo sát ngữ nghĩa của “bhāveti”.

(1.1) Khảo sát “bhāveti” về mặt từ nguyên

“bhāveti” là một Động từ, xuất phát từ ngữ căn “bhū” – ngữ căn này có nghĩa là: tồn tại. “Bhāveti” là Động từ dạng truyền động – có nghĩa là: làm cho cái gì đó tồn tại, tức hiểu nôm na đơn giản là: tạo ra cái gì đó, cái đó chưa có thì làm cho nó có. Trong thực hành Phật Pháp, ta làm cho các phẩm chất tâm thiện xuất hiện, ta làm cho các thiện nghiệp xuất hiện – đó chính là thực chất của cái việc mà ta hay gọi là “tu”, và chẳng những làm cho xuất hiện, ta còn làm cho nó... mạnh thêm, ta củng cố nó. Vậy tóm lại, trong bối cảnh đó, “bhāveti” có thể hiểu là: trau dồi, phát triển. Và thực tế, xuyên suốt các bản dịch tiếng Anh của Ngài Tỳ Kheo Bodhi, Ngài đã dùng cả 2 chữ: cultivate (trau dồi), và develop (phát triển).

(1.2) Khảo sát “bhāveti” từ nguồn Chú Giải

Thống kê bằng công cụ Digital Pali Reader, từ “bhāveti” được tách riêng định nghĩa trong Chú Giải Tam Tạng 10 lần, với các nghĩa nhất quán, điển hình như:

/ bhāvetīti vaḍḍheti = “bhāveti” nghĩa là “tăng trưởng”. Ở đây, “vaḍḍheti” là động từ, có nghĩa: gia tăng, tăng trưởng. (Chú Giải Trường Bộ - Kinh saṅgīti)

/ bhāvetīti vaḍḍheti, attano cittasantāne punappunaṃ janeti abhinibbattetīti = “bhāveti” nghĩa là “tăng trưởng”, “sinh ra”, “tạo ra” hết lần này đến lần khác trong dòng tương tục tâm của bản thân mình. Ở đây, “janeti” và “abhinibbatteti” là hai động từ dạng truyền động, và đều có nghĩa là “sinh ra”, “tạo ra”, “làm cho cái gì đó xuất hiện”... (Chú Giải Trung Bộ - Kinh sabbāsava)

/ bhāvetīti uppādeti vaḍḍheti = “bhāveti” nghĩa là “tạo ra”, “tăng trưởng”. Ở đây, “uppādeti” là động từ truyền động, cũng có nghĩa là “làm cho cái gì đó xuất hiện”. (Chú Giải Tăng Chi Bộ - Phẩm Một Pháp)

Ngoài ra, trong Chú Giải Tam Tạng, từ “bhāveti” còn xuất hiện trong câu với 24 trường hợp, và cũng gợi lên ý nghĩa nhất quán theo lối hiểu như trên, điển hình:

sammādiṭṭhiṃ bhāvetīti aṭṭhaṅgikassa maggassa ādibhūtaṃ sammādiṭṭhiṃ brūheti vaḍḍheti = “phát triển Chánh Kiến” nghĩa là làm tăng lên, làm tăng trưởng Chánh Kiến đã xuất hiện ban đầu của Bát Chánh Đạo. (Chú Giải Tăng Chi Bộ - Phẩm Một Pháp)

asubhasaññaṃ bhāvetīti asubhasaññā vuccati uddhumātakādīsu dasasu ārammaṇesu uppannā paṭhamajjhānasahagatā saññā, taṃ bhāveti brūheti vaḍḍheti, anuppannaṃ uppādeti, uppannaṃ anurakkhatīti = “phát triển Bất Tịnh Tưởng”: Tưởng sinh lên cùng với thiền thứ nhất trong 10 đối tượng (tử thi) trương phình vân vân được gọi là Bất Tịnh Tưởng, vị hành giả phát triển nó, làm nó tăng lên, làm nó tăng trưởng, làm cho Tưởng chưa sinh sinh lên, duy trì Tưởng đã sinh. (Chú Giải Tăng Chi Bộ - Phẩm Một Pháp)

saddhindriyaṃ bhāvetīti paṭhamajjhānasahagataṃ katvā saddhindriyaṃ bhāveti brūheti vaḍḍheti = “phát triển Tín Căn” nghĩa là sau khi tạo ra Tín Căn đi chung với thiền thứ nhất, vị hành giả phát triển nó, làm nó tăng lên, làm nó tăng trưởng. (Chú Giải Tăng Chi Bộ - Phẩm Một Pháp)

buddhānussatiṃ bhāvetīti buddhānussatikammaṭṭhānaṃ brūheti vaḍḍheti = “phát triển Niệm Phật” nghĩa là làm cho đề mục niệm Phật tăng lên, làm cho đề mục niệm Phật tăng trưởng. (Chú Giải Tăng Chi Bộ - Phẩm Sáu Pháp)
***
Tóm lại, phân tích từ gốc Pali “bhāveti” trên 2 phương diện từ nguyên và lối giải thích từ Chú Giải Tam Tạng đều dẫn đến 1 cách hiểu nhất quán: “bhāveti” chính là “phát triển”. Ta có thể gọi nôm na không sợ lệch là “phát triển bản thân mình” – 1 lối hiểu khá “hiện đại”, gần gũi. Vậy thay vì nói “phát triển”, nói là “tu” có chính xác chăng, bởi từ “tu” này là một từ Hán Việt, nên muốn biết điều đó, ta khảo sát nguyên gốc Hán Việt chữ “tu”.

(1.3) Khảo sát từ Hán Việt “tu”


Từ “tu” 修 theo các từ điển Hán Việt uy tín hiện nay có nghĩa như sau:
Theo Từ Điển Thiều Chửu: Sửa, sửa cho hay tốt gọi là tu, như tu thân 修身 sửa mình, tu đức 修德 sửa đức, tu lí cung thất 修理宮室 sửa sang nhà cửa.
Theo Từ Điển Trần Văn Chánh: Sửa chữa, sửa sang, tu sửa: 修車Sửa xe; 修橋補路 Sửa cầu chữa đường;
Theo Từ điển Nguyễn Quốc Hùng: Sửa sang cho tốt đẹp

Vậy, từ “tu” có nghĩa là: sửa. Nhưng như đã phân tích ở trên về từ gốc Pali, “bhāveti” có nghĩa là “phát triển” chứ không phải “sửa”, “sửa chữa”. Khi thực hành Phật Pháp, chúng ta phát triển các phẩm chất tâm thiện, chúng ta làm cho các phẩm chất tâm thiện dồi dào, áp đảo các phẩm chất tâm bất thiện, chúng ta không sửa cái gì được cả, chúng ta không thể sửa “tâm tham” thành tâm “vô tham”, không thể sửa “tâm sân” thành “tâm vô sân”, sân vẫn là sân, tham vẫn là tham, nhưng nếu tâm vô tham, vô sân xuất hiện nhiều, dồi dào, áp đảo tham, sân thì tâm ta được an ổn, an tịnh và biểu hiện thành 1 người tốt. Do đó, từ “tu” là 1 cách chuyển nghĩa thiếu chính xác của từ gốc Pali “bhāveti”.

[2] Nói “tu” có những hệ quả phụ gì?

Do “tu” là 1 cách chuyển nghĩa sai lệch, dẫn đến hiểu sai lệch, cộng thêm với ảnh hưởng từ văn hóa quần chúng, dẫn đến 3 hệ quả phụ sau:
Sự hiểu sai, và thành kiến đối với Phật Pháp từ mấy nghìn năm nay, vì hình dung mơ hồ Phật Pháp là 1 kiểu “tu luyện” như “tu tiên”, “tu tâm dưỡng tánh”, 1 kiểu luyện phép, luyện những cái cao siêu, thần bí, thể nhập vào thánh Không, thể nhập vào Niết Bàn... Đây là tâm lý chung của những người chưa hiểu, hay ít hiểu về Phật Pháp.
Một hiện tượng nữa cũng xuất hiện ở cả một số Phật Tử, đó là hiểu thực hành Phật Pháp là Sửa, phải sửa lại, chỉnh lại mình cho tốt, cho hay. Phải biết rộng rãi, thứ tha, nhẫn nại, hiểu biết... Đó là một lối hiểu ngược, vô tình gây trở lại, bởi vì: rộng rãi, thứ tha, nhẫn nại, hiểu biết... là những cái Quả, và chúng ta không thể mong cầu những cái Quả này, muốn Quả xuất hiện, ta phải tạo ra Nhân, phải phát triển Nhân, làm cho Nhân tăng lên, làm cho Nhân tăng trưởng. Khi tâm vô tham chưa nhiều, mà cứ cố phải thể hiện là rộng rãi, tất sẽ tạo ra trạng thái kềm nén, giả tạo. Và đúng theo tinh thần Đức Phật đã dạy trong Kinh Niệm Xứ: khi ta tham, ta biết là ta tham, khi ta sân, ta biết là ta sân. Đó là cách phát triển phẩm chất Chánh Niệm. Chứ không phải khi ta tham, thì ta ra vẻ là ta không tham, ta rộng rãi, hay ta sân thì ta ra vẻ là ta không sân, ta bao dung rộng lượng.
Góp phần tạo ra 1 tâm lý ngã mạn: “ta tu” đối lập với “người đời”, “người không tu”. Bởi cái chữ “tu” nó đã thành ra biệt lập trong bầu không khí “tu luyện cao siêu”, nghĩ đến “tu” là dễ cảm tưởng đến “tu luyện chi đó ghê gớm”, trong khi nếu nói theo đúng từ gốc Pali là “phát triển bản thân” thì thật là rõ ràng, và dễ hiểu, lại gần gũi.
***
Tóm lại, với những hệ quả không nên ấy, theo thiển ý người viết, ta nên đổi thói quen nói “tu” thành “phát triển bản thân” vừa chính xác, vừa hạn chế bớt những hệ quả trên.
 
NGƯỜI DỄ DẠY

Dễ dạy là trang bị khả năng sẵn sàng đón nhận điều hay lẽ phải từ muôn phương thiên hạ.

Nếu là người xuất gia thì thầy mình, bạn mình, học trò đệ tử của mình nói đúng thì mình phải chấp nhận. Cách đây mới hai hôm tôi có nghe một câu chuyện người thật việc thật, có hai vị trưởng lão tại VN, trong đó có một sư huynh và một sư đệ.

Vị sư đệ bị thị phi và sốc nặng.

Vị sư huynh khi thuyết pháp có kể nhưng không nói tên: “Khi thấy sư đệ khổ quá tôi có nói thế này, nếu mình có làm mà đời nó lôi ra chửi thì quá đúng rồi.

Nếu mình không có làm mà đời đem ra chửi là mình phải mừng, vì mình không có tệ như người ta chửi.” Dĩ nhiên tôi biết trong room nhiều người nghe cái này chịu không nổi, phải cao siêu lắm mới làm được.


Nhưng tôi nói thiệt, ở tuổi 50 này sau bao nhiêu năm làm thầy chùa, tôi tin tôi làm được. Bị thị phi, tôi nghĩ trong lòng, mình có như vậy hay không. Ok, nếu mình tệ như vậy thì phải quá rồi. Phải quá rồi Gấu ơi, em tệ quá như vậy đời nó chửi em là đúng. Nhưng nếu mình không có làm mà người ta chửi mình thì mình phải mừng là mình không có tệ như vậy.

Tôi nhớ câu chuyện về ông Voltaire, biết bao nhiêu bạn bè nói ông xứng đáng trở thành Viện sĩ Viện hàn lâm của Pháp mà sao năm lần bảy lượt ông từ chối. Voltaire trả lời một câu mà tôi mê khủng khiếp: “Tôi thích nghe người ta nói thế này, Voltaire có đủ tư cách làm viện sĩ nhưng Voltaire không làm, hơn là Voltaire làm viện sĩ mà không có tư cách của một viện sĩ.” Ở đây chúng ta thấy rõ ràng, thà mình có đủ tư cách mà mình không được gì hết vẫn hơn là mình được tùm lum mà mình không đủ tư cách, ngày đêm phập phồng thấp thỏm sợ bị phát giác.

Tôi nhớ có viết câu chuyện đùa mà nhiều người hỏi sao tôi ‘đời’ quá vậy:
Đệ tử hỏi sư phụ:
- Người xuất gia có còn tình cảm nam nữ không thưa sư phụ?
- Ồ, đôi khi con ạ, như một kiểu tai nạn vậy mà!
- Nhưng so với cư sĩ thì tình cảm của tu sĩ có gì khác không thưa sư phụ?
Sư phụ gãi đầu, trầm ngâm một lát rồi nhìn quanh nói nhỏ:
- Người như mình thì trong chuyện tình cảm... sợ ĐỔ BỂ nhiều hơn sợ đổ vỡ con ạ!
Tôi rất là tâm đắc câu của sư phụ, cũng như câu của người sư huynh an ủi người sư đệ.


Dễ dạy ở đây nghĩa là người ta nhắc mình mà nhắc tào lao thì coi như người ta đang ho gà, ho đặc trị. Còn như người ta nhắc đúng thì coi như người ta đang chích Penicilline cho mình, đau thiệt nhưng có lợi.

Và ở đây tôi biết tôi nói cái này nhiều người trong room sẽ trề môi nói tôi đạo đức giả nhưng phải chịu thôi không thể không nói, trong trí nhớ của một người đã đi hơn hai phần ba cuộc đời, tôi thấy tất cả những kỷ niệm buồn đối với tôi đều có giá trị hơn kỷ niệm vui. Tất cả những câu nói khó nghe đều có lợi ích hơn là những câu nói dễ nghe.

Những người tôi thương, những vật tôi thích, làm khổ tôi nhiều hơn là cái người tôi ghét, vật tôi không ưa. Lạ lùng như vậy đó kính thưa quí vị. Khổ thay ta chỉ nhận những điều đó khi mà mọi sự đã đi vào quá khứ, đã trở thành dĩ vãng, đã trở thành ngày hôm qua. Còn trước mắt thì em nào cũng khoái ngọt hết.

NGƯỜI MUỐN CÓ KHẢ NĂNG DỄ DẠY LÀ PHẢI CÓ KHẢ NĂNG NHẬN THỨC.
Nhớ rằng, lời đắng dù trúng hay trật vẫn vô hại không nguy hiểm, còn ngọt dù trúng hay trật cũng đều nguy hiểm. Hãy nhớ câu thần chú đó. Chỉ có ngọt mới làm hư răng, khen đúng khen trật gì cũng nguy hiểm hết. Tiểu đường sinh lý thì có thể xài insulin chứ tiểu đường tâm lý thì hết thuốc chữa.
 
NGƯỜI KHÓ DẠY

Mình bị tiểu đường thì phải kiêng ăn ngọt, cao máu phải kiêng ăn mặn, bị dư cholesterol phải kiêng dầu mỡ, chất béo… nhiều và nhiều lắm, bệnh là phải kiêng, bị một chứng bệnh là phải kiêng một mớ, răng giả thì phải kiêng ăn đồ cứng, không răng thì phải kiêng ăn đồ cần nhai.

Trong đời này người mình có thể học có nhiều lắm, dù đó là người mình coi không ra gì, cũng rất có thể họ có cái gì đó để trao cho mình. Nhưng khổ thay, thể tạng của mình có cho phép mình đón nhận lấy những cái hay của trời đất hay không? Não trạng, tâm trạng, thể trạng của mình có cho phép hay không?

Khó dạy là gì?
Khó dạy là nội tâm của mình có quá nhiều vấn đề, mình không có khả năng tiếp nhận nguồn dinh dưỡng tâm linh từ người khác, Đức Phật gọi đó là khó dạy.


Khi quí vị bị tiểu đường tâm lý (mental diabet), tâm khoái ngọt, đi nghe pháp mà nghe ông Sư mắng xối xả là vọt mất rồi, hoặc nghe chọt trúng chỗ nhột là không muốn nghe nữa. Thời Đức Phật có biết bao nhiêu người né Đức Phật, tránh Đức Phật, vì ngại dù họ nghe đồn thôi.

Chẳng hạn có bà hoàng hậu nghe nói Đức Phật không có hảo cảm với những giai nhân mỹ nữ, Ngài hay nói đến những khía cạnh tiêu cực, mặt trái. Ví dụ khi Ngài giảng xả ly, buông bỏ, giảng bất tịnh: tóc, lông, móng, răng, da, mật, đàm, mủ, máu… Ngài nói thân này là túi bằng da đựng nguyên đống bất tịnh bên trong. Họ nghe mà thấy ớn, với não trạng như vậy họ đã lìa xa Đức Phật, lìa xa cơ hội gặp gỡ bậc đại hiền thánh.


Người con gái khuê môn kín cổng là tốt, càng treo giá ngọc càng cao phẩm người, nhưng trong vấn đề tâm linh mà khuê môn kín cổng là xấu, càng khép cửa đóng khung kiểu ‘trinh nữ tâm linh’ là DỐT suốt đời.

Chư Phật ra đời mà mình có cái não trạng khuê môn kín cổng là không được.

Bởi vì Đức Phật dạy rằng: Này các tỳ kheo, chúng sanh trong đời giống như người bị lọt sình, có kẻ ngập sình tới mắc cá ta cứu được, tới đầu gối ta cứu được, tới thắt lưng ta cứu được, ngập tới cổ ta cứu được, ngập cả đầu ló lên búi tóc ta cứu được. Nhưng này các tỳ kheo, có kẻ lọt xuống hố sình mà không ló lên cái gì để Như Lai nắm kéo, ta gọi đó là người vô duyên trong giáo pháp này.


Nghĩa là mình không có khả năng tiếp nhận, cứ đóng cửa thì chư Phật ra đời nắm chỗ nào? Ít ra là khi mình muốn các ngài lôi mình lên thì mình phải có cái gì ló lên chứ. Những ngài như Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất cũng đứng dưới sình nhưng tới mắt cá thôi. Khỏi nói rồi, Đức Phật giúp rất dễ, Ngài chỉ nhắc nhẹ là xong. Một số người ngập lên tới đầu gối, tới bắp vế, tới thắt lưng… Nhưng Ngài dạy ló lên búi tóc là Ngài còn cứu được, chỉ cần Ngài thấy họ có chút duyên lành gì đó thì dù kiếp này họ không đắc dưới sự hướng dẫn của Ngài nhưng ít ra cũng đủ duyên để Ngài tiếp cho một nguồn nội lực. Đằng này, họ không có cả phước duyên này là thua.

Muốn hiểu được hiền thánh thì phải có password của hiền thánh, phải có chỗ tương thông tương đồng với hiền thánh thì mới có thể bước vào dù ở hàng rào của hiền thánh. Bờ rào mà chưa chạm tới thì làm sao vào bên trong để học hỏi.
Tôi luôn luôn tâm niệm: Con sẽ sống như thế nào để có được password của chư hiền thánh, các ngài chỉ cần đi thoáng qua ngang con thôi là con lập tức biết đó là chỗ con tìm về. Chỉ cần con nghe cái mùi của tà sư ngoại đạo là con biết con tránh.

Không có khả năng đó thì gọi là người khó dạy
.

Nói chung là cơ thể sinh lý của mình y như tâm lý của mình vậy. Khả năng đón nhận của mình càng ít thì chúng ta càng lỡ dịp học hỏi và tiếp nhận cái hay của trời đất.

- Người khó dạy là người luôn luôn khép chặt cửa lòng.
- Khó dạy là người không có khả năng đón nhận điều hay điều phải từ thiên hạ.


Cái đầu của mình vốn dĩ là cái thùng rác, một cái ao tù, cần phải được thay đổi luân phiên xê dịch, gột rửa. Thùng rác mà không được chạm tay tới thì muôn thuở đầy rác. Một cái ao không có lưu thông nước thì muôn thuở là ao tù. Phải dọn thì mới sạch được. Người phụ nữ có cái tủ lớn đựng áo quần, tủ nhỏ đựng mỹ phẩm nữ trang, nếu hai cái đó mà đựng toàn đồ rẻ tiền, đồ cũ xì, đồ không dùng nữa thì còn đâu chỗ trống để rước đồ xịn, đồ mới đồ đắt tiền. Muốn rước đồ ngon lành về thì dọn cái tủ nhỏ và tủ lớn cho sạch sẽ trống trải.

- Người khó dạy là người luôn luôn chăm bẵm tâm đắc với cái mình có, không chịu mở cửa lòng ra để mà đón nhận cái hay, đón nhận nắng gió muôn phương.
 

Có thể bạn quan tâm

Top