• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Kinh Nghiệm Học Phật - Vấn đáp Phật Pháp

PHẬT PHÁP CHỈ DÀNH CHO NGƯỜI BIẾT CHÁN SỢ SINH TỬ.


Chỉ vậy thôi,

Không có biết chán sợ sanh tử thì Phật Pháp nầy tôi năn nỉ đừng có rớ tới là vì ba lý do :


1️⃣

Không có chán sợ sanh tử thì mình không có chấp nhận nỗi lời Phật bởi vì Phật xúi mình đi ra mà.
Mình chấp nhận không có nỗi.

2️⃣

Không chán sợ sanh tử thì có nghĩa là mình đang Mê.
Nếu mình còn Mê thì tại sao mình lại đúc cái đầu vô cái con đường lìa bỏ làm chi.

3️⃣

Cái lý tưởng Phật Pháp đi ngược lại cái đời sống của mình thì tại sao mình ngu dại gì mình đúc cái đầu vô trong đó.

Vì thế, Phật Pháp chỉ dành cho một hạng người duy nhất là biết CHÁN SỢ SANH TỬ.
Kẻ nào còn cầu mong hưởng phúc Nhân Thiên, còn mong được hưởng cái trăng thanh gió mát là kẻ đó chưa có phải là cầu đạo Giải Thoát.
Phải thấy một phút hít thở của La Hán cũng là Khổ thì mới thật sự chán sợ sanh tử ...!!!


Gớm như vậy đó,
Phải đến mức như vậy.
Cái một phút hít thở của La Hán chứ không phải của mình nha, một phút thôi cũng là Khổ thì mới thật sự là chán sợ sinh tử. Còn thấy mình còn muốn được cái nầy, cái kia là Chết.

Và tôi đã nói cái cuối cùng, mình thấy một phút mà hít thở của vị La Hán có gì đâu.
Hít với thở thôi đâu có gì mà thơm ngon, béo ngọt, bùi giòn gì đâu ...
Nhưng mà hễ còn có mặt là còn Khổ nha.

Đức Phật dùng hình ảnh nầy nè :

● Ngài nói giống như phân người dầu cho nó là một đống lớn hay nó chỉ dính một miếng nhỏ xíu trên đầu cây que thì lúc nào nó cũng là phân, lúc nào cũng đáng gớm.

● Dầu nó là một đống lớn hay chỉ là một miếng ở đầu que gỗ thì phân ở đâu cũng là phân.

● Ngài nói bất cứ hình thức hiện hữu nào, dầu thô hay là tế đến mấy thì cũng đều là đáng chán, đáng sợ hết.


Cái người không hiểu Đạo, không học Giáo Lý, không hành Tứ Niệm Xứ thì không có tin được cái chỗ nầy.

Các vị rất là ngạc nhiên là tại sao Đức Phật Ngài nói về cái chuyện sanh tử, cái chuyện có mặt ở đời này bằng cách nói rất là khắc khe, nghiêm túc như vậy.

Các vị phải thấy biết như vậy thì các vị mới thấy Ngài nói đúng.

Các vị thử tưởng tượng đi, cái này tôi đang nói kiểu thường thức dành cho người dốt đặc không có biết gì hết nè.
Trong một ngày, cái Tâm ác và Tâm thiện của quý vị cái nào nhiều hơn ...?!

Chắc chắn là Tâm ác nhiều hơn Tâm thiện rồi từ đó suy ra bước ra ngoài đời nhắm mắt quơ tay toàn là người xấu nhiều hơn người thiện không à.
Tại vì bản thân đã là xấu.

Các vị tưởng tượng đi, mình xấu mà chung quanh mình toàn là người xấu thì hỏi quý vị vậy có cơ hội nào để mà mình làm thiện không.
Rất hiếm.
Toàn là chuyện tầm bậy không.

● Bây giờ, các vị có nhan sắc một chút, có tiền một chút, có sức khỏe một chút, có tuổi trẻ một chút thì thử hỏi các vị cái tâm tình nào mà các vị tìm đến với Phật Pháp ...?!

Làm ơn trung thực, làm ơn chân thành với lòng mình một chút đi.
Bây giờ các vị có tiền, có sức khỏe, có nhan sắc, có tuổi trẻ, có uy tín quyền lực, có chức vụ, đặc biệt là có tình cảm nam nữ đang mùa yêu thì hỏi có bao nhiêu kẻ chịu đến để mà nghe đạo ...?


Nhưng mà các vị chán đời, sợ khổ nên trong cái room nào giảng cũng nhào vô nghe không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, nghe được cái gì bỏ túi bao nhiêu hay bấy nhiêu.

● Cho nên cái đạo này, là dành cho cái người Ly Tham, dành cho những người muốn Tịch Diệt, dành cho những người chán sợ Sanh Tử.

Ác nhiều bao nhiêu thì khổ nhiều bấy nhiêu.

Khi nào, cơ hội làm ác nó nhiều hơn cơ hội làm thiện thì cái cơ hội Đọa lớn hơn cái cơ hội sanh về Nhân Thiên.
Cái cơ hội làm giun, làm trùn, làm dòi, làm bọ nó lớn lắm.

Còn cái chuyện mình quay trở lại mình làm nam thanh nữ tú, tài tử giai nhân, đủ ăn đủ mặt, có học, có tiền, có nhan sắc, có sức khỏe, rồi có tình yêu, có quyền lực, có chức vụ ....


Tôi xin hứa với các vị cái chuyện đó nó hiếm dữ lắm.
Hiếm lắm ...
 
Sửa lần cuối:
BẠN LÀNH

Tất cả những người nào mình thường xuyên gặp gỡ thì đó là thầy bạn của mình; những đề tài suy nghĩ nào quẩn quanh trong đầu mình thì đó cũng là thầy bạn của mình. Trong điều kiện thế giới hôm nay có internet, báo chí, sách vở, cho dù mình đóng cửa không gặp ai nhưng mình cứ vùi đầu vào trong những thứ đó cũng gọi là mình đang có một số bạn bè.

Nếu là những cuốn sách bài báo, websites hay thì đó là bạn lành, còn nếu là những trang web, bài báo tin tức tầm bậy thì đó là những người bạn xấu. Phải nhìn nhận rằng cái gì mình gần gũi, mình thường xuyên tiếp xúc liên lạc nhất, thì đó chính là người bạn của mình.

Người bạn nào mình thường xuyên tiếp xúc gần gũi mà lòng lành, thiện pháp, đạo tâm của mình phát triển thì đó được gọi là bạn lành, minh sư, thiện hữu. Còn cái gì mình càng tiếp xúc mà con người mình càng bệ rạc, hư đốn thì gọi là bạn xấu, thầy xấu.
Muốn có bạn lành mình phải là người lành, mình mới có khả năng nhận thức được người lành; khi mình không phải là người lành người thiện thì mình không nghĩ đến chuyện gần người thiện, không tha thiết không mặn mà với người thiện và có gặp họ mình không biết vì không cùng tần số.

Phải có khả năng liên thông với hiền thánh, mưa trên trời rơi xuống không phân biệt nơi chốn nhưng không phải chỗ nào cũng đón nhận lợi ích từ cơn mưa, sân xi măng hay tấm bạt thì sẽ khô đi sau đó, nhưng cơn mưa đổ xuống một miếng đất đã dọn sạch cỏ, đã gieo trồng hạt giống, thì mưa xuống là vô cùng lợi lạc.

Nếu mình chưa dọn lòng thì mưa pháp trút xuống cũng như không, có gặp hiền trí thì mình cũng như muỗng trong nồi canh.

Trích Tương Ưng Bộ Kinh tập 1
 
NHÂN QUẢ TỰ NHIÊN VÀ NGHIỆP BÁO
Hỏi: Thưa Thầy, không có gì là ta trên thế giới này, vậy thân không phải là ta thì ai thọ nhận nhân quả ạ?

Trả lời :

Có 2 loại Nhân quả


- [ ] Nhân quả tự nhiên như cái cây, mưa nằng hay tất cả mọi thứ đều ở trong nhân quả tự nhiên đó. Cho nên dù cái cây không chấp ngã gì cả thì nó vẫn đi theo nhân quả của nó. Trời mưa trời nắng, không có bản ngã nhưng vẫn đi theo nhân quả của nó. Nhân quả tự nhien đó là sự vận hành của pháp.

- [ ] Còn bản ngã mới tạo nghiệp. Cái ảo tưởng của ngã mới tạo ra nghiệp, chính cái tạo ra nghiệp đó mới chịu một cái nhân quả được gọi là nghiệp báo.
- [ ] Nhân quả tự nhiên là khác.
- [ ] Nhân quả nghiệp báo là khác.
- [ ] Cái bản ngã chịu nhân quả nghiệp báo thôi nên khi hoàn toàn vô ngã thì khi đó nó chỉ vận hành theo nhân quả tự nhiên của pháp.

Ví như có 3 người trồng xoài, hoàn toàn giống nhau về giống xoài, đất trồng, chế độ chăm sóc, thời gian.
Đến mùa thu hoạch thì cả 3 người đều có số xoài tương đương nhau - đó là nhân quả tự nhiên.
Nhưng 3 người này có 3 ý đồ khác nhau.

1 người trồng để tiêu khiển, không quan tâm tới chuyện có trái hay không có trái.
1 người trồng thì để kiếm tiền, để xây nhà ...
1 người trồng với ý là có trái thì ai đến muốn hái thỉ hái, ông thích trồng ra để mọi người tới hái.

Thế rồi có một nhóm học sinh tới nghịch ngợm hái xoài sạch trơn. Lúc đó 3 người có 3 phản ứng khác nhau.

1 người thì không quan tâm nên tâm vẫn bình thường.
1 người thì mừng vì có học sinh tới hái.
1 người thì đau khổ vì xoài hết rồi lấy đâu ra tiền để làm các việc.

Do đó, 3 ý của mỗi người thì khác nhưng số xoài vẫn giống nhau.

Tức nhân quả tự nhiên giống nhau nhưng nhăn quả trong ý đồ của mỗi người khác nhau.
Vậy, một người không còn bản ngã thì không còn nhân quả nghiệp báo nhưng vẫn còn nhân quả tự nhiên.
( ghi lại từ trà đạo Sư Ông Viên Minh)
 
YÊU THƯƠNG KHÔNG VẤN VƯƠNG

Hỏi:
Ông có thương người này hơn người khác không? Dầu sao đã là người, ông nhứt định phải có những điều ưa thích thân sơ khác nhau chớ?

JK: Tình thương riêng tư không có ở tôi. Ở tôi, tình thương là một trạng thái thường xuyên. Dầu tôi ngồi đây với anh, với em ruột tôi, hay với một người xa lạ nào khác, tôi vẫn chung một niềm ưu ái như nhau. Đôi khi có người cho rằng tôi nguội lạnh và hời hợt, rằng tình thương của tôi tiêu cực và yếu quá, chỉ đủ riêng cho một người thôi. Nhưng đó phải đâu là sự dửng dưng, mà chính là một niềm ưu ái luôn luôn nằm ở trong tôi, và tôi cũng không thể nào cản ngăn được, không cho nó đi đến với bất cứ ai có dịp gần tôi.

Nhiều người đã giận dữ khi bà Besant mất, họ thấy tôi không khóc, hoặc tỏ vẻ đau đớn gì, đã vậy còn tỉnh bơ nữa. Tôi cứ tiếp tục cuộc sống bình thường, họ cho là tôi mất hết nhơn tính. Làm sao cắt nghĩa cho họ hiểu được rằng tình thương của tôi là dành cho tất cả, đâu có thể vì cái chết của một người mà phải xao động, dầu người ấy là bà Besant. Không một khổ đau nào xâm chiếm được anh một khi tình thương đã trở thành căn bản cho toàn thể con người anh.

Hỏi:
Đành vậy, nhưng trong đời ông, và đối với những người nào đó, ít nhứt có lúc ông cũng dửng dưng, hoặc không thương yêu gì chớ?

JK: Không, điều ấy không có. Anh thấy đó chớ: nào phải tự ý tôi hướng tình thương đến cho một người nào, kẻ nhiều người ít, mà chính tình thương ấy "trụ" hẳn ở tôi, và bất cứ trong khi tôi đang làm gì. Tình thương lúc nào cũng có ở tôi, nhứt định vậy, cả đến khi tôi đứng giữa đám người xa lạ mà "lẽ ra" tôi chẳng phải thương yêu gì. Có nhiều khi tôi bị kẹt giữa đám đông toàn là người chưa từng quen biết, như trong các buổi hội, diễn thuyết, hoặc ở sân ga ồn ào, đầy khói và mùi thuốc lá, đủ thứ bực mình. Cả đến trong những lúc ấy, tình thương của tôi đối với tất cả vẫn mạnh như hiện giờ, dưới bầu trời đẹp này, nơi khu rừng êm ả nầy.

Có người cho là tôi hợm mình hoặc giả dối khi nghe tôi nói không một đau buồn khổ sở nào, cả đến sự chết chóc, có thể lay chuyển được tôi. Có phải là tôi kiêu hãnh đâu. Tôi thương là tôi thương, tự nhiên vậy, tự nhiên đến nỗi lúc nào tôi cũng lấy làm lạ sao có người lại đâm ngờ được. Mà sự hòa đồng ấy không những tôi chung cảm với mọi người, mà còn lan rộng đến cỏ cây, đến biển cả, đến toàn thể thế giới bao quanh tôi, không còn phân biệt một hình thể sai khác nào nữa. Điều đó quyết chẳng phải là trò thơ mộng vẽ vời đâu. Tôi nói thật cả đó.

Không có mô tả ảnh.
 
HIỂU VÀ THƯƠNG

Đừng nhầm lẫn giữa yêu thương và TỪ BI. Yêu thương là thiện pháp, nhưng TỪ BI là thấu tỏ. Thấu tỏ thì mới cảm thông và không tham, sân.

Yêu thương đôi khi xuất phát từ ác pháp do sự đồng hóa cảm xúc, như một người bị tổn thương nên cảm thấy yêu thương những người đồng cảnh ngộ. Yêu thương đôi khi là nhân của ác pháp, như vì quá yêu thương nên sinh thù hận.

TỪ BI là trí tuệ là thấu tỏ nên cảm thông với mọi đúng - sai, phải - trái trên đời, do đó không hại mình hại người.
TỪ BI là thấy sự hoàn hảo trong sự vận hành tự nhiên của pháp, nên không còn muốn can thiệp theo bất kì ý muốn chủ quan nào nữa...


~ Thầy Viên Minh
 
CHÁNH NIỆM THEO QUAN NIỆM THẾ TỤC TRONG ĐỜI SỐNG

Chánh niệm là gì?


Chánh niệm là thực hành nhận thức một cách đầy đủ và không phán xét về khoảnh khắc hiện tại — thay vì ở lại trong quá khứ hoặc phóng chiếu vào tương lai. Phương pháp này thường liên quan đến việc nhận thức sâu hơn về các kích thích cảm giác (nhận biết hơi thở của bạn, cảm nhận cảm giác của cơ thể, v.v.) và hiện diện trong "hiện tại".

Dù chánh niệm có nguồn gốc từ triết học phương Đông và Phật giáo, không có yếu tố tôn giáo nào là bắt buộc trong chánh niệm. Bất kỳ ai với bất kỳ niềm tin tôn giáo nào đều có thể thực hành và nhận được những lợi ích từ chánh niệm.

Bạn có phù hợp với chánh niệm?

Nếu bạn có một số dấu hiệu dưới đây, điều đó cho thấy thực hành chánh niệm có thể sẽ phù hợp và giúp ích cho cuộc sống của bạn:

• Bạn đang vật lộn với cảm giác lo âu hoặc trầm cảm.
• Bạn cảm thấy dễ bị sao nhãng hoặc khó tập trung.
• Bạn cảm thấy căng thẳng.
• Bạn gặp khó để rèn luyện lòng trắc ẩn.
• Bạn đang gặp khó khăn với việc ăn quá mức hoặc thường xuyên ăn vặt.
• Bạn có xu hướng tập trung vào những cảm xúc tiêu cực.
• Mối quan hệ của bạn với những người khác không thân thiết hay bền chặt như bạn mong muốn.

Các kiểu chánh niệm

Có những hình thức thiền chánh niệm và các biện pháp can thiệp dựa trên chánh niệm (mindfulness-based interventions) khác nhau. Bao gồm:


• Thiền quán sát toàn thân (Body scan meditation)
• Thiền thở (Breathing meditation)
• Thiền từ bi (Loving-kindness meditation)
• Thiền quán tưởng (Observing-thought meditation)

Cũng có các lựa chọn trị liệu kết hợp thực hành chánh niệm bao gồm:

• Liệu pháp chấp nhận và cam kết (ACT)
• Liệu pháp hành vi biện chứng (DBT)
• Trị liệu nghệ thuật dựa trên chánh niệm (MBAT)
• Trị liệu nhận thức dựa trên chánh niệm (MBCT)
• Quản lý cơn đau dựa trên chánh niệm (MBPM)
• Giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MSBR)

Thực hành chánh niệm như thế nào?

Chánh niệm có thể thực hiện qua thiền định, nhưng chúng ta cũng có thể thực hành chánh niệm thông qua các hoạt động thường ngày. Tập trung vào khoảnh khắc hiện tại và tạm dừng những đối thoại nội tâm có thể giúp bạn đạt được chánh niệm.

Dưới đây là một số cách mà bạn có thể thực hành chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày của mình:
• Chú ý:
Dành thời gian để chú tâm đến mọi thứ trong thế giới xung quanh bạn, bao gồm cả cảm xúc, giác quan và suy nghĩ của bạn. Tập trung vào việc sống chậm lại và tận hưởng những điều bạn đang trải nghiệm.

• Tập trung vào hiện tại: Thay vì nghĩ về quá khứ hoặc lo lắng về tương lai, hãy cố gắng tiếp nhận những gì đang xảy ra ngay trước mắt bạn. Hiện diện trong khoảnh khắc hiện tại có thể giúp bạn cảm thấy tỉnh táo và nhận định rõ tình hình hơn.

• Thiền chánh niệm: Thường xuyên thực hành thiền chánh niệm sẽ có lợi cho sức khỏe thể chất cũng như tinh thần của bạn.
Đối với những người có xu hướng dễ cảm thấy "khó chịu" khi thiền định (đừng lo, bạn không đơn độc), có những cách khác để dễ dàng thực hành chánh niệm. Ví dụ như làm vườn, nghe nhạc, và thậm chí dọn dẹp nhà cửa có thể trở thành một phương cách thực hành chánh niệm nếu bạn có cách tiếp cận đúng đắn.

Tập trung vào thời điểm hiện tại và tạm dừng những tiếng nói nội tâm — tiếng nói thường bình luận sôi nổi về những gì bạn đang, đã và sẽ làm. Mục tiêu không phải là làm im lặng những gì đang xảy ra trong tâm trí bạn. Thay vào đó, hãy quan sát những suy nghĩ của bạn mà không phán xét và nhẹ nhàng đưa sự tập trung của bạn trở lại hiện tại khi bạn nhận thấy tâm trí mình đang lang thang.

Tác động của chánh niệm
Khi các phương pháp thực hành phương Đông trở nên phổ biến hơn ở phương Tây, chánh niệm đã được kết hợp với liệu pháp nhận thức. Các nghiên cứu cho thấy kết quả rất hứa hẹn của chánh niệm trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Trong đó, thực hành chánh niệm, liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (MBCT) và giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR) đều được chứng minh là hữu ích đối với những vấn đề sau đây:

Rối loạn lo âu

Những người bị rối loạn lo âu, bao gồm rối loạn lo âu toàn thể (GAD), có thể giảm đáng kể các triệu chứng lo âu và trầm cảm sau khi can thiệp dựa trên chánh niệm. Chánh niệm cũng có thể được sử dụng để giảm lo âu về tương lai. Phương pháp này có thể giúp bạn thoát khỏi những suy nghĩ gây căng thẳng, cho phép tinh thần bạn nghỉ ngơi và có những cách nhìn khác về vấn đề.

Trầm cảm

Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng sau giai đoạn trầm cảm, những người vẫn trải qua các triệu chứng trầm cảm còn sót lại đã giảm các triệu chứng này khi can thiệp dựa trên chánh niệm, và có nhiều cải thiện trong một tháng sau đó.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chánh niệm có thể hữu ích trong việc giảm các suy nghĩ gây căng thẳng và giúp mọi người tránh chìm trong những suy nghĩ tiêu cực.

Các vấn đề về mối quan hệ

Một nghiên cứu cho thấy những người thể hiện các đặc điểm chánh niệm có xu hướng tận hưởng sự hài lòng cao hơn trong mối quan hệ và đối phó với các căng thẳng bằng một cách xây dựng hơn.
Nghiên cứu cũng cho thấy những người thực hành chánh niệm có phản ứng căng thẳng thấp hơn với xung đột, và giao tiếp tốt hơn trong cuộc xung đột. Cả hai nghiên cứu trên đều chỉ ra mối liên kết giữa chánh niệm với sự hạnh phúc trong các mối quan hệ.

Rối loạn ăn uống

Một nghiên cứu cho thấy các biện pháp can thiệp dựa trên chánh niệm có thể đem lại hiệu quả trong việc định hướng mục tiêu hành vi ăn uống, đối với cả vấn đề ăn theo cảm xúc (emotional eating) và ăn vô độ (binge eating).

Kiểm soát căng thẳng

Các nghiên cứu cũng đã phát hiện ra rằng chánh niệm rất hữu ích đối với những căng thẳng, dù là stress hàng ngày hay stress nghiêm trọng ở những người mắc bệnh mãn tính hoặc bệnh đe dọa tính mạng. Ví dụ, nghiên cứu cho thấy MBSR có thể có hiệu quả trong việc cải thiện sức khỏe tâm lý của người bệnh ung thư vú.
Thực hành chánh niệm đã được chứng minh là có những tác động tích cực lâu dài và tăng dần lên khi thực hành.

Lời khuyên

Học cách kết hợp chánh niệm vào cuộc sống hàng ngày không phải lúc nào cũng dễ dàng. Có thể bạn sẽ mất một thời gian để luyện tập việc học cách sống chậm lại và sống đúng với hiện tại.

Hãy thử một số mẹo dưới đây để thực hành chánh niệm dễ dàng hơn:

Hãy thử sử dụng một ứng dụng. Nếu bạn chưa quen với việc thực hành chánh niệm, việc sử dụng một ứng dụng với các thông tin, tài nguyên và phương pháp thực hành có hướng dẫn có thể sẽ hữu ích khi mới bắt đầu.

Tập trung vào một việc tại một thời điểm. Làm nhiều việc cùng một lúc có thể khiến bạn dễ mất tập trung, vì vậy hãy thử chỉ tập trung vào một nhiệm vụ với toàn bộ sự chú ý và tập trung của bạn.

• Đi dạo. Dành thời gian để có một buổi đi dạo nhẹ nhàng ở ngoài trời là một cách tuyệt vời để sống trong hiện tại. Hãy đi dạo và quan sát khung cảnh, âm thanh và cảm giác của thế giới xung quanh bạn.
 
KHI ĐÃ CHỌN CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI
(Trích bài giảng Vô Minh và Ái Dục)

Hỏi:

- Thưa Sư, Sư nói là một đêm Sư ngủ chỉ hai ba tiếng, nhưng theo khoa học nói nếu loài người mà ngủ một ngày không đủ 8 tiếng thì đầu óc mình sẽ mụ mị; ngủ không đủ tám tiếng một đêm thì mình sanh ra bệnh. Con bối rối không hiểu cái nào là đúng cái nào là sai.

Đáp:

Có hai con đường, tục đế và chân đế, con đường hiệp thế, con đường siêu thế. Khi một Bồ tát nhìn thấy cái thân này là giả tạm này thì không dính mắc đeo níu cho lâu dài. Có như thế thì cứ thế mà dùng, hết thời gian thì thôi không dính mắc. Bồ tát xác định mình đi trên con đường như vậy, vượt ngoài khoa học, vượt ngoài hiệp thế của thế gian

Còn trên con đường hiệp thế, con đường khoa học thì phải nuôi dưỡng. Quí vị thấy có hai loại người dùng xe. Dùng xe dung dưỡng thì có xe xài lâu dài. Xài quá mà không dung dưỡng thì xe mau hư cũ và liệng. Muốn dùng lâu dài thì chúng ta phải săn sóc, dính mắc, đeo đuổi và lo lắng cho nó mãi. Còn như chúng ta dùng nó khi cần rồi ra đi, không dính mắc thì trạng thái đó là không muốn, không cần lâu dài.

Trên con đường Sư nguyện thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác thì Sư phải trải qua 20 a-tăng-kỳ, chia ba giai đoạn, nguyện trong tâm 7 a-tăng-kỳ, nói ra lời 9 a-tăng-kỳ và được Phật thọ ký là 4 a-tăng-kỳ. Hôm nay Sư đã nguyện được ra lời. Hạnh nguyện trở thành bậc Chánh Đẳng Giác là sư đã qua được 7 a-tăng-kỳ trong tâm, và 9 a-tăng-kỳ hôm nay nói ra lời, Sư chỉ còn 4 a-tăng-kỳ nữa là Sư thành tựu viên mãn Niyatabodhisatta (Bồ tát vĩnh cửu). Sư đâu có bận tâm lo lắng săn sóc chiếc xe cũ kỹ này mãi. Nếu một người sống trăm năm thì cũng là một kiếp. Một a-tăng-kỳ tính từng kiếp, nếu một kiếp của sư là 35 năm, một kiếp của sư là 27 năm, một kiếp của Sư là 36 năm, nhiều ít cũng là một kiếp thì Sư cộng lại là một trăm năm Sư được ba kiếp, Sư đi nhanh hơn, và thành tựu lẹ hơn. Do đó, Sư dùng những gì Sư đang có để nắm bắt tới thành đạt đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác, chớ sư không nuôi dưỡng kéo dài trong trạng thái trôi lăn mà có khi sự cám dỗ lấn áp lôi ngược trở lại khi trí tuệ chưa đủ sắc bén nếu sư chưa là Niyatabodhisatta.

Xưa kia ngài Xá Lợi Phất nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng ngài chưa tới giai đoạn Niyatabodhisatta. Trong một kiếp ngài nguyện xả thí ba-la-mật của bậc Chánh Đẳng Giác. Chư thiên trên trời xuống thử ngài. Ngài móc mắt ra cho. Họ quăng xuống chà đạp. Ngài không hoan hỉ, ngài cắt bỏ lời nguyện đó. Ngài nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác mà hôm nay ngài trở thành chí thượng Thanh văn của Đức Phật mình. Rớt hạnh nguyện. Vì sao? Vì khi chúng ta chưa đủ nghị lực, chưa đủ chánh niệm, chưa đủ tâm niệm chúng ta vẫn rớt như thường. Sư cũng không ngoại lệ. Do đó, sư thúc ép để diệt ái, để chấm dứt dục.

Tuổi thanh xuân Sư chưa có gia đình, với tuổi trẻ đó, nếu ăn no ngủ kỹ khó mà diệt dục. Trên lý tưởng khoa học, Libido tăng trưởng, làm sao chúng ta qua được sự mộng tinh, làm sao qua được việc lu nước đầy thì sẽ tràn. Do đó, trên con đường tu học của Sư không cho phép Sư ăn đồ bổ. Chưa bao giờ Sư ăn chuối. Potassium là cần có, nhưng “ăn chúi là nó nhũi” (cười). Do đó Sư không bây giờ ăn chuối. Bác sĩ nói mỗi ngày ăn một trái táo là xa rời bác sĩ, chưa bao giờ Sư ăn táo. Những cái đó là Sư phải diệt.

Ngài Tịnh Sự thầy của Sư nấu cơm xong, lấy cơm ra bỏ vô cái vải mùng vắt hết, vắt nước ba lần bốn lượt, nước ngọt ra hết, còn lại cái bả mới dùng. Ngủ là lấy cà phê uống. Đói lấy chuối và bánh tráng chấm với sữa sống để mà ăn, để mà diệt. Đó là con đường phải tu tập. Chiến thắng ái dục, sự đòi hỏi của cám dỗ, khó lắm. Tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống, sắc đẹp hiện hữu, tài sản của gia đình sư cũng đang có mà Sư gác bỏ ra đi tu tập. Bao nhiêu là sự cám dỗ! Và đến ngày hôm nay, ngồi tại đây chưa phải là xong, 70 tuổi chưa biết mình lành.

Do đó, diệt dục là điều quan trọng. Ngủ ít mới chấm dứt được cái dục. Ăn no ngủ kỹ là tăng trưởng dục, không bao giờ thắng được giặc Dục. Chiến thắng ngàn ngàn quân giặc không bằng chiến thắng chính mình, đó là chiến thắng tối thượng, Đức Phật nói rõ như vậy. Đồ ăn là dục, đồ ngủ là ái, ái dục đòi hỏi, ta không chiến thắng được nó sao gọi là giải thoát. Ta chưa giải thoát được làm sao ta nói ta độ chúng sanh vào con đường giải thoát. Ta còn nghiện ngập, ta còn dính mắc, ta còn tham đắm, mà ta nói giải thoát tham sân si thì đó là lý tưởng trên lý thuyết, chỉ nói suông mà thôi, năng thuyết bất năng hành.

Sư đã trao đổi rất nhiều những bậc tôn túc trí giả, các ngài đều phải như vậy cả. Ngài Tịnh Sư khi còn sống nặng 32 ký lô, và khi ngài chết là 28 kg. Sư bồng lên nhẹ bẫng. Khi Sư đưa ngài vô bệnh viện Sài Gòn, bác sĩ Bạch khám nghiệm ra ngài có 6 loại bệnh: ung thư ruột, ung thư bao tử, suy tim nặng, lao phổi, xơ gan và trạng thái gọi là hoại diệt các tế bào máu. Bác sĩ Bạch đưa thuốc cản quang vào ruột già của ngài, để thấy những cái bướu nổi trong bụng nhưng Ngài vẫn là như vậy, một ngày ngài ngủ một tiếng đồng hồ, dưỡng sinh là ngài đem dụt bỏ, ăn thì ngài bỏ chất bổ, chỉ ăn chất bã. Khi buồn ngủ thì cà phê đem tới cho ngài phải đắng để cho ngài thức. Hai mươi chín ngày mới đi cầu một lần. Mỗi một lần đi là phải lavement (thụt tháo), phải móc cho được phân ra. Phân ra như cục sỏi cục sạn chứ không nhuận tươi như mình được. Ngài không bao giờ dùng yogurt để nhuận trường.

Sư ngày hôm nay đâu có dùng yogurt, dùng rau cỏ được. Ruột của sư là bỏ. Bởi vì sư đã dùng elexir hai chai thuốc con rồng nên bây giờ ruột của sư là bỏ hết. Hôm nay sư mà ăn rau cỏ là hoại diệt liền. Do đó quí Phật tử thấy, sắc thân ta đang có đây, đó là chiếc xe cũ kỹ được ràng buộc bởi tứ thần túc mà thôi. Cho nên con đường tu tập nhắm tới là chúng ta phải đạt được. Xưa kia khi Tô Định đến thử thi thố tài bắn cung thì Trưng Trắc dạy Trưng Nhị, mục tiêu ta bắn không phải là những trái táo chín mà mục tiêu ta bắn là phải tới những mục đích mà ta cần phải có. Con đường tu của ta không phải là thành đạt danh xưng, được tán dương cúng dường bởi Phật tử mà con đường tu của ta là phải thành đạt giác ngộ, giải thoát và độ chúng sanh hữu duyên với mình. Sư chưa xong, sư chưa cho phép sư được ngủ ngon. Sư chưa xong, sư chưa cho phép sư được ăn no. Sư chưa xong, sư chưa làm xong nhiệm vụ “áo tu ai đã mặc vào, phải thông công hạnh nhắm vào việc chi, đạo đời hai ngã tình chi, gieo duyên Phật pháp sướng vui niết-bàn.” Con đường đó sư chưa xong sư còn phải làm việc. Trạng thái làm việc ở đây là luôn luôn trăm ngàn cái ái dục lôi kéo chúng ta lại con người phàm phu tục tử của mình nếu chúng ta chưa là bậc thánh nhân. Sư đâu dám khinh suất. Sư đâu dám nói là Sư đã thành. Trong ngày hôm nay sư đọc 6 lần Tam tạng kinh điển. Atthakatha, Nikaya, cũng như là Tika và Nissaya Sư đọc xuyên suốt 2000 cuốn sách trong bộ chú giải của ngài Buddhaghosa và Ledi Sayadaw, sư chưa cho phép sư đã xong. Chưa xong mà trong tay Sư hôm nay 2000 cuốn sách; sư đã dịch xong bằng bilingual tiếng Anh và tiếng Việt, xuyên suốt Tam Tạng Pāḷi tất cả 45 cuốn. Sư chưa xong, vì sao, vì Sư phải đạt tới bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Sư phải trở thành Aniyatabodhisatta và chuyển qua thành Niyatabodhisatta, Bất định Bồ tát đi tới Cố định Bồ tát, lúc đó Sư mới viên mãn thành tựu, lúc đó Sư mới dừng lại được, mà dừng ở đây là chỉ dừng lại trên con đường tu tập chứ chưa dừng lại trên con đường hạnh nguyện độ chúng sanh nữa kìa.

Do đó Sư thưa quí Phật tử, khoa học là đời, đạo là ngược đời. Quí Phật tử phải thấy vậy. Khi ta hành đạo tức là ngược đời. Đời là tham sân si, phải bám giữ nuôi dưỡng lâu dài. Đạo phải là vô tham vô sân vô si mới được. Người nào hành đạo thật sự, người đó phải biết con đường vô tham vô sân vô si. Người nào hành đạo mà mượn đạo tạo đời, người đó xen kẽ vừa tham vừa vô tham, vừa sân vừa vô sân, vừa si vừa vô si chứ chưa chắc họ xuyên suốt con đường giải thoát một cách quyết liệt được đâu.
Sư phải nói rõ ràng, đạo là phải ngược đời, đạo là phải diệt bỏ, đời là phải nuôi dưỡng, theo khoa học là phải ngủ 8 tiếng đồng hồ. Trước khi Sư vào con đường xuất gia, sư đã học năm thứ nhất của trường đại học y khoa. Mẹ của Sư muốn Sư là bác sĩ của trường đại học Montpellier, de Paris, phải là bác sĩ ở Pháp trở về.

Còn ba Sư muốn Sư là pont reserche, kỹ sư cầu cống của trường Polytechnic. Khoa học là Sư nghiên cứu đầy đủ, Sư nghiên cứu không thiếu cái chi cả. Ngày hôm nay Sư còn đi sâu hơn về Nutrition những chất dinh dưỡng cần có để nuôi dưỡng cái thân này nữa. Nhưng, con đường đạo quả Sư phải nhắm tới, Sư phải diệt cái xác thân này và ra đi, không nuôi dưỡng xác thân này. Ngày hôm nay quí Phật tử thấy cái thân này của Sư đây chỉ là một hình tướng. Trong cơ thể Sư là tan nát, không phải là bền vững với sắc đẹp đang có này đâu. Lục phủ ngũ tạng của Sư Sư biết mà, Sư ngồi với Phật tử đây chứ hơi của Sư đã cạn kiệt. Có một tháng năm tuần, sư liên tục lên máy bay, xuống máy bay để đi giảng dạy. Không ngừng!

Con đường đó là con đường Sư đã chọn lựa, thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Mượn chúng sanh để bổ túc ba-la-mật. Thành tựu ba-la-mật trả nợ lại cho chúng sanh khi sự thành tựu viên mãn Chánh Đẳng Chánh Giác. Do đó con đường phải khắc nghiệt, phải diệt ái dục và vô minh. Phải giải thoát mới được. Sư không có cà phê, không có thuốc lá, không trà không rượu không bia, từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ biết đụng tới những cái gì nghiện ngập. Do đó bác sĩ báo cho Sư biết cơ thể trong ngần như vậy dễ bị nhiễm hóa. Tim mạch của Sư đập thiếu nhịp, hơi thở không đủ không khí. Vẫn có như vậy. Trong tay Sư không dưới 5 bác sĩ, kiến thức khoa học y khoa Sư luôn luôn nghiên cứu. Sư có ba vị bác sĩ nổi tiếng nhất Hoa Kỳ, chuyên khoa về thần kinh, chuyên khoa về máu, chuyên giám tuyển sức khỏe các phi hành gia lên không gian. Đó là bác sĩ của sư, nhưng Sư từ chối.

Sư không mong quí Phật tử noi theo con đường tu tập của Sư, Sư biết con đường của Sư đang đi là con đường của bậc Chánh Đẳng Giác, phải mau, không chểnh mãng được, không trễ được. hai móng chân ngựa phải phóng nhanh trên đất chứ không phải đạp trên lòng đất mà ở trên đời. Sư không muốn như vậy. Ra đi mà. Do đó, một đêm Sư ngủ không đủ. Quí Phật tử nhìn, con mắt của Sư không bao giờ bớt đỏ. Hai tròng mắt Sư lúc nào cũng đỏ. Có nhiều loại thuốc cho Sư, đủ hết, nhưng cứ đỏ thẫm hoài như vậy. Do ngủ không đủ, điều tiết nhiều. Sư ngồi miệt mài trên computer, dịch kinh trên bàn làm việc của Sư không dưới hai máy vi tính, không dưới 5 bộ Tạng. Một ngày Sư làm việc với 5 bộ Tạng, mỗi sáng Sư đưa ra năm người đánh máy mỗi ngày, Sư phải dịch Pāḷi ra tiếng Việt. VN chúng ta nghèo quá, thiếu thốn dữ lắm. Đồng bào chúng ta chưa có đủ Tam Tạng tiếng Việt Nam đâu. Qua Cam Bốt, Lào, Thái Lan, trong Tam Tạng đều có tiếng quốc ngữ của họ hết. Người VN chúng ta không có. Trong tủ Tam Tạng của chúng ta chưa có tiếng Việt là Sư chưa ngủ được ngon giấc . Do đó lương tâm trỗi dậy, niềm khao khát phục vụ Tam Bảo phải thực hiện, và hạnh nguyện Chánh Đẳng Giác mau sớm thành đạo quả. Sư không cho phép sư dừng lại và để ái dục thúc đẩy: thỏa mãn đi, nghỉ ngơi đi, tận hưởng đi.

Sư sinh ra trong gia đình thượng lưu sung sướng của xã hội Sài Gòn. Sư đi vào con đường tu tập, sư trở thành giáo thọ là được sự cung phụng đầy đủ của Phật tử, cũng như tăng ni học trò thương sư cúng dường cho sư. Sư có hết tất cả. Không riêng chỉ người VN mà những nơi khác của vậy. Sư tới Thái Lan, Sư ở chùa vua sãi Wat Bovoranives. Sư qua Miến Điện sư ở chùa lớn nhất của thiền viện Mahasi 610 chi nhánh. Sư là người cầm chìa khóa mở tu viện Ānanda của đại đức Narada. Phật tử nào sống ở Sài Gòn chắc biết có thời gian mỗi chủ nhật ngài giảng tại chùa Xá Lợi, Sư là người mở cửa. Khi trùng tu cái chùa của đại đức Narada tại Tích Lan ở Colombo, Sư là người VN mà mở cửa khánh thành ngôi chánh điện đó. Nhưng khi người VN còn thiếu thốn về kinh điển thì Sư chưa dừng lại để tận hưởng giấc ngủ của Sư được.

Ái dục cám dỗ mình ghê gớm lắm. Già cũng ái dục, trẻ cũng ái dục như thường. Ái dục đeo ta không phải một kiếp, ái dục không phải chỉ với tuổi trẻ mà buông tha người già đâu…
Sư Sán Nhiên
 
SỰ VẬN HÀNH CỦA CHÁNH NIỆM VÀ TRÍ TUỆ

Sammasatti (Chánh niệm),
cũng như cái thấy, không phải là một tự ngã, không phải là một con người. Thông thường duyên để cho bất thiện pháp sinh khởi rất nhiều trong một ngày .

Có các duyên để cho thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ sinh khởi. Tích lũy về bất thiện pháp rất sâu dầy làm duyên cho bất thiện pháp sinh khởi sau những kinh nghiệm đ
ó.

Đức Phật không dậy chúng ta ngăn chặn bất thiện pháp một cách nào đó tạm thời ở một nơi nào đó cụ thể. Nhưng Ngài đã dậy cách thức để có thể tận diệt được phiền não một cách hoàn toàn. Không thể nào ngay lập tức có thể tận diệt được vô minh và dính mắc, chừng nào vẫn còn ý niệm về ngã ở những khoảnh khắc thấy, nghe, ngửi, nếm, v.v…Trí tuệ sẽ biết rằng điều đó chỉ có thể xảy ra khi có sự phát triển hiểu biết về bản chất của những khoảnh khắc như vậy trong hiện tại, dần dần từng chút một. Và Trí tuệ cũng hiểu rằng những hiểu biết về những thực tại ấy hàng ngày còn vô cùng ít ỏi.

Chính vì vậy cần rất nhiều đại kiếp, như với các vị đại đệ tử - Ngài A-nan-đa, ngài Xá-lợi-phất, để phát triển trí tuệ và trở thành một bậc A-la-hán. Do những tích lũy đặc biệt riêng của mình, sau khi trở thành một Vị Tu-đà-hoàn 15 ngày, Ngài Xá-lợi-phất đã trở thành một Bậc A-la-hán. Đó không phải là công việc của một người nào đấy, mà là chức năng của Trí tuệ mà thôi. Chính vì vậy cần phải có hiểu biết phân biệt rõ ràng, liệu tự ngã hay trí tuệ làm công việc phát triển đây?

Trí tuệ hiểu rằng nó là một pháp, không phải là một ai đó, và nó chỉ có thể sinh khởi do duyên. Trí tuệ có những nhân duyên riêng cho sự sinh khởi của nó. Những nhân duyên để Trí tuệ sinh khởi không phụ thuộc vào thời gian, không phụ thuộc vào nơi chốn mà phụ thuộc vào những lời giảng chân chánh tới từ bậc giác ngộ. Chẳng hạn bây giờ nếu không có chút hiểu biết nào rằng bất cứ cái gì xuất hiện chỉ là pháp, thì làm sao có sự phát triển dần dần những hiểu sâu sắc hơn về các thực tại, không cho chúng là ta và của ta nữa. Như vậy chúng ta có thể hiểu được những lời dậy của Đức Phật.

Nghiên cứu giáo lý của Ngài không có nghĩa rằng có thể hiểu trực tiếp ngay lập tức những thực tại mà Ngài nói tới. Nhưng hiểu biết đúng đắn ở mặt tư duy về những gì Ngài dậy sẽ là duyên dần dần làm cho chánh niệm sinh khởi có thể hay biết trực tiếp về thực tại khi nó xuất hiện. Nếu không phải như vậy thì những gì Đức Phật dậy như là "Tất cả các pháp là vô ngã" sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Hiểu biết trở nên vững vàng, đến một mức độ nào đó sẽ không còn lung lay và đi chệch hướng nữa. Nhưng cần phải có thời gian để hiểu rằng tất cả những gì xuất hiện đều là vô ngã, điều đó cần rất nhiều thời gian.

Sự tinh tế, thâm sâu của Giáo pháp không thể nào được nắm bắt bởi ý niệm về ngã hay dính mắc. Nó phụ thuộc vào các thực tại mà chúng ta gọi là hành uẩn (sankhara khandha). Hành uẩn chính là 50 tâm sở, trong đó có Trí tuệ (panna). Ở khoảnh khắc này không có tự ngã nào đúng không? Chỉ có các tâm và các tâm sở sinh và diệt đảm nhận chức năng của chúng. Điều đó diễn ra không ngừng nghỉ và không hề có bất cứ một người nào đang làm cái này hay ngừng lại cái kia.

Như vậy ta cần phải rất chắc chắn rằng liệu khoảnh khắc hiện giờ có thể được hiểu bởi trí tuệ hay không? Liệu về mặt tư duy, trí tuệ có thể được hiểu điều ấy hay không?
Liệu ta có thể hiểu rằng trí tuệ chỉ có thể hiểu sự sinh diệt của các thực tại do đầy đủ nhân duyên chứ không phải là do ý chí của một ai đó?

Ta có thể thoát khỏi khoảnh khắc hiện tại hay không? Khi nghĩ rằng khoảnh khắc này không thể được hiểu thì ta đã quay lưng với thực tại, ta không có đủ sự dũng mãnh để đối diện và hiểu nó như nó là. Để hiểu được bất cứ những gì đang xuất hiện hiện giờ, điều đó vô cùng thâm sâu và vi tế. Có rất nhiều nhân duyên khiến cho Trí tuệ hay hiểu biết có thể sinh khởi hiện giờ, nó phụ thuộc vào các Ba la mật.

Đức Phật đã chỉ rõ rằng không có một con đường nào khác ngoài Bát chánh đạo. Yếu tố hàng đầu trong Bát chánh đạo chính là yếu tố thứ nhất mà chúng ta biết là Chánh kiến. Nếu ta nghĩ rằng chỉ nên phát triển hiểu biết về một số đối tượng cụ thể mà ta lựa chọn, đó không phải là Giáo lý của Đức Phật. Bởi vì khi trí tuệ sinh khởi thực sự thì nó sẽ biết rằng nó có thể hiểu được bất cứ thực tại nào ở bất cứ thời điểm nào, giống như Ngài Xá-lợi-phất, cư sĩ Vi-sa-ka hay Ngài Cấp-cô-độc và các đệ tử khác của Ngài.

Khoảnh khắc không hiểu được cái đang xuất hiện, lúc đó sẽ có sự hoài nghi, suy nghĩ rằng sẽ không thể nào hiểu được điều đó ở đây. Và sẽ không dám tin rằng nó có thể được hiểu ở bất cứ nơi nào, bất cứ thời điểm nào do duyên đầy đủ của nó. Vậy thì điều quan trọng nhất là hiểu rằng pháp chỉ là pháp, mọi thứ ở đây đều là pháp, không có con người nào, không có thứ nào ở trong đó. Nếu không hiểu điều đó một cách chính xác và chi tiết thì sẽ không có đủ duyên để cho chánh niệm thực sự sinh khởi.
 
THÂN NÀY CŨNG CHỈ LÀ THÙNG CHỨA RÁC

Ham ăn, háo sắc, ham tiền, mê danh lợi, mê quyền lực điều đi ra từ sự lơ đễnh với tấm thân dơ bẩn này. Phải luôn nhớ rằng mình là cái thùng rác, mỗi ngày đều cho rác vào miệng trên và đổ đi bằng miệng dưới. Được vậy thì thiên hạ sẽ sống tốt hơn nhiều. Chớ nên nghĩ mình là cái gì đó rất quan trọng, rất đáng hay ho, đáng ghen tị, đáng ngưỡng mộ, ... Tối thiểu phải nhớ mình là đồ vất đi.

Bữa trước tôi có kể chuyện danh Kỹ Sirima ở Vesali. khi nàng còn sống, người ta muốn gần nàng phải tốn ngàn vàng. Khi nàng chết rồi thì cho không cũng không ai nhận. Dù là hoa hậu đi nữa, mười cô mà chết ngắc, cho tôi, tôi cũng không nhận. Tôi làm gì với mười cái xác đó đây dù tôi là người rất háo sắc, cực kỳ đa tình, vô địch lãng mạn. Chỉ sau mười lăm phút tắt thở thì hình hài của những đóa hoa biết nói xinh đẹp ấy đã không còn là gì trong mắt trong mắt thiên hạ.

Vì vậy trong kinh dạy rằng mình không có dịp thấy thân mình dơ vì mình không sống bằng Niệm và Tuệ. Nếu sống bằng Niệm và Tuệ ta sẽ thấy rằng đẹp xấu ở xác chết không có ý nghĩa. Một khi tâm thức không còn ở xác thân nầy, nó có là cái gì đi nữa cũng phải vất đi.

Chúng ta có hai bài học quan trọng: 1.Mỗi nhúc nhích đều có thể là công đức. 2. không có tâm thức thì tháng này là số không .

Nghĩ như vậy mới hết hồn. Nghĩ đến cái "tấm thân dơ này" mà mình ngán và nghĩ đến sự
"không có tâm thức là số không" thì càng oải hơn nữa .

Đó là lý do vì sao mình phải nhớ kỹ nó.

Sư Giác Nguyên
 
TÁI SINH ĐỂ TRẢ NỢ

Người Phật tử nghe chữ ‘tái sinh’ mà không được giải thích thì không có sợ. Ngay trong đời này, mình sinh ra trong gia đình có giáo dục, lớn lên biết Phật pháp, không phải là người cùng hung cực ác tệ lậu, vậy mà trong hăm bốn giờ đồng hồ tâm lành, tâm thiện của mình có được bao nhiêu phút?

Cái tâm tham sân si ích kỷ nhỏ mọn toan tính chiếm bao nhiêu phần trăm trong ngày? May là kiếp này mình không đến nỗi tệ mà còn như vậy nói gì trong những đời quá khứ xa xưa mình làm con sư tử, con beo, con rắn, con chuột, làm bao nhiêu hạng người cùng hung cực ác mình đã gieo tạo biết bao nhiêu bất thiện.

Cho nên, bây giờ, nếu nói về nợ ác nghiệp thì bà con trong room này kể cả tôi, riêng phần nợ của mình không có núi nào biển nào sánh bằng. Dĩ nhiên trong vô số đời quá khứ mình cũng làm rất nhiều thiện nghiệp, công đức, nhưng dù nhiều bao nhiêu cũng chỉ bằng một phần triệu tội lỗi của mình thôi. Biết đạo mà tâm bất thiện đã nhiều gấp bao nhiêu lần tâm thiện, thử hỏi trong dòng luân hồi thăm thẳm đó mình làm phước được bao nhiêu. Cho và nhận thì ai cũng thích nhận chớ ai khoái cho. Sống ở đời có đấu tranh thì lúc nào mình cũng muốn thắng chớ ai muốn thua. Lúc nào mình cũng muốn giành chớ có lúc nào mình muốn nhường đâu, lúc nào cũng muốn ăn trên ngồi trước.

Vì vậy, còn tái sinh là còn đi trả nợ, nhiều hơn lãnh thưởng hay đòi nợ. Câu này phải học thuộc lòng, đọc mỗi ngày và xăm lên trán.

Con đường thông minh và an toàn nhất là phải làm sao quán chiếu năm uẩn.

Tôi không phải là thiền sư, hay hành giả nhưng không có ngày nào tôi không nhớ đến 2 chuyện:

1/ Tôi phải chết.

2/ Mọi sự là đồ giả.

Không phải vì tôi tu hành tinh tấn mà bởi vì tôi rất nhát rất hèn. Tôi sợ cảnh kinh hoàng nhất là thở không được, lúc đó mà lộ cái thất thần, hoảng hốt ra thì quê lắm. Phật tử thấy mình thường thuyết pháp mà bữa nay thấy mình tái mét hoảng hồn, thì quê dữ lắm. Đó là một trong những cái tôi sợ, sợ người ta thấy tôi dỏm, vì vậy giờ tôi phải chuẩn bị trước. Không có gì giấu cho được khi mình hấp hối.

Giờ mình đi ra ngoài đường bị ai lụi cho một cái đổ ruột, đường về bệnh viện xa xôi, cấp cứu chưa tới cũng sợ. Lỡ không chịu ra máu mà cứ muốn mửa không cũng đáng sợ. Tôi cố ý nói chớ không phải lạc đề. Mình phải quán chiếu năm uẩn là vì ý do đó. Mình phải chuẩn bị cho một tai nạn kinh hoàng nhất có thể xảy ra.
 
LÀM CHỦ ĐỜI MÌNH

Chúng ta làm chủ cuộc đời của mình. Chữ Làm chủ phải hiểu nhiều nghĩa khác nhau:
☘
Thứ nhất, Đời sống hiện tại do tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý, môi trường sống
. Tiền nghiệp là chuyện đã qua, thiện ác quá khứ, mà tiền nghiệp có 2 loại: tiền nghiệp kiếp này là từ quá khứ, nhưng thiện ác kiếp này là tiền nghiệp cho kiếp sau. Nhớ cái đó. Cái đó quan trọng. Cho nên chữ sinh nhật nghĩa là gì, mình bắt đầu cuộc đời mình bằng cách tạo tiền nghiệp cho kiếp sau.

☘
Mình hướng dẫn khuynh hướng tâm lý của mình và gọi là Tận dụng môi trường sống.


Tại sao môi trường mà tôi xài chữ “tận dụng”? Nếu mình chọn lựa được môi trường sống, quá tuyệt. Nhưng có trường hợp, mình không có khả năng chọn lựa thì phải tận dụng môi trường mình đang có. Nhớ nha. Chữ nghĩa phải xài rõ ràng như vậy.
Đối với môi trường, tôi nhấn mạnh 2 chữ
(1) Nếu có thể lựa chọn thì lựa chọn môi trường nào có thể phát triển thiện pháp tâm linh.
(2) Nếu trong tình huống không thể lựa chọn thì chí ít chúng ta có khả năng tận dụng khía cạnh tích cực của môi trường đó.
Đời của mình, mình làm chủ là như vậy đó. Cái gì không tránh được thì đón nhận với tâm thái tích cực. Như nhiều lần tôi nói.

☘
Vấn đề đời của mình, mình làm chủ thế nào?


-Người không biết tu, khi nhận quả xấu chỉ biết sân si bất mãn Nhận quả lành chỉ biết đam mê, đắm đuối.
-Người có tu học, khi nhận quả xấu: chánh niệm, tỉnh giác; khi nhận quả lành: chánh niệm, tỉnh giác.
Như vậy thì, đối với anh không biết Phật pháp, khi nhận quả xấu hay quả lành ảnh tiếp tục tạo nhân xấu. Còn anh có tu có học khi nhận quả xấu hay quả lành anh tiếp tục tạo nhân lành thì đó là làm chủ. Làm chủ là vậy đó.

☘
Đừng hiểu, làm chủ là mình tu hành là chống lại tuổi già, bệnh, chết, chống lại ác quả quá khứ.


Nghiệp bị trọng bệnh thì tiếp tục trọng bệnh. Đức Phật còn bị bệnh mà. Ngài Xá Lợi Phất, ngài Ca Diếp, cũng trọng bệnh, ngài Mục Kiền Liên,… tất cả các vị thánh, mang thân người đều bị bệnh hết, bị tai nạn đủ thứ, chuyện đó bình thường.

Đừng trông đợi tu để thoát nạn, tu để không bệnh. Cái đó không nên. Tại sao không nên?
Vì lý tưởng cao nhất của tu hành không phải tật bệnh tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, gia đạo bình yên, tình duyên như ý. Không phải.
Cứu cánh của đạo Phật là dàn xếp nội tâm của mình. Tuy nhiên, khi sống tốt tu tốt nếu đạo lực mạnh có thể trấn áp nhiều ác quả quá khứ, đôi khi thôi.

Đức Phật còn có lúc Ngài tránh không được. Nhưng quan trọng nhất là: Tu tốt sống tốt thì thái độ tâm lý trước một hoàn cảnh ngon lành lắm, thanh thản, bình yên lắm, cái đó mới quý.

Trong room nhiều vị không đồng ý. Làm gì làm, khỏe mạnh, giàu tốt hơn. Tôi không đồng ý điều đó. Đối với tôi tinh thần ok quan trọng hơn. Bằng chứng: Sống trong căn nhà bạc triệu (đô), mà tan nhà nát cửa, vợ chồng xô xát, gia đình dậu đổ bìm leo, con cái tan đàn xẻ nghé, tùm lum hết… tôi nghĩ gia đình đó là bi kịch, máu lệ. Tuy nhiên, trong gia đình nghèo khó, căn nhà mà người chó gà ở chung, mà đó là gia đình Phật tử có tín, tấn, niệm, định, tuệ, có niềm tin, chánh niệm, sống có tha thứ, thông cảm, yêu thương, có trách nhiệm thì tôi e rằng, đời sống này hình như lành, vui hơn đời sống kia. Chưa hết, lúc bị nan y tuyệt chứng, lúc thoi thóp trên giường chết, đời sống tinh thần anh nào vững vàng thì tôi nghĩ ngon. Lúc đó bao nhiêu nhà lầu xe hơi đều bó tay hết. Tôi dám khẳng định…

☘
Điều quan trọng nhất trong đạo Phật: Khi anh không thấy Khổ đế, không thấy mọi hiện hữu là khổ anh không buông, anh không bỏ được

Tập đế. Anh không chán, không sợ cái khổ thì anh không buông được nó. Anh không buông được nó thì anh tiếp tục khổ với nó. Đây là chuyện đơn giản. Anh không thấy là đống phân, anh tiếp tục vo tròn gói gọn nhét trong túi, đi cùng trời cuối đất với nó. Anh phải thấy là đống phân thì anh mới tìm chỗ bỏ nó, quăng nó, tắm gội sạch sẽ, thay quần áo mới tinh tươm, đồ hiệu, anh an lạc với nó.

Cho nên, sống như thế nào đó mà khi mình ngồi xe lăn, mắt mờ tai điếc nhưng vẫn có người lắng nghe mình. Mình ho mà nó vẫn nghĩ công án tuệ quán. Mình đánh rắm nó thấy chuyện đáng tư duy là khá. …

Trích bài giảng NGÀY SINH
 
TÀN TẬT TÂM LÝ

⚜
Mắt, khi mà mình dùng nó để nhìn bằng tâm tham, tâm sân, thì coi như mình đã xài sai cái ý nghĩa của nó rồi

Bởi vì khi đó mình đang dùng con mắt để làm khổ mình. Nhaaaa, lỗ tai cũng vậy nha, khi mà mình dùng lỗ tai để mình nghe cái gì đó mà bằng tâm tham, tâm sân tâm si thì coi như mình đã dùng sai nó rồi vì đang dùng nó để tự làm khổ mình.

Cứ như vậy cho đủ lục căn luôn. Dùng cái đầu của mình để mình nghĩ những cái chuyện mà bằng phiền não tham, sân si thì mình tự làm khổ mình bằng cái ý thức. Nhớ nha..Như vậy thì:
⚜
Mù tâm lý là sao?
có nghĩa con mắt cả đời chỉ đi tìm ngắm nhìn thưởng thức cái này cái kia, dùng con mắt trong trường hợp đó được gọi là mù tâm lý. Nhớ nha, tuy con mắt là vật chất, đúng, nhưng mình dùng nó để thưởng thức cái này cái kia mà không có thu thúc, kềm chế, kiểm soát được nó mà chỉ dùng để nhìn rồi sân, si, tham đắm, hưởng thụ thì lúc đó được gọi là mù tâm lý.

Dùng sai tác dụng của nó, để tự chuốc khổ thì là mù tâm lý, lỗ tai cũng vậy, dùng lỗ tai để nghe cái này cái kia để tự làm khổ mình, nghe bằng phiền não, thích hoặc là ghét, bất mãn hoặc vừa ý, cái nghe đó mà nói theo đời là người đó đang nghe, nhưng mà nghe cái tầm bậy thành ra điếc tâm lý.


⚜
Câm tâm lý là sao.
Câm sinh học là lưỡi không cho phép mình nói, đúng không! Nhưng mà đặc biệt ở đây Câm tâm lý là gì. Là cả đời không nói ra được tiếng người, tiếng người là tiếng nói, ngôn ngữ được phát biểu bởi từ bi, chánh niệm, trí tuệ, cảm thông, bao dung, tha thứ, yêu thương, đó là ngôn ngữ của người, của trời , thánh hiền, mà ba cái ngôn ngữ đó mình nói không có được, mình nói toàn tậm bậy. Cái đó không phải là nói là sủa, gào, hót…Ngôn ngữ của người, hiền thánh, thánh hiền ba đời mười phương là những gì được phát biểu bằng thiện tâm, trí tuệ, chánh niệm, thiền định, kham nhẫn yêu thương, từ bi hỷ xả. Thì cái đó, biết nói thứ ngôn ngữ bằng tâm tình đó thì mới gọi là biết nói. Còn không thì chỉ là hót, sủa, gầm, gào, rống thôi…

Tôi biết tôi nói vậy rất là nặng, quý vị sẽ hỏi kinh nào kinh nào nói. Dạ Tăng Chi Bộ Kinh. Đức Phật dạy rất rõ. Khi nào chỗ nào mà các người đi đứng nằm ngồi bằng tham sân si thì chỗ đó gọi là chuồng ngựa, máng heo. Cái chỗ nào mà các người đi đứng năm ngồi bằng từ bi hỷ xả thì đó là phạm cung, phạm xứ, là chỗ của phạm thiên. Chỗ nào mà các người sống bằng trí tuệ sanh diệt của các pháp thì đó gọi là thánh xứ, trụ xứ của thánh hiền.

Cho nên, ngay bây giờ khi mà chúng ta sống bằng đời sống tàn khuyết của một người tàn tật, về sinh học thì không đáng sợ mà cái sợ nhất ở đây là tàn tật và tàn khuyết về tâm lý.


➖
Mù tâm lý là dùng con mắt để nhìn cái này cái kìa để phiền não
➖
Điếc tâm lý là dùng lỗ tai để nghe cái này cái kia bằng phiền não
➖
Câm tâm lý là nói toàn bằng phiền não
➖
Què cụt tâm lý là không có khả năng dấn bước trên những hành trình chánh đạo
➖
Còn bị tâm thần ở đây là không có khả năng nhận thức cái cần phải lưu tâm


⚜
⚜
Mà nếu hôm này mà quý vị là cái người tàn tật về tâm lý, thì đó chính là tiền sanh duyên để đời sau kiếp khác sanh ra…Bây giờ đó, mình sống bằng một thứ tàn tật tâm lý, chính cái tàn tật tâm lý nó dẫn đến cả hai: tàn tật sinh học và tàn tật tâm lý. Gớm vậy đó. Đó là tiền sanh duyên. Còn hậu sanh duyên là sao. Muốn đời sau không bị cái đó thì bây giờ phải có chuẩn bị…
 
Phúc thay cho kẻ nào có niềm tin, có trí tuệ để được sống chánh niệm.
Bất hạnh thay cho kẻ không có đủ niềm tin và trí tuệ để phải sống thất niệm.




Bằng cái phàm phu của tôi, tôi tin Phật qua các điểm sau đây:

1/ Vô Thường và Vô Ngã:
Phật dạy cái gì ở đời này đều là vô thường. Trong cái kém cỏi của mình, tôi thấy hình như đúng. Quý vị có thể nói với tôi là vàng ngọc kim cương quý hiếm là lâu bền, không bị oxy hóa gì gì, tôi không cần biết. Tôi chỉ biết rằng khoa học đã xác nhận là sẽ có một ngày cái trái đất này nó không còn nữa, sẽ có một ngày ngay cả mặt trời nó cũng sẽ không còn nữa, và trước mắt là sẽ có một ngày cái cục thịt mấy chục kilo này của tôi đây nó cũng sẽ không còn nữa.

Thì ba cái đó là đủ để mình tin Đức Phật nói đúng, cái gì cũng là vô thường. Và hễ nó vô thường là nó không thật sự của tôi. Tôi đâu muốn có mất mát, chia ly, hư hao, băng hoại. Tôi không thích những chuyện đó nhưng mà nó vẫn theo duyên mà nó chuyển ra, xảy ra và theo duyên nó mất. Từ chỗ tôi tin cái lý vô thường tôi tin cái lý vô ngã. Mọi chuyện theo duyên mà có, có rồi thì tùy duyên mà mất.

2/ Nhân và Quả: Phật dạy rằng mình phải chịu trách nhiệm những gì mình nói, mình làm, mình suy tư. Ở đây tôi nhắc lại tôi là một người phàm dốt nát, tôi nói thật, chứ không vì khiêm tốn. Cái biết của mình nó chẳng là cái gì trong trời đất này. Tôi đem cái khờ ngu của tôi để tôi hiểu lời Phật dạy về lý nhân quả. Nếu mình làm chuyện xấu, chuyện bậy, chuyện ác thì mình sẽ bị khổ, bị rắc rối. Còn khi mình làm chuyện lành, chuyện tốt, chuyện thiện thì chắc chắn là mình được vui, được an lạc. Bằng kiểm nghiệm bản thân, tôi thấy hình như đúng, tôi tin chuyện này. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.

3/ Khổ và Thất Niệm: Phật dạy rằng cái khổ của thế giới do Khổ Quả nhưng không đáng kể bằng Khổ Nhân. Khổ Quả là thế này: Do quả bỏn xẻn mà tôi nghèo, do quả sát sanh mà tôi bệnh, do quả nói xấu người ta mà giờ tôi bị người ta chửi. Đó là khổ quả. Nhưng còn cái khổ nhân là thế này. Khi một bậc thánh bị chửi, bị đói thì ngài không có khổ như người phàm. Khi người phàm bị đói, bị đánh, bị bịnh, bị chửi, nó thấy khổ, nó khổ nhiều hơn bậc thánh. Vì sao? Vì cái Nhân phiền não vẫn còn. Bị đánh, bị chửi, bị đói, bị bịnh, là cái quả xấu, Quả khổ, tuy cũng thấy ớn thiệt, Đức Phật cũng gặp phải nạn này nạn kia, nhưng cái Quả khổ nó làm khổ ít hơn là cái Nhân. Vì chúng sanh mình còn phiền não cho nên mình đón nhận cái Quả khổ bằng cái Nhân phiền não.

Đức Phật xác định là cái khổ ở đời là do phiền não. Và cái phiền não đến từ đâu? Cái tham, sân, si đến từ đâu? Quý vị có thể nói là do vô minh gì gì, nhưng ở đây tôi nói trong tinh thần Tứ Niệm Xứ, thì phiền não là do Thất Niệm. Trong một phút giây nào mà anh sống thất niệm là chắc chắn anh khổ. Quý vị dắt lại cho tôi hai người, thằng Tèo và thằng Tí. Thằng Tèo thì đẹp trai, mạnh khỏe, học giỏi, đào hoa, làm ăn may mắn suông sẻ, nhưng nó sống thất niệm. Còn thằng Tí chỉ có một sào đất, trồng trọt hoa màu kiếm sống lây lất nhưng nó có lối sống của Phật tử thứ thiệt, một hành giả Tứ Niệm Xứ thứ thiệt. Trong thâm tâm tôi thì tôi tin chắc là thằng Tí nó sống an lạc. Và sống thất niệm như thằng Tèo thì tôi dám khẳng định là nó sẽ không thể sống an lạc.

Một người tin Phật, thờ Phật, tu Phật, học Phật, theo Phật bắt buộc phải biết ba điều trên đây. Khi mình tin và biết ba cái này, thì liếc mắt vô kinh Niệm Xứ là sẽ thấy mình nằm trong đó. Kinh Tứ Niệm Xứ là kinh xác nhận ba điểm này.
 
ĐI VỀ CẢNH GIỚI NÀO ?

...Theo trong Kinh thì cái Từ tâm là thế giới của Phạm-thiên, Thập-thiện là thế giới của chư Thiên Dục-thiên, Tứ Niệm Xứ là thế giới của Thánh nhân, còn tham sân si là thế giới của đọa xứ.

Nếu mà nói như vậy thì coi như mỗi ngày chúng ta đang sống ở trong cái thế giới của cái hàng nào trong 4 hàng đó, người thường xuyên sống với Chánh-niệm và Trí-tuệ theo cái pháp môn Tứ Niệm Xứ thì người đó là coi như đang sống ở trong cái Thánh-xứ-trong cái cõi của Thánh-nhân,

còn cái người nào thường xuyên sống bằng Từ Bi Hỷ Xả thì coi như kẻ đó đang sống ở trong cái cảnh giới của Phạm-thiên,

kẻ nào thường xuyên trau dồi Thập-thiện thì kẻ đó đang sống trong thế giới của Dục-thiên

kẻ nào đang sống ở trong thế giới tham sân si thì coi như là kẻ đó sống trong thế giới của Đọa-xứ.

Ở đây các vị thấy tôi không nhắc tới thế giới loài người, là vì sao? Vì thế giới loài người là thế giới của 50/50, có nghĩa là nửa thiện nửa ác, thì nếu mình xét, mình thấy mình không sống trong thế giới của Thánh, không sống trong thế giới của Phạm-thiên, không sống trong thế giới của Dục-thiên, thì mình cũng nhớ rằng thôi thì tối thiểu ta cũng sống trong thế giới của loài người, có nghĩa là sao? là 50/50, nửa tu nửa không tu, nhớ cái đó.

Thì quán xét như vậy để thường xuyên mình chọn, xem mình chọn cái cảnh giới để mình an trú, cứ sáng ngày thức dậy và tối bắt đầu đi vào giường để ngủ, cứ thường xuyên tâm niệm như sau: Trong ngày hôm nay tôi đã sống nhiều với cái thế giới của cái hàng nào trong ngũ thú lục đạo?
 
BUÔNG và NẮM

Từ cái Vô minh trong “Tứ Đế” , nó dẫn đến sáu khuynh hướng : -Dục, -Nộ, -Độn, -Đãng, -Mộ, -Ngộ tánh.
Rồi từ sáu khuynh hướng đó dẫn đến cách “sống ác” và cách “tu thiện”.


Sống Ác” là sao?

- Cùng là hai người bất thiện không biết tu hành gì hết, nhưng một kẻ là luôn luôn sống trong cái sự bất mãn (sân, si, bực bội, phiền phức) ;

- Còn một kẻ thì luôn sống trong cái sự đam mê, theo đuổi, kiếm tìm và tích lũy.

Sống ác chỉ có hai loại đó thôi :

- Một là luôn bất mãn, chống đối, không bao giờ vừa lòng, sống ở đâu là mâu thuẩn manh động ở đó .

- Và sống ác kiểu thứ hai là thích tùm lum. Thích thu gom, thích tích luỹ, thích sở hữu ; thì cái đó cũng gọi là sống ác.

“Sống Thiện” thì nó cũng gồm có hai hướng : Thiện vào và Thiện ra.

-“Thiện vào” là cũng làm lành , cũng nhiều công đức nhưng mà lại mong cầu quả nhân thiên.
Làm lành lánh dữ nhưng mà cầu quả nhân thiên, mong cho đời sau sống lâu đừng có yểu mệnh, cầu được khỏe mạnh đừng có bệnh, nhan sắc đừng có xấu, thông minh đừng có khờ, có tiếng tăm đừng vô danh. Sống thiện mà cầu cái đó thì gọi là “hành thiện để đi vào”.

-Còn cái hạng thứ hai là hành “Thiện để đi ra”, có nghĩa là làm thiện , hành thiện nhưng không phải để cầu quả tái sanh, không phải để cầu quả nhân thiên, làm thiện không phải để cầu thứ công đức rẻ tiền.

Sẵn tui nói luôn, người ta nuôi bò không phải để lấy phân mà người ta nuôi bò để lấy thịt, da và sữa. Nhưng mà trong thời gian nuôi bò để lấy thịt da và sữa thì người ta có phân.

Thì đối với một người hiểu đạo họ coi cái công đức nó chỉ là phân, mà cái chánh là mỗi lần họ làm công đức là họ tu tâm.

Họ bố thí không phải để họ cầu giàu sang , mà họ bố thí để họ "mài mòn cái lòng bủn xỉn" , bố thí để lìa bỏ cái tâm sở hữu tham chấp , bố thí để mài mòn cái quan điểm "tôi" và "của tôi", bố thí để lìa bỏ thói quen cầm nắm và ôm giữ.


Đức Phật dạy :

(1) có người bố thí để mà cầu công đức;
(2) có người bố thí vì cái thói quen;
(3) có người bố thí vì cái hoàn cảnh trước mắt mình (không cho thì coi nó kỳ) ; chỉ có hạng thứ tư
(4) là bố thí để rèn luyện , để dạy cái "tâm", để mài mòn phiền não. Bởi vì nhiều đời nhiều kiếp ta chỉ có thói quen là nhận vào và thu gom.

Cho nên có nhiều cái đạo lý rất hay, rất sâu xa ; liên quan đến cái chuyện bố thí mà mình không có biết.

Tui có nói rồi. -Khi ta có ý nắm giữ thì cái ta có được chỉ trong bàn tay. -Khi ta có ý ôm giữ thì cái ta có được chỉ trong vòng tay. -Khi ta có lòng ôm và nắm thì đời sau sanh ra không có gì để nắm và ôm.

Rồi một chuyện nữa, làm công đức bằng "Tâm Vô Lượng" thì mới có quả vô lượng. -Vô lượng có nghĩa là không bị ràng buộc bởi cái ý cầu danh cầu lợi. Bố thí vì cái đối tượng kia, bố thí vì "người nhận" chứ không phải bố thí vì mình. Bố thí kiểu đó gọi là "Bố thí bằng tâm vô lượng" . -Còn bố thí mà muốn cho ra , mà còn nhắm đến lợi ích cho riêng mình thì đời này hay kiếp khác... cái đó chưa gọi là Vô Lượng.

Bởi quý vị có nghe chữ vô lượng tâm. - Vô lượng tâm có nghĩa là :

- Tâm Từ đối với vô lượng chúng sanh không phân biệt giới trí, không phân biệt ngôn ngữ, màu da, chủng tộc, tôn giáo, huyết thống, nhân chủng..." , đó mới gọi là vô lượng.

-"Tâm Bi vô lượng là bất nhẫn khi thấy cảnh chúng sanh sống trong quả xấu nhân xấu". -"Từ Vô Lượng" là mong cho chúng sanh được nhân lành quả lành.

-"Hỷ vô lượng tâm" : là vui khi thấy các chúng sanh sống trong nhân lành quả lành.

-"Xả vô lượng tâm" là giữ tâm bình thản khi nghĩ về nghiệp riêng của mỗi người.

"Vô lượng" là nhắm đến đối tượng không giới hạn. Khi ta làm công đức bằng "tâm vô lượng" thì công đức mới vô lượng. Khi ta không có lòng mong lợi ích nhỏ thì ta sẽ có lợi ích lớn.

Trong kinh Ước Nguyện - Trung Bộ, Phật dạy thế này : "Nếu mình có muốn thành Phật giải thoát, muốn được danh, được lợi, được quyền lực, tiếng tăm, được nhan sắc... chuyện đầu tiên là phải sống đúng theo Bát Chánh Đạo trước ."

Chuyện tu hành cũng vậy, chuyện đầu tiên là nếu anh bố thí, trì giới, nghe pháp, phục vụ, tu hành các cái thứ hạnh lành công đức mà với mục đích "rẻ tiền là cầu danh, cầu lợi" thì cái quả rất là nhỏ . Thay vào đó tu tập bằng "nội tâm cởi mở" không biên giới thì công đức sẽ là vô lượng. Tôi nói rất nhiều lần tu hành theo kiểu thả chim và thả diều. Ai tu mà nghĩ rằng việc gì làm xong, là lòng không bận tới nữa - Đó là tu kiểu thả chim.

Tu kiểu thả diều là nói thả (buông), nhưng mà còn nắm sợi dây kéo tới kéo lui.
Con diều bay cũng không cao hơn , bởi vì độ cao của con diều còn tuỳ thuộc vào độ dài của sợi dây. Hiểu không? Có người làm phước cầu quả gần, có người làm phước cầu quả xa. Cầu quả nào đi nữa , thì cũng vẫn còn nằm trong cái “chấp thủ”.

Nói vậy không có nghĩa là ta không tin nghiệp báo. Ta tin chứ. Ta biết là bố thí sẽ được cái gì , trì giới sẽ được cái gì . Chúng ta biết nhưng mà đừng bận tâm trong cái đó.

Tôi từng kể câu chuyện âm phủ , bà con còn nhớ không? Hai đứa bị đoạ xuống âm phủ, Diêm vương mới nói: "Có hai sự lựa chọn cho kiếp tới : hoặc suốt đời là người nhận hoặc suốt đời là người cho. Hai đứa lựa cái nào?" Đứa thứ nhất nói con muốn làm người nhận, thằng thứ hai nói con muốn làm người cho. Diêm vương nói: Đứa nào muốn làm người nhận thì cho nó lên làm ăn mày, suốt đời chỉ nhận thôi. Còn đứa kia muốn cho thì cho nó làm nhà giàu." Cái câu chuyện đó sâu lắm, hiểu không?

Có mấy ông Sư có thói quen rất là "đáng tiếc" , nó cứ như là tiền lệ.

Hễ mỗi lần gặp Phật tử, thì chỉ nghĩ mình sẽ nhận , mà nếu vị nào có "suy nghĩ " như vậy thì cả đời sẽ nghĩ mình là đối tượng nhận mà lại quên rằng mình phải cho.


Phật nói… trong tâm chúng sanh, không cần chết rồi mới đọa, không cần chết rồi mới gọi là siêu.

Phật nói : ngay trong đời sống thường nhật mình sống bằng cái tâm của loài nào thì mình đã vào ngay cảnh giới của cái loài đó trước rồi, hiểu không?



Vì vậy :


- Cả đời mà cứ chầu chực, canh me, chờ đợi được cái này cái kia của người khác thì đó gọi là sống kiểu "Ngạ quỉ".

- Cả đời sẵn sàng sân si, gây gỗ, gây hấn, xung đột người này người kia làm cho ai cũng thấy ghét hết là sống như loài "A Tu La".

- Cả đời sống lầm lũi, sống chui rúc, khuất lấp thì đó là "súc sanh". - Cả đời sống buông xả, yêu thương vị tha, đó là "Chư thiên".

- Cả đời sống thanh tịnh, không hưởng thụ, dốc lòng muốn bỏ bớt hết là lên cõi "Phạm thiên".


- Trích bài giảng Sư Giác Nguyên : "Vô minh - Hành trình giải thoát".
 
NHỮNG TRƯỜNG HỢP CỘNG NGHIỆP

Cách đây ba mươi mấy năm về trước ở trong chùa Long Thành có cô Phật tử đi chợ nấu cơm cho các sư.
Cô kể : “Mình giữ giới không được giết, nhưng mình dặn người ta, rồi đi một vòng mua rau cải quay trở lại lấy thì mình đâu có giết.”

Tuy mình không giết nhưng đó cũng là một cách cộng nghiệp.


Mình không ăn cắp ăn trộm, không xúi ai nhưng mình mở tiệm cầm đồ, và ngày nào mình cũng mong có ai đó đến cầm đồ, đó cũng là một cách.
Chuyện tiêu thụ của gian, mình không trộm cướp, không xúi ai, nhưng có lòng vui theo, có lòng mong đợi bữa nay có ai tới bán đồ rẻ đồ tốt cho mình, đó cũng là một cách cộng nghiệp. Bởi vì đó là mình tiêu thụ đồ gian.

Nhiều lắm, có vô số tội ác trên đời mình không có tự làm, không xúi, nhưng mình kín đáo lặng lẽ âm thầm vui theo thì đó cũng là một cách cộng nghiệp.


Thí dụ có những xứ sở địa phương, chuyến bay, chuyến xe, nơi chốn, người dân ở đó cùng một lúc chung một hoàn cảnh bị động đất, đất sụp.

Bên Cali có nạn bùn đất, trên núi nửa đêm tự nhiên lôi kéo theo mấy cái nhà đi chung, họ bị chết vùi trong sình, hoặc chiếc phà bên Philippines bình thường không sao, tự nhiên bữa nay nó lật chết vài chục người, hoặc chuyến bay rớt chết vài trăm người, lúc nó rớt xuống thì mỗi người chết một kiểu, chết cháy, chết ngạt, văng ra khỏi máy bay, nổ xé ra làm ba làm bốn mảnh, thì cũng là tai nạn máy bay nhưng mỗi người chết một kiểu, do hồi xưa cũng có cộng nghiệp nào đó.
Ở đây tôi xin nói thêm chữ cộng nghiệp nhiều người hiểu lầm, hiểu không tới.

Cộng nghiệp có nhiều trường hợp :

- Cùng làm chung với nhau một việc gì đó.


Mình không cần thấy mặt nhau, miễn công việc đó cùng là một tác dụng, mục đích và mình đã thực hiện việc đó, chỉ cần thời gian trổ quả trùng hợp nhau thì chúng ta sẽ gặp nhau để cùng lãnh quả tốt hay quả xấu.
Thí dụ như năm 1948 tôi có giúp cho một bà cụ neo đơn, rồi đến năm 1984 quí vị giúp cho một ngôi chùa tăng ni nào đó, thì khi một người thì năm 1948, một người thì năm 1984, tôi với quí vị không quen biết nhau nhưng công việc nó giống nhau, tác dụng, ý nghĩa, lý tưởng, mục đích của hai công việc nó giống nhau, cho nên sẽ có một lúc nào đó trong vòng sanh tử, nếu quả lành của tôi trổ trùng hợp với quả lành của quí vị cũng trổ thì chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu đó, mình cùng được hưởng giàu sang phú quí.

Hoặc cách đây 18 năm có anh chàng đó đi đánh dậm, tức đánh cá, đánh lưới ở ngoài miền Bắc, rồi cách đây 5 năm có anh chàng đó đi bắt cá ở trong miền Nam, 17 năm nữa có anh chàng ở đâu đi bắt cá ở Philippines, ba hoàn cảnh khác nhau, nhưng có thể nghiệp của họ trổ cùng một lúc, tuỳ lực mạnh yếu của tâm lúc tạo nghiệp.
Nên nhớ rằng vô số chúng sanh trong đời này có thể không biết nhau, nhưng nghiệp họ tạo ra nó hoàn toàn có thể cho quả cùng một lúc, chuyện đó không có gì lạ.

Cho nên cộng nghiệp có 2:

Là cùng làm chung với nhau hay làm riêng, và cùng làm loại nghiệp giống nhau.


Chỉ cần nó trổ quả đồng thời thì mình sẽ gặp nhau. Và nó có nhiều sự tương đồng thì sẽ gặp nhau.
Bởi vì chúng sanh quá đông, cho nên xác suất hái quả chung với người khác nó rất cao.
Thí dụ cũng là người VN mà có một số người phải xài nước giếng độc hại, hít thở khí độc của nhà máy hảng xưởng, cả làng bị ung thư.
Nó khiến họ dọn về khu đó dựng nhà cửa sanh con đẻ cái, để cùng nhau chia sẻ nguồn nước độc hại hít thở bầu không khí đó.

_ Có một chuyện nữa là mình cứ tưởng mình nằm yên ở nhà đóng cửa tắt đèn trùm mền online là không gây nghiệp, nhưng không phải đâu.

Mình mở phone, mở Ipad ra lầm lủi coi trang này tin tức kia thấy bực mình, đó là cách cộng nghiệp.
Mở online coi tin thấy sắp có cuộc thượng đỉnh giữa Mỹ và Triều Tiên, thái độ tâm lý lúc mình đọc tin đó cũng là một cách cộng nghiệp.
Mình đứng phía Mỹ hay là Triều Tiên...
... Tôi không đứng về phía ai, chỉ là đơn cử một vài trường hợp.
Có nghĩa là khi mình đọc báo, nghe đài, xem TV, mình sân si trong đó cũng là một cách cộng nghiệp.

Cộng nghiệp với kẻ đăng tin, viết bài, chụp ảnh, quay phim thì đó là mình hè nhau để mà cộng nghiệp, chứ không phải cộng nghiệp là mình hè nhau xắn tay áo, nắm tay cùng nhau thực hiện một việc gì đó, chuyện đó thì nó quá rõ ràng .
Còn đằng này người viết bài, chụp hình họ ở đâu không biết, mình chỉ biết khi mình coi đọc đoạn đó, nhìn tấm ảnh đó mình có phản ứng tâm lý ra sao, thì chính phản ứng tâm lý ấy đó chính là một kiểu cộng nghiệp.

Mỗi ngày quí vị thường xuyên xem mình có cộng nghiệp với ai hay không ? Xem coi mình chuẩn bị gì cho đời sau kiếp khác.Coi mình đang dọn ổ hay dọn nhà, dọn ổ là mình đang sống bằng tâm bất thiện, mình sẽ về ổ chó, ổ heo mình ở.Còn mình sống bằng tâm lành là mình đang dọn nhà mình.

Mỗi ngày mình xem coi mình sẽ về với hội chúng nào?
 
CHUYỆN LỚN- CHUYỆN NHỎ

Khi coi trọng chuyện lớn thì sẽ coi nhẹ chuyện nhỏ. Khi ta coi nặng chuyện lớn là tự nhiên ta sẽ coi nhẹ chuyện nhỏ.
Mà hạnh phúc thay cho kẻ nào làm được câu này đó là biết coi nặng chuyện lớn thì tự nhiên nó coi nhẹ chuyện nhỏ. Khi mà mình làm được như vậy thì nhẹ lắm quý vị.

Rồi quý vị hỏi tôi chuyện nhỏ là chuyện gì. Tôi sẽ nhỏ nhẹ thưa rằng chuyện nhỏ là chuyện gì mình có thể bỏ được mà nó không gây mất mát gì hết đó là câu trả lời mà tôi cho là tốt nhất.

Thí dụ như mình nhiều chuyện, mình bỏ thói nhiều chuyện mình có mất gì không?
Tham, sân, si mình bỏ nó mình có mất gì không?
Tật xấu này tật xấu nọ mình bỏ nó mình có mất cái gì không?

Bí quyết điêu khắc tượng là cái gì? là bỏ đi cái gì không cần thiết cái còn lại gọi là tác phẩm. Các vị còn nhớ công thức này không?

Hiểu rộng ra bài kinh này nó sâu dữ lắm. Cho nên những vị thánh mà làm đúng như vậy thì các vị là những người tạc tượng, những nhà điêu khắc mà. Cho nên ta thấy cái gì thừa thì ta gọt riết thì cái còn xót lại nó chính là giải thoát, cái cốt lõi tinh hoa của đạo nghiệp. ..


Cho nên làm sao làm phước là nhớ cái đó đó, nguyện làm sao đời đời nếu mà có duyên gặp được hiền thánh xin cho con biết lên tiếng lúc cần thiết và biết im lặng lúc cần thiết.
Ta chỉ mất 3,4 năm đầu đời để học nói nhưng ta phải mất vài chục năm thậm chí cả đời để học cách im lặng.


Thì mình thấy không cần thiết thì các Ngài không nói vì sao vậy? chỉ vì 1 lẽ đơn giản thôi khi người ta coi trọng chuyện lớn thì người ta sẽ xem nhẹ cái chuyện nhỏ.

Mà khi ta biết lược ra những chuyện nhỏ thì không còn chuyện gì để hỏi nữa hết. Bởi vì chuyện lớn mà vị thánh quan tâm là gì? đó là cái chuyện im lặng để hành, còn mình thì nói và nghe để học.

Tôi nói là tôi không có đắc cái gì hết trơn nhưng mà tôi có để ý 1 vài trường hợp tôi thấy. Có một số vị gặp tôi họ khoe đó, họ nói trời ơi qua Miến Điện hoan hỉ lắm sư ơi, con thực hành tiến bộ lắm. Mà họ càng khoe chừng nào là tui biết cái bà này không có cửa tiến bộ. Bởi vì hành giả thứ thiệt là cậy miệng họ ra họ cũng không nói bởi vì cậy miệng họ ra họ lại niệm tiếp.
Cậy ra rồi họ niệm là bị cậy chứ đừng có nói là cậy ra mà họ chịu nói đó chính là hành giả thứ thiệt. Bởi vì tôi đã nói không biết bao nhiêu lần : mình mà có đồ quý chừng nào là mình càng giấu càng ém chừng đó, còn cái thứ mà nó đem khoe là cái đồ không đáng khoe. ..

Trích bài giảng KTC- 91
 
LÀ AI ?

Có người hỏi Đức Thế Tôn như sau:
"Con là ai trong cái cuộc đời này, con từ đâu tới, con sẽ đi về đâu".

Đức Phật Ngài nói như thế này:


"Ta không có trả lời những câu hỏi đó cho ngươi, mà ta chỉ có thế này để cho ngươi nghe :

Do không hiểu mọi thứ là khổ.
Do không hiểu mọi đam mê đều là trong khổ.
Do không hiểu muốn hết khổ thì đừng đam mê nó nữa.
Do không hiểu những sự thật này nên những chúng sanh trong đời mới tạo ra các nghiệp thiện ác.
Do có tạo ra các nghiệp thiện ác nên mới sanh ra các cái tâm đầu thai để sanh vào các cõi.
Do có mặt ở các cõi nên người ta mới có các căn.
Do có các căn nên mới có 6 xúc, 6 thọ.
Từ cái 6 xúc, 6 thọ đó nó mới nảy ra 6 ái và 4 thủ.
Từ 4 cái thủ mới sanh ra 2 hữu.
Từ 2 hữu mới nãy ra tứ sanh.
Từ cái tứ sanh nên người ta mới tìm ra lối thoát cho nó hết khổ.


Người ta lại tiếp tục bằng vào cái ngu của mình, bằng vào cái vô mình của mình trong 4 đế.
Người ta lại tiếp tục bằng vào cái ngu đó tạo ra các nghiệp thiện ác. Cứ như vậy cái vòng tròn đó được tái hiện." .....

Cho nên có trường hợp có người hỏi Bạch Thế Tôn con là ai trong cuộc đời này. Thì Ngài không có nói con là ai.
Mà Ngài chỉ phân tích như sau: "Con còn không có thì làm sao là ai được.


Ở đây không có ai hết, chỉ có các pháp tùy duyên vận hành và hiện hữu."
Hễ ở đâu có tham, sân, si thì ở đó có khổ, có ưu, có khổ thân, khổ tâm.
Ở đâu có trí tuệ, thiền định, kham nhẫn thì ở đó có hỉ có lạc, có sướng thân, sướng tâm. Chỉ như vậy thôi.


Cứ thiện thì tạo ra hỉ lạc, mà ác nó làm ra khổ ưu.

Mà cứ đi vòng vòng, vòng vòng, vòng vòng như vậy đó. Thì con chính là cái vòng vòng đó đó. Chứ Ngài không có nói rõ con là ai. Như vậy đây là trường hợp Ngài trả lời bằng cách phân tích.

Đôi khi vì vấn đề phải được phân tích mới nói hết ý. Đôi khi phải phân tích chỉ vì người nghe quá đơn giản.

Trích bài giảng KTC-85
 
Ở đây chủ threat tổng hợp lại rất nhiều bài từ trang toaikhanh.com của sư Giác Nguyên.
Bạn ghi thêm nguồn vào và dẫn thêm link cho những ai hữu duyên vào đọc
Xin cám ơn
 
Ở đây chủ threat tổng hợp lại rất nhiều bài từ trang toaikhanh.com của sư Giác Nguyên.
Bạn ghi thêm nguồn vào và dẫn thêm link cho những ai hữu duyên vào đọc
Xin cám ơn
Mình lấy trong group kín fb của các bạn chép lại bài giảng và của một số vị như Viên Minh, Sán Nhiên, hay các Sayadaw nữa

Trang toaikhanh.com đa số là thiên về giáo lý, học thuật quá. Không tiện cho người mới tiếp cận.
 
Bữa h xàm đổi id ko cho reset password nên ko vào đc.
Vẫn có vào xem nhưng ko comment đc.
Nghe đâu xam có arahat nên cố vào đảnh lễ.
 
Bữa h xàm đổi id ko cho reset password nên ko vào đc.
Vẫn có vào xem nhưng ko comment đc.
Nghe đâu xam có arahat nên cố vào đảnh lễ.
Clm hài thiệt chứ =))
Allah Háng xem bản dịch bát nhã ba la mật đa rồi giác ngộ =))

Mấy người mà nt hỏi thì t gửi link + tài liệu pdf.
Chứ đm up link đây nhiều thằng nó vô phá mắc công lắm.
Thậm chí 1 số bài viết t sửa lại cho dễ nhìn, lượt bớt nội dung ko phải cốt lõi thì ko để tên tác giả luôn. Đm vô fb người ta phá thì hơi khó :d
 
Mình lấy trong group kín fb của các bạn chép lại bài giảng và của một số vị như Viên Minh, Sán Nhiên, hay các Sayadaw nữa

Trang toaikhanh.com đa số là thiên về giáo lý, học thuật quá. Không tiện cho người mới tiếp cận.
Dạo này cũng có đọc về cẩm nang nghiên cứu thắng pháp của ngày Sayadaw Silananda và vi diệu pháp giảng giải của sư Chánh Minh.
Ngộ ra một điều là càng học càng thấy mình càng ngu :))
 
Dạo này cũng có đọc về cẩm nang nghiên cứu thắng pháp của ngày Sayadaw Silananda và vi diệu pháp giảng giải của sư Chánh Minh.
Ngộ ra một điều là càng học càng thấy mình càng ngu :))
Đúng r, càng học càng lòi ra cái vô minh nhiều. Chứ học mà thấy mình hay là ko ổn ^:)^
Dạo này t nghiên cứu dòng Achan Neab, thấy cũng quan trọng pháp học lắm.
 
Clm hài thiệt chứ =))
Allah Háng xem bản dịch bát nhã ba la mật đa rồi giác ngộ =))

Mấy người mà nt hỏi thì t gửi link + tài liệu pdf.
Chứ đm up link đây nhiều thằng nó vô phá mắc công lắm.
Thậm chí 1 số bài viết t sửa lại cho dễ nhìn, lượt bớt nội dung ko phải cốt lõi thì ko để tên tác giả luôn. Đm vô fb người ta phá thì hơi khó :d
Thật ra cũng cố log vào để chửi nó cho tỉnh ra nhưng mà lòng từ bi cũng có giới hạn.
Mạo phạm thánh nhân nghiệp nặng lắm.
Thế gian này máu lệ đủ rồi, thêm vài tr kiếp làm súc sinh tội nghiệp nó.
"Người ngu sinh với búa từ miệng, tự chặt lấy thân"
 

Có thể bạn quan tâm

Top