• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Live Minh Tuệ lại nhận thêm đồ đệ : Kim Cang Hộ Pháp Đã đến Thái Lan

Xem cái mục 8 đi thằng ngu, mẹ mày tao đéo muốn rep mày nữa. Cút
dcm mày ngu lại gào mồm. Thiền là phương tiện để đưa tới Định trong bát chánh đạo. Còn Định trong bát chánh đạo là khác.
Thế nào lần thứ 11 vẫn ko đưa được bằng chứng ô Tuệ tu tiểu thừa chỗ nào ah?
 
Sửa lần cuối:
Mày xem lại mục 8, chánh định dùm tao thằng ngu.
Định là cố định tâm thằng ngu ạ
Đéo phải thiền.
Nếu thiền thì bát chánh đạo là chánh thiền đéo phải chánh định.
Thiền định nó đi chung với nhau nghĩa là phải định được tâm mới thiền được
Không là lạc vào 50 ngũ ấm ma thấy những thứ giả tạo mà tưởng là đắc quả
 
Thằng ngu
Tứ diệu đế bát chánh đạo là thứ gần như đã giác ngộ rồi Thích Ca mới phát hiện ra
Khi phát hiện ra thì đồng nghĩa giác ngộ
Còn để đi đến trạng thái giác ngộ ông phải bắt đầu bằng thiền định
Đầu tiên từ kinh nghiệm thiền định lúc còn nhỏ đạt đến tứ thiền mới đắc tam minh
chuẩn. Thiền chỉ là phương tiện để Định.
Nó cũng giống mục đích của mày là từ hà nội đi sg chẳng hạn. thì có nhiều phương tiên để đi, tàu lúc máy bay, oto, đi bộ. Từ các mức có thể thiền khác nhau thì là phương tiện để đi đến Định nhanh chậm khác nhau. Vì thế người có ngộ tính thường tu luyện rất nhanh. đạo Phật coi trọng ngộ tính là vậy.
@Chaybodapxe1806 chó ngu vào mà nghe.
 
Định là cố định tâm thằng ngu ạ
Đéo phải thiền.
Nếu thiền thì bát chánh đạo là chánh thiền đéo phải chánh định.
Thiền định nó đi chung với nhau nghĩa là phải định được tâm mới thiền được
Không là lạc vào 50 ngũ ấm ma thấy những thứ giả tạo mà tưởng là đắc quả
Haha. Mày biết giải thích cho nó thấy cái ngu của nó rồi đấy.
 
Định là cố định tâm thằng ngu ạ
Đéo phải thiền.
Nếu thiền thì bát chánh đạo là chánh thiền đéo phải chánh định.
Thiền định nó đi chung với nhau nghĩa là phải định được tâm mới thiền được
Không là lạc vào 50 ngũ ấm ma thấy những thứ giả tạo mà tưởng là đắc quả
Mày tìm hiểu cho kĩ nha, lúc học qua ông thầy thứ hai, đã thiền định bét nhè, nhưng Thích Ca vẫn chưa đắc đạo, cho đến khi ổng ngồi dưới gốc bồ đề, thiền định bằng tứ diệu đế, chắc mày ko biết cái thứ tư là đạo trong tứ diệu đế là bát chánh đạo, và cái thứ 8 là chánh định bao gồm thiền định trong đó rồi. Mày còn vô minh về phật lắm bản đồ.
 
chuẩn. Thiền chỉ là phương tiện để Định.
Nó cũng giống mục đích của mày là từ hà nội đi sg chẳng hạn. thì có nhiều phương tiên để đi, tàu lúc máy bay, oto, đi bộ. Từ các mức có thể thiền khác nhau thì là phương tiện để đi đến Định nhanh chậm khác nhau. Vì thế người có ngộ tính thường tu luyện rất nhanh. đạo Phật coi trọng ngộ tính là vậy.
@Chaybodapxe1806 chó ngu vào mà nghe.
Mày ngu, tao đéo tiếp. Cút.
 
mấy sư khác đi theo thì anh Báu youtube anh ấy đuổi anh méo cho đi
đến thằng này có fame thì anh báu đồng ý :))
anh báu thích cho ai đi cùng thì anh báu cho còn anh báu ko thích ai thì anh báu ko cho
thế mà thằng @atlas05 vẫn tôn anh báu như ala hán sống
Báu nó đéo cho thằng này nó đấm cho, nhìn thằng Hộ Pháp này nó không ngại va chạm đâu
 
Mày tìm hiểu cho kĩ nha, lúc học qua ông thầy thứ hai, đã thiền định bét nhè, nhưng Thích Ca vẫn chưa đắc đạo, cho đến khi ổng ngồi dưới gốc bồ đề, thiền định bằng tứ diệu đế, chắc mày ko biết cái thứ tư là đạo trong tứ diệu đế là bát chánh đạo, và cái thứ 8 là chánh định bao gồm thiền định trong đó rồi. Mày còn vô minh về phật lắm bản đồ.
Mày có bằng chứng gì không ?
 
Mày tìm hiểu cho kĩ nha, lúc học qua ông thầy thứ hai, đã thiền định bét nhè, nhưng Thích Ca vẫn chưa đắc đạo, cho đến khi ổng ngồi dưới gốc bồ đề, thiền định bằng tứ diệu đế, chắc mày ko biết cái thứ tư là đạo trong tứ diệu đế là bát chánh đạo, và cái thứ 8 là chánh định bao gồm thiền định trong đó rồi. Mày còn vô minh về phật lắm bản đồ.
Thái tử hình như cũng không ở lâu tại thành Vương Xá. Vì nóng lòng tìm giải thoát giác ngộ, ngài rời kinh thành và đặt mình dưới sự hướng dẫn của một đạo sư mệnh danh Àlàra Kàlàma. Ðạo sư Àlàra không thuộc về hàng lãnh đạo thời danh, vì ta chỉ nghe tên vị này qua các nguồn kinh Phật và liên hệ đến việc tầm cầu giác ngộ của thái tử Siddhattha mà thôi.

Thái tử miêu tả việc học tập dưới sự hướng dẫn của đạo sư Àlàra như sau:

“Sau khi đã xuất gia tầm cầu cái thánh thiện tối thắng an tịnh, ta đến Àlàra Kàlàma và nói: “Bạch tôn giả Kàlàma, vãn sinh ước mong sống đời Phạm hạnh theo giáo pháp và giới luật của tôn giả”. Vị ấy đáp: “Này hiền giả, hãy ở lại đây. Giáo pháp này là như vậy, khiến cho người có trí chẳng bao lâu có thể chứng đạt tri kiến bằng đạo sư của mình và an trú trong ấy”. Quả thật, ta học tập thông giáo lý ấy một cách nhanh chóng. Nhưng ta cũng chỉ phát biểu suông và đọc tụng giáo lý mà ta đã học được từ các đệ tử trưởng lão, và rồi cũng giống như các vị kia, ta cho rằng ta đã biết, đã hiểu giáo lý này.

Rồi tư tưởng này khởi lên trong trí ta: “Chắc hẳn đạo sư Àlàra Kàlàma tuyên thuyết giáo lý này không phải chỉ vì lòng tin, mà vì chính vị ấy đã thực sự chứng đắc bằng tri kiến trực giác”. Ta liền bảo ngài: “Bạch Tôn giả Kàlàma, ngài đã tự chứng đắc giáo lý này bằng trực giác cho đến mức độ nào?” và ngài tuyên bố Vô Sở Hữu Xứ với ta.

Ta lại suy nghĩ: “Không phải chỉ Àlàra có lòng tin, có tinh tấn, có niệm, có định, có tuệ. Ta cũng có đủ tất cả những điều kiện này”. Và chẳng bao lâu ta cũng đã chứng đắc giáo lý cùng an trú trong ấy. Ta nói chuyện này với Àlàra Kàlàma và vị ấy bảo: “Thật là ích lợi cho chúng ta, thật là an lạc cho chúng ta khi có được tôn giả này làm vị đồng Phạm hạnh của chúng ta. Giáo pháp này ta đã chứng đắc, tôn giả cũng đã chứng đắc. Ta như thế nào, tôn giả cũng vậy, tôn giả thế nào, ta cũng như vậy. Này tôn giả, chúng ta sẽ cùng hướng dẫn hội chúng đệ tử này!”. Như vậy vị đạo sư này đã xem ta như người đồng đẳng và rất tôn trọng ta. Song ta suy nghĩ: “Giáo pháp này không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn mà chỉ đưa đến Vô Sở Hữu Xứ”. Vì thế ta chán ngán, không muốn chấp nhận giáo pháp này nữa, ta bác bỏ nó và ra đi”.
(MN 26.16, giản lược)

Lòng hiếu kỳ của chúng ta về những gì tôn giả Àlàra thực sự thuyết giảng vẫn chưa được thỏa mãn vì thái tử Siddhattha xem điều ấy không đáng kể. Từ ngữ “Vô Sở Hữu Xứ” chỉ một trạng thái thiền định trong đó vị hành giả tỉnh thức nhưng hướng sâu vào nội tâm. Phương pháp thiền định này là một điểm đặc biệt của đạo sư Àlàra. Một đệ tử của ngài là Pukkusa về sau trở thành đệ tử của đức Phật (DN 16.2.27)[4] kể lại có một lần đạo sư Àlàra ngồi dưới gốc cây, hoàn toàn tỉnh thức mà không hề chú ý đến năm trăm cỗ xe bò chạy ngang qua cạnh ngài vì ngài nỗ lực chú tâm thiền định hướng nội rất sâu. Những dấu hiệu ít ỏi này cho ta thấy hệ thống tu thiền của đạo sư Àlàra có thể là một hình thái Yoga thuở ban đầu.

cái ông đạo sư thứ hai dạy là yoga đéo phải thiền định mà Thích Ca ngồi ở cây bồ đề để đắc quả
 
H vẫn có người nghĩ thiền với định là 1 à? 1 cái là phương tiện, 1 cái là trạng thái mà.
@Chaybodapxe1806 chó ngu vào nghe người ta nói đây.
Định nó như là mày cần từ hn vào sg chẳng hạn. Thì thiền chỉ là một trong những phương tiện để mày đi vô đó. Có những bậc thánh tăng hoặc hơn có cách tu hành khác thì ngay lúc ko thiền họ cũng Định được. thiền họ cũng Định được.
Thiền là phương tiện để đi tới trạng thái Định.
 
Thái tử hình như cũng không ở lâu tại thành Vương Xá. Vì nóng lòng tìm giải thoát giác ngộ, ngài rời kinh thành và đặt mình dưới sự hướng dẫn của một đạo sư mệnh danh Àlàra Kàlàma. Ðạo sư Àlàra không thuộc về hàng lãnh đạo thời danh, vì ta chỉ nghe tên vị này qua các nguồn kinh Phật và liên hệ đến việc tầm cầu giác ngộ của thái tử Siddhattha mà thôi.

Thái tử miêu tả việc học tập dưới sự hướng dẫn của đạo sư Àlàra như sau:

“Sau khi đã xuất gia tầm cầu cái thánh thiện tối thắng an tịnh, ta đến Àlàra Kàlàma và nói: “Bạch tôn giả Kàlàma, vãn sinh ước mong sống đời Phạm hạnh theo giáo pháp và giới luật của tôn giả”. Vị ấy đáp: “Này hiền giả, hãy ở lại đây. Giáo pháp này là như vậy, khiến cho người có trí chẳng bao lâu có thể chứng đạt tri kiến bằng đạo sư của mình và an trú trong ấy”. Quả thật, ta học tập thông giáo lý ấy một cách nhanh chóng. Nhưng ta cũng chỉ phát biểu suông và đọc tụng giáo lý mà ta đã học được từ các đệ tử trưởng lão, và rồi cũng giống như các vị kia, ta cho rằng ta đã biết, đã hiểu giáo lý này.

Rồi tư tưởng này khởi lên trong trí ta: “Chắc hẳn đạo sư Àlàra Kàlàma tuyên thuyết giáo lý này không phải chỉ vì lòng tin, mà vì chính vị ấy đã thực sự chứng đắc bằng tri kiến trực giác”. Ta liền bảo ngài: “Bạch Tôn giả Kàlàma, ngài đã tự chứng đắc giáo lý này bằng trực giác cho đến mức độ nào?” và ngài tuyên bố Vô Sở Hữu Xứ với ta.

Ta lại suy nghĩ: “Không phải chỉ Àlàra có lòng tin, có tinh tấn, có niệm, có định, có tuệ. Ta cũng có đủ tất cả những điều kiện này”. Và chẳng bao lâu ta cũng đã chứng đắc giáo lý cùng an trú trong ấy. Ta nói chuyện này với Àlàra Kàlàma và vị ấy bảo: “Thật là ích lợi cho chúng ta, thật là an lạc cho chúng ta khi có được tôn giả này làm vị đồng Phạm hạnh của chúng ta. Giáo pháp này ta đã chứng đắc, tôn giả cũng đã chứng đắc. Ta như thế nào, tôn giả cũng vậy, tôn giả thế nào, ta cũng như vậy. Này tôn giả, chúng ta sẽ cùng hướng dẫn hội chúng đệ tử này!”. Như vậy vị đạo sư này đã xem ta như người đồng đẳng và rất tôn trọng ta. Song ta suy nghĩ: “Giáo pháp này không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn mà chỉ đưa đến Vô Sở Hữu Xứ”. Vì thế ta chán ngán, không muốn chấp nhận giáo pháp này nữa, ta bác bỏ nó và ra đi”.
(MN 26.16, giản lược)

Lòng hiếu kỳ của chúng ta về những gì tôn giả Àlàra thực sự thuyết giảng vẫn chưa được thỏa mãn vì thái tử Siddhattha xem điều ấy không đáng kể. Từ ngữ “Vô Sở Hữu Xứ” chỉ một trạng thái thiền định trong đó vị hành giả tỉnh thức nhưng hướng sâu vào nội tâm. Phương pháp thiền định này là một điểm đặc biệt của đạo sư Àlàra. Một đệ tử của ngài là Pukkusa về sau trở thành đệ tử của đức Phật (DN 16.2.27)[4] kể lại có một lần đạo sư Àlàra ngồi dưới gốc cây, hoàn toàn tỉnh thức mà không hề chú ý đến năm trăm cỗ xe bò chạy ngang qua cạnh ngài vì ngài nỗ lực chú tâm thiền định hướng nội rất sâu. Những dấu hiệu ít ỏi này cho ta thấy hệ thống tu thiền của đạo sư Àlàra có thể là một hình thái Yoga thuở ban đầu.

cái ông đạo sư thứ hai dạy là yoga đéo phải thiền định mà Thích Ca ngồi ở cây bồ đề để đắc quả
Thích Ca ngồi dưới cây bồ đề thực hành tứ diệu đế để đắc đạo.
 
Mày như con chó ghẻ sủa hùa, đéo biết cc gì thì ngậm cái mõm lại
@Chaybodapxe1806 chó ngu vào nghe người ta nói đây.
Định nó như là mày cần từ hn vào sg chẳng hạn. Thì thiền chỉ là một trong những phương tiện để mày đi vô đó. Có những bậc thánh tăng hoặc hơn có cách tu hành khác thì ngay lúc ko thiền họ cũng Định được. thiền họ cũng Định được.
Thiền là phương tiện để đi tới trạng thái Định.
 
Mày như con chó ghẻ sủa hùa, đéo biết cc gì thì ngậm cái mõm lại
ức chưa con chó. Phản biện lại đi. Sao đuối lý xong ngậm miệng lại rồi ah. Tao thấy người ta tranh luận đưa ra dẫn chứng cụ thể. còn mày bất cứ còm nào cũng tiêu cực và chửi như con chó sủa đổng. Bảo sao cuộc đời mày ở ngoài chỉ thế thôi. Cứ hằn học với cả cuộc đời đi thằng già ah. Nghĩa cảnh loại cùn bẩn hằn học ngày nào cũng vậy của uất ức hộc máu mồm mà thương.
 
ức chưa con chó. Phản biện lại đi. Sao đuối lý xong ngậm miệng lại rồi ah. Tao thấy người ta tranh luận đưa ra dẫn chứng cụ thể. còn mày bất cứ còm nào cũng tiêu cực và chửi như con chó sủa đổng. Bảo sao cuộc đời mày ở ngoài chỉ thế thôi. Cứ hằn học với cả cuộc đời đi thằng già ah. Nghĩa cảnh loại cùn bẩn hằn học ngày nào cũng vậy của uất ức hộc máu mồm mà thương.
Mày đéo biết cc gì về phật.
 
Thích Ca ngồi dưới cây bồ đề thực hành tứ diệu đế để đắc đạo.
Thôi đi ngáo
Tứ diệu đế là cái ông ấy nghĩ ra khi gần đắc đạo rồi.
Tức là cửa cuối cùng để giác ngộ
Cửa đầu tiên phải qua chứng tứ thiền mới đắc được tam minh.
Đã không biết còn cãi.
 
Thôi đi ngáo
Tứ diệu đế là cái ông ấy nghĩ ra khi gần đắc đạo rồi.
Tức là cửa cuối cùng để giác ngộ
Cửa đầu tiên phải qua chứng tứ thiền mới đắc được tam minh.
Đã không biết còn cãi.
Tao lạy mày, nếu thiền mà ổng đắc đạo thì ổng đã thiền dưới cây hồng táo lúc ổng còn nhỏ rồi. Đừng nói ổng đi học hai ông thầy nổi tiếng nhất lúc đó về thiền.
 
Mày đéo biết cc gì về phật.
Nghĩa là đéo có bằng chứng hay phản biện gì. Chỉ ngồi sủa đổng thôi đúng ko. Mày biết về đạo Phật thế sao lại xuyên tạc bậy bạ cho ô Tuệ.
Lí do chỉ vì ô đéo đúng mục đích của mày. Mày cay cú. Thế tao mới chửi mày là con chó.
Cả cuộc đời hằn học cay cú
 
Thằng vai u thịt bắp làm PT kia nói đéo có kiến thức nên tao ghét. Nó 10 năm thì tao hơn 15 năm tìm hiểu sâu và đi các thầy nghe thuyết pháp. Bắc tông và Nam tông hay phật giáo nguyên thuỷ tao đều đi qua. Và kết luận thầy thì ít mà khầy thì nhiều, đặc biệt nhiều khầy rất dê và tham tiền.

Minh Tuệ là người hiếm hoi giữ giới, trì giới rất nghiêm ngặt. Đủ 250 giới thì ko đơn giản, muốn bước vào cõi thiền thì giữ giới là cái đầu tiên.

Như mấy ông Quang hay ông Minh mà thiền xíu thì cặc dựng đứng, thấy vàng bạc và gái đẹp vây quanh
Dựa vào những dấu hiệu nào để biết những người đó dê?
T thắc mắc thế này, đã là con người đều có nhu cầu tình dục. Những vị tu hành giữ giới nghiêm ngặt, tức là cả đời ko qhtd thì sao họ có thể chịu nổi nhỉ.
 
Tao lạy mày, nếu thiền mà ổng đắc đạo thì ổng đã thiền dưới cây hồng táo lúc ổng còn nhỏ rồi. Đừng nói ổng đi học hai ông thầy nổi tiếng nhất lúc đó về thiền.
Thiền định là con đường để đưa đến giải thoát.
Giới định và tuệ
Giới là nòng cốt từ giới nghiêm cẩn mới sinh ra định tâm từ định tâm khi thiền mới không xao động mới sinh ra trí tuệ
Tứ đế bát chánh đạo là từ trí tuệ có được khi thiền định sinh ra.
Cũng như phải có bà mẹ mới có đứa con được
Còn thiền định là trạng thái ly dục.
Khi từ bỏ khổ hạnh từ bỏ mọi biện pháp yoga của các đạo sư Ấn.
Con đường cuối cùng mà Thích Ca đi chính là thiền định xuất phát từ hồi ức khi thích Ca thiền định ở cây hồng lúc nhỏ.
Khi nhỏ ông ta chưa giải thoát được vì thiếu duyên thiếu quá trình trãi nghiệm thiếu nhiều thứ để tạo thành quá trình giác ngộ
 
Nghĩa là đéo có bằng chứng hay phản biện gì. Chỉ ngồi sủa đổng thôi đúng ko. Mày biết về đạo Phật thế sao lại xuyên tạc bậy bạ cho ô Tuệ.
Lí do chỉ vì ô đéo đúng mục đích của mày. Mày cay cú. Thế tao mới chửi mày là con chó.
Cả cuộc đời hằn học cay cú
Mày còn ko biết tiểu thừa, đại thừa, nhầm lẫn kinh tè le hết, ngu lắm
 
Mày còn ko biết tiểu thừa, đại thừa, nhầm lẫn kinh tè le hết, ngu lắm
Hehe lại đánh trống lảng lần thứ 12. Thế ô Tiueej tu tiểu thừa bh thế. Dcm về đọc lại lịch sử tiểu thừa, đại thừa đi nhé. Bố mày dẫn chứng rõ ràng hết ở trên. Có link đi kèm. Còn mày ngoài sủa đổng mày có dẫn chứng gì ko?
 
Hehe lại đánh trống lảng lần thứ 12. Thế ô Tiueej tu tiểu thừa bh thế. Dcm về đọc lại lịch sử tiểu thừa, đại thừa đi nhé. Bố mày dẫn chứng rõ ràng hết ở trên. Có link đi kèm. Còn mày ngoài sủa đổng mày có dẫn chứng gì
Mày ngu lắm, ko tiểu thừa mà con tu theo Thích Ca, theo chánh pháp?
 
Hehe lại đánh trống lảng lần thứ 12. Thế ô Tiueej tu tiểu thừa bh thế. Dcm về đọc lại lịch sử tiểu thừa, đại thừa đi nhé. Bố mày dẫn chứng rõ ràng hết ở trên. Có link đi kèm. Còn mày ngoài sủa đổng mày có dẫn chứng gì ko?
Mày ngậm mẹ cái mõm bò ngu lại.
13 hạnh đầu-đà (Pāli: dhutaṅga) là những pháp tu khổ hạnh nhằm rèn luyện sự từ bỏ, thanh tịnh và giải thoát trong đời sống tu hành. Các hạnh này xuất phát từ truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Tiểu Thừa - Theravāda) và được thực hành phổ biến bởi các tu sĩ trong truyền thống này.




13 hạnh đầu-đà


  1. Mặc y phấn tảo (paṃsukūlikaṅga)
    • Mặc y do tự mình nhặt từ đống rác hoặc vải bỏ đi, không nhận y mới hoặc y quý giá.
  2. Chỉ sở y nhất bộ (tecīvarikaṅga)
    • Chỉ sở hữu tối đa ba y phục, không dùng thêm y nào khác.
  3. Khất thực (piṇḍapātikaṅga)
    • Đi khất thực, không tự nấu ăn, duy trì tâm không phân biệt khi nhận đồ ăn.
  4. Nhất tọa thực (ekāsanikaṅga)
    • Chỉ ăn một bữa trong ngày và không ăn vặt giữa các bữa.
  5. Tiết lượng thực (pattapiṇḍikaṅga)
    • Chỉ ăn vừa đủ, không ăn quá mức cần thiết.
  6. Cư trú ở rừng (āraññikaṅga)
    • Sống ở nơi thanh vắng, xa rời khu dân cư để chuyên tâm tu tập.
  7. Cư trú dưới gốc cây (rukkhamūlikaṅga)
    • Nghỉ ngơi và ngủ dưới gốc cây, không ở trong nhà hoặc tịnh thất.
  8. Cư trú nơi trống trải (abbhokāsikaṅga)
    • Ở ngoài trời, không trú trong bất kỳ mái che nào.
  9. Cư trú trong nghĩa địa (sosānikaṅga)
    • Sống ở nghĩa địa hoặc nơi chôn cất, nhằm thực hành quán bất tịnh và vô thường.
  10. Không nằm (nesajjikaṅga)
    • Thực hành không nằm nghỉ, chỉ ngồi hoặc đứng, để giữ tâm tỉnh thức.
  11. Dùng bất cứ chỗ nào cũng được (yathāsanthatikaṅga)
    • Sử dụng bất kỳ chỗ ngồi hoặc nơi trú nào mà không đòi hỏi sự thoải mái.
  12. Không nhận thực phẩm được mời riêng (sapadānacārikaṅga)
    • Đi khất thực tuần tự từng nhà, không chấp nhận bữa ăn được mời đặc biệt.
  13. Không nhận thực phẩm dư thừa (ekabhattikaṅga)
    • Không nhận thêm thức ăn sau khi đã ăn xong bữa chính.



13 hạnh đầu-đà thuộc truyền thống nào?


  • 13 hạnh này thuộc Phật giáo Nguyên thủy (Tiểu Thừa), là pháp tu mà Đức Phật khuyến khích dành cho các Tỳ-kheo để rèn luyện sự xả ly và kiên định trong hành trình giác ngộ.
  • Trong Đại Thừa, tuy không chú trọng thực hành 13 hạnh đầu-đà một cách cụ thể, nhưng tinh thần xả ly, buông bỏ và sống đơn giản vẫn được khuyến khích, nhất là trong các trường phái Thiền Tông hoặc Mật Tông.



Ý nghĩa của 13 hạnh đầu-đà


  • Xả ly: Giúp hành giả rời bỏ các dục lạc thế gian và sống thanh tịnh.
  • Rèn luyện tâm: Giúp hành giả rèn luyện ý chí, vượt qua tham ái và chấp trước.
  • Gần gũi Đức Phật: Các hạnh đầu-đà được Đức Phật thực hành và khuyến khích trong Tăng đoàn để giữ gìn truyền thống giác ngộ.

Tuy 13 hạnh đầu-đà thuộc truyền thống Tiểu Thừa, nhưng tinh thần khổ hạnh này có giá trị thực tiễn cho mọi hành giả Phật giáo muốn tiến gần hơn đến sự giác ngộ.
 
Có thể ổng quan niệm vậy, nhưng ổng lại nhầm lẫm ko đáng có, trong khi ổng tu tập theo tiểu thừa nguyên thủy lại đi niệm a di đà, và lại tin có phật a di đà, đòi tu thành a di đà, mày xem phỏng vấn ổng sẽ biết.
Về cơ bản tao hiểu ý của thầy Minh Tuệ là khi đức Phật đã ko còn tham sân si nữa thì việc niệm tên phật nào cũng ko quan trọng, phật a di dà với phật thích ca mâu ni cũng đều là phật. Ý mày là phật a di dà ko nằm trong vũ trụ của phật giáo nguyên thủy. T hiểu nhưng nếu mày bỏ cái tên đi và hướng vào việc tu tập của sư Minh Tuệ thì là đúng theo phật giáo nguyên thủy mà.
Trong 1 cuộc phỏng vấn có hỏi sư thần tượng ai thì se Minh Tuệ cũng trả lời là thần tượng duy nhất phật thích ca thôi. Ko nhắc đến phật a di đà. Theo t phỏng đoán là câu "a di đà phật" nó ngấm vào trong tiềm thức của người Việt rồi lên rất khó để niệm "thích ca mâu ni phật" trong vô thức. Gần đây thấy sư minh tuệ hay nói "xạ thu, xạ thu". T đéo hiểu lắm câu nói này nhưng thấy tần xuất niệm a di đà phật cũng ít đi nhiều rồi.
 

Có thể bạn quan tâm

Top