• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Có Hình Các tôn giáo và tín ngưỡng ở miền Tây Việt Nam

Phần 1: Phật Giáo Hòa Hảo

I. Huỳnh Phú Sổ - Nhà triết học người Việt Nam

Huỳnh Phú Sổ – Wikipedia tiếng Việt


Sơ lược :

Huỳnh, cũng viết là: Huyền
Còn gọi là: Đạo Khùng, hoặc Phật Sống
Sinh năm: 1919, Hòa Hảo, Nam Kỳ (nay thuộc Việt Nam)
Mất năm: 1947, Long Xuyên (hưởng dương 28 tuổi)
Người sáng lập: Phật giáo Hòa Hảo
Chủ đề nghiên cứu: Hòa Hảo


Huỳnh Phú Sổ (sinh năm 1919, tại Hòa Hảo, Nam Kỳ—mất năm 1947, tại Long Xuyên) là một triết gia, nhà cải cách Phật giáo người Việt Nam, và là người sáng lập (năm 1939) tôn giáo Phật giáo Hòa Hảo (hay còn gọi là Hòa Hảo). Ông cũng là một nhà hoạt động quân sự và chính trị chống Pháp, chống cộng sản.

1. Tuổi Trẻ và Sự Cải Cách Phật Giáo

Huỳnh Phú Sổ có tuổi thơ ốm yếu, được một nhà sư Phật giáo giáo dục và dạy dỗ. Ở tuổi 20, ông được cho là đã được chữa khỏi bệnh một cách kỳ diệu. Sau đó, ông bắt đầu giảng dạy về cải cách Phật giáo, kêu gọi trở về với Phật giáo Nguyên Thủy (Theravāda – “Con đường của các trưởng lão”) thay vì Phật giáo Đại Thừa (Mahāyāna – “Cỗ xe lớn”) phổ biến ở Việt Nam. Ông nhấn mạnh vào sự khổ hạnh, lối sống thanh đạm, thờ cúng đơn giản và sự tự cứu rỗi cá nhân.

Phật giáo Hòa Hảo là sự kết hợp của các yếu tố Phật giáo, thờ cúng tổ tiên, nghi lễ tín ngưỡng dân gian, các yếu tố của học thuyết Nho giáo và tập quán bản địa Việt Nam. Tín đồ Hòa Hảo có lá cờ riêng, màu nâu đỏ, và các ngày lễ đặc biệt của họ.

2. Sự Nghiệp và Danh Tiếng

Huỳnh Phú Sổ đi khắp Việt Nam, hành nghề chữa bệnh bằng thảo dược và châm cứu. Trong các bài giảng, ông có sức thuyết phục mạnh mẽ, gần như thôi miên thính giả, và được gọi là Đạo Khùng (“Nhà sư điên”). Ông dự đoán chính xác sự sụp đổ của Pháp trong Thế chiến II, cuộc xâm lược Đông Dương của Nhật Bản, và sau đó là sự can thiệp của Hoa Kỳ. Thành công trong việc tiên tri khiến các tín đồ gọi ông là Phật Sống.

Khi danh tiếng và số lượng tín đồ tăng lên, những bài diễn thuyết của ông khiến chính quyền thực dân Pháp chú ý. Ông bị trục xuất từ tỉnh này sang tỉnh khác nhưng vẫn thu hút thêm môn đồ. Cuối cùng, ông bị đưa vào một trại tâm thần, nơi ông thuyết phục được bác sĩ phụ trách cải đạo sang triết lý của mình. Trong cơn tuyệt vọng, người Pháp cố gắng lưu đày ông sang Lào, nhưng năm 1942 ông bị các đặc vụ Nhật Bản bắt cóc và giam giữ tại Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh).

3. Căng Thẳng và Cái Chết

Sau chiến tranh, sự bất đồng với cả thực dân Pháp và cộng sản Việt Minh khiến giáo phái Hòa Hảo trở thành một lực lượng tôn giáo-chính trị-quân sự hung hãn. Huỳnh Phú Sổ bị bắt cóc khi đang trên đường tham dự một cuộc họp nhằm hòa giải mâu thuẫn giữa Hòa Hảo và Việt Minh. Ông bị xử tử sau một phiên "xét xử" tại Long Xuyên.

Nhiều tín đồ Hòa Hảo không tin rằng ông đã chết và dự đoán ông sẽ trở lại trong thời điểm khủng hoảng.


II. Phật Giáo Hòa Hảo

Hòa Hảo - Phong trào tôn giáo Phật giáo Việt Nam

Hòa Hảo là một phong trào tôn giáo Phật giáo Việt Nam được thành lập vào năm 1939 bởi nhà cải cách Phật giáo Huỳnh Phú Sổ. Cùng với nhóm tôn giáo dung hợp Cao Đài, Hòa Hảo là một trong những nhóm đầu tiên khởi xướng các cuộc xung đột vũ trang chống lại thực dân Pháp và sau đó là quân Nhật chiếm đóng.

Phong trào Hòa Hảo có cơ sở tại vùng đồng bằng sông Cửu Long trù phú ở miền Nam Việt Nam, nơi tín đồ chủ yếu là nông dân, tá điền, và lao động nông thôn. Hòa Hảo phát triển nhanh chóng trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đông Dương trong Thế chiến II. Sau chiến tranh, phong trào này tiếp tục là một lực lượng độc lập trong chính trị Việt Nam, phản đối cả thực dân Pháp lẫn phong trào dân tộc chủ nghĩa Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Sau năm 1954, Hòa Hảo và Cao Đài bắt đầu tiến hành các cuộc đấu tranh vũ trang chống lại chính phủ được Hoa Kỳ hậu thuẫn của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tại thời điểm ông Diệm bị ám sát vào năm 1963, Hòa Hảo đã kiểm soát một số tỉnh miền Nam và miền Tây Nam Bộ.

Dù nhiều tín đồ Hòa Hảo gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (Mặt trận Giải phóng) do cộng sản hậu thuẫn vào cuối thập niên 1960, Hòa Hảo vẫn là một lực lượng độc lập có sức mạnh trong chính trị miền Nam Việt Nam cho đến khi phe cộng sản giành chiến thắng hoàn toàn vào năm 1975.

Phật giáo Hòa Hảo – Wikipedia tiếng Việt
Ban Dân vận Bình Phước
Đồng bào Phật giáo Hòa Hảo nguyện thực hiện đúng tôn chỉ hành đạo “Học Phật,  tu nhân”
 
Sửa lần cuối:
Cái đích cuối đều là giải thoát, tại sao lại có ý tưởng về bồ tát đạo nhỉ??


Kiểu Phật là 1 vị trải qua bao năm tháng mới tìm ra cách thức, sau đó dạy lại cho mọi người.
Khác nhau ở chỗ là người dạy.

Vậy cái ý về bồ tát đạo nó hơi cấn cấn nhỉ.
Bồ Tát là chữ phiên âm từ Boddhisatta
Boddhi là trí tuệ để giác ngộ. Chữ Boddhi đọc theo phiên âm còn gọi là Bồ Đề (Cây Bồ Đề, Hột Bồ Đề ...).
Satta là chúng sanh (chúng sanh = những sinh vật hữu tình (có tri có giác) của thế gian).

=> Bồ Tát = người tầm cầu trí tuệ giác ngộ.
=> Bất cứ ai cầu trí tuệ giác ngộ = Bồ Tát.

Bồ Tát có thể kể thành 2 :


- Bồ Tát đã được thọ ký ( Chắc chắn thành Phật)
- Bồ Tát chưa được thọ ký (Không chắc chắn hay bất định).

Được thọ ký là người đã tu tập đủ , viên mãn 30 pháp Ba la mật (Thập Độ) - cái này tra thêm trên google.

=> A La Hán hay Phật đều từ Bồ Tát mà thành.
=> (1)Phật cũng là 1 vị A La Hán và (2)A La Hán cũng là 1 vị Phật.


Chữ Phật = Buddha = Giác Ngộ. A La Hán và Phật đều đã là người đã giác ngộ.

Vậy sự khác nhau giữa Phật và A La Hán là gì ?

Phật Gotama hay còn gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni gọi là Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).
Còn A La Hán gọi là Phật Thinh Văn (Sāvakabuddha).

Đọc thêm ở link này : https://theravada.vn/chuong-i-2-duc-phat-doc-giac-paccekabuddha/

Còn về lý tưởng Bồ Tát Đạo là của sau này phát triển.
Ví dụ như Đại học Harvard, họ không hề đào tạo Bill Gate, Mark Zuckerberg, Elon Musk ...
Họ chỉ đào tạo sinh viên đại học Harvard. Còn ra đời cỡ nào là tùy thuộc vào nền tảng, trình độ mỗi người.

Cũng vậy, có người nghe Phật thuyết pháp thì cảm thấy đủ rồi, trở thành đệ tử Phật = A La Hán.
Có người nghe thuyết pháp, thấy mình có khả năng đi qua bây giờ. Nhưng nghĩ lại những kẻ không có khả năng như vậy, nên ở lại tu tập thêm để tự mình giác ngộ trở thành 1 vị Phật giống như vậy.

Trong Kinh điển truyền thống, không có 1 dòng nào là tán thánh lý tưởng Bồ Tát đạo.
Thậm chí còn có đoạn Kinh như này :
"Ví như, này các Tỷ-kheo, một ít phân có mùi hôi thúi. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tán thán về hiện hữu dầu cho có ít thôi, cho đến chỉ trong thời gian búng ngón tay.

14-17. Ví như, này các Tỷ-kheo, một ít nước tiểu có mùi hôi thúi... một ít nước miếng có mùi hôi thúi.... một ít mủ có mùi hôi thúi... một ít máu có mùi hôi thúi. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tán thán về hiện hữu dầu cho có ít thôi, cho đến chỉ trong thời gian búng ngón tay."
Chi tiết :
 
Nói dễ hiểu là A La Hán là danh hiệu cho người đã điều khiển được vòng luân hồi.

Nhưng vị đó muốn đi theo Bồ Tát đạo để cứu độ chúng sinh, để học hỏi thêm kiến thức hay là muốn đi theo Phật đạo tức thoát khỏi vòng luân hồi thôi.

Phật Thích Ca cũng trải qua 100 kiếp đi theo Bồ Tát đạo, cuối cùng mới chịu làm Phật để vĩnh viễn thoát luân hồi.
Trong Phật giáo có khái niệm A tăng kỳ, A tăng kì kiếp và kiếp trái đất. Không phải kiếp người đâu mày.

Mày tham khảo thử bài viết này xem :

 
Bồ Tát là chữ phiên âm từ Boddhisatta
Boddhi là trí tuệ để giác ngộ. Chữ Boddhi đọc theo phiên âm còn gọi là Bồ Đề (Cây Bồ Đề, Hột Bồ Đề ...).
Satta là chúng sanh (chúng sanh = những sinh vật hữu tình (có tri có giác) của thế gian).

=> Bồ Tát = người tầm cầu trí tuệ giác ngộ.
=> Bất cứ ai cầu trí tuệ giác ngộ = Bồ Tát.

Bồ Tát có thể kể thành 2 :


- Bồ Tát đã được thọ ký ( Chắc chắn thành Phật)
- Bồ Tát chưa được thọ ký (Không chắc chắn hay bất định).

Được thọ ký là người đã tu tập đủ , viên mãn 30 pháp Ba la mật (Thập Độ) - cái này tra thêm trên google.

=> A La Hán hay Phật đều từ Bồ Tát mà thành.
=> (1)Phật cũng là 1 vị A La Hán và (2)A La Hán cũng là 1 vị Phật.


Chữ Phật = Buddha = Giác Ngộ. A La Hán và Phật đều đã là người đã giác ngộ.

Vậy sự khác nhau giữa Phật và A La Hán là gì ?

Phật Gotama hay còn gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni gọi là Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).
Còn A La Hán gọi là Phật Thinh Văn (Sāvakabuddha).

Đọc thêm ở link này : https://theravada.vn/chuong-i-2-duc-phat-doc-giac-paccekabuddha/

Còn về lý tưởng Bồ Tát Đạo là của sau này phát triển.
Ví dụ như Đại học Harvard, họ không hề đào tạo Bill Gate, Mark Zuckerberg, Elon Musk ...
Họ chỉ đào tạo sinh viên đại học Harvard. Còn ra đời cỡ nào là tùy thuộc vào nền tảng, trình độ mỗi người.

Cũng vậy, có người nghe Phật thuyết pháp thì cảm thấy đủ rồi, trở thành đệ tử Phật = A La Hán.
Có người nghe thuyết pháp, thấy mình có khả năng đi qua bây giờ. Nhưng nghĩ lại những kẻ không có khả năng như vậy, nên ở lại tu tập thêm để tự mình giác ngộ trở thành 1 vị Phật giống như vậy.

Trong Kinh điển truyền thống, không có 1 dòng nào là tán thánh lý tưởng Bồ Tát đạo.
Thậm chí còn có đoạn Kinh như này :
"Ví như, này các Tỷ-kheo, một ít phân có mùi hôi thúi. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tán thán về hiện hữu dầu cho có ít thôi, cho đến chỉ trong thời gian búng ngón tay.

14-17. Ví như, này các Tỷ-kheo, một ít nước tiểu có mùi hôi thúi... một ít nước miếng có mùi hôi thúi.... một ít mủ có mùi hôi thúi... một ít máu có mùi hôi thúi. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tán thán về hiện hữu dầu cho có ít thôi, cho đến chỉ trong thời gian búng ngón tay."
Chi tiết :
Rất rõ ràng.
Vậy phải chăng các chùa chiền đang hiện hữu ở việt nam có vấn đề gì chăng.


Nhưng nè, nếu là bồ tát thì vẫn chưa phải phật. Mà chưa phải phật hay a la hán thì làm sao giảng được.

Phật trước đó là 1, bồ tát rồi tu tập giác ngộ mới giảng được phật pháp

Vậy các tăng ni cũng là bồ tát nhỉ.
 
Rất rõ ràng.
Vậy phải chăng các chùa chiền đang hiện hữu ở việt nam có vấn đề gì chăng.


Nhưng nè, nếu là bồ tát thì vẫn chưa phải phật. Mà chưa phải phật hay a la hán thì làm sao giảng được.

Phật trước đó là 1, bồ tát rồi tu tập giác ngộ mới giảng được phật pháp

Vậy các tăng ni cũng là bồ tát nhỉ.
Vậy phải chăng các chùa chiền đang hiện hữu ở việt nam có vấn đề gì chăng.
2600 năm rồi, không trách được. Mạnh ai nấy lo thân thôi.

Bồ Tát thì tùy vào loại Bồ Tát gì mới được. Bồ Tát thì chỉ hành 10 pháp ba la mật để thành Phật, còn giúp đỡ chúng sinh là tùy duyên, tiện đường thì giúp thôi. Chứ Bồ Tát chưa giác ngộ 4 Đế mà sao giảng rốt ráo như Phật hay La Hán được.

10 ba la mật được nói gọn một cách tóm lược như sau :

Có mười đức tánh cao quý vượt hẳn thế tục gọi là Pàrami (Ba La Mật), mà chư vị Bồ Tát đều thực hành tròn đủ để thành tựu Ðạo Quả Chánh Ðẳng Chánh Giác (Sammà Sambuddha).

Mười pháp Ba La Mật là: Bố Thí (Dàna), Trì Giới (Sìla), Xuất Gia (Nekkhamma), Trí Tuệ (Pannà), Tinh Tấn (Viriya), Nhẫn Nại (Khanti), Chân Thật (Sacca), Quyết Ðịnh (Adhìtthàna), Tâm Từ (Mettà), và Tâm Xả (Upekkhà).

Theo Bản Chú Giải kinh Cariyà Pitaka, Ba La Mật [1] là những phẩm hạnh không nhuộm màu vị kỷ, không đượm nhuần tà kiến và không ẩn ý ngã mạn. Ba La Mật nhờ trí tuệ dẫn dắt và do lượng từ bi vun quén đắp bồi.

Hành động của Bồ Tát tuyệt đối vị tha. Với đức từ bi vô lượng, lòng bác ái vô biên, xuyên qua bao nhiêu kiếp sống, các Ngài không ngừng nỗ lực chuyên cần nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo nàn thấp kém, giúp đỡ cho mọi người bằng muôn ngàn cách và làm giảm bớt phiền não cho tất cả chúng sanh.

Một vị Bồ Tát không nghĩ đến việc an hưởng thú thanh nhàn trong khi những người bạn xấu số của mình còn ở trong vòng lao khổ. Ðể làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau của nhân loại, Bồ Tát sẵn sàng hy sinh tất cả các vật sở hữu quý báu nhất, cho đến mạng sống của mình đi nữa cũng không tiếc, như câu chuyện trong Túc Sanh Truyện Vyàghrì Jàtaka diễn tả.

Với tâm đầy từ bi, Bồ Tát luôn luôn sẵn sàng tạo an lành hạnh phúc cho tất cả, không quên bỏ một chúng sanh nhỏ bé nào, nhưng không khi nào làm điều gì không do trí tuệ dẫn dắt. Lòng bi mẫn vô biên, tuy nhiên các Ngài luôn luôn cân phân tâm trí. Và trong khi phục vụ, Ngài không hề cầu mong một thế lực hoặc một quyền lợi vật chất nào trên thế gian. Khi đã hành động xứng đáng, danh thơm tự nhiên đến, tại sao cần phải chạy theo nó?

Bồ Tát hoàn toàn vị tha, luôn luôn sống cho kẻ khác. Không hề có một điểm ích kỷ, dầu nhỏ nhen đi nữa, trong những hành động của Ngài.

 

Có thể bạn quan tâm

Top