Và đây là câu chuyện “nhập hồn” đã xảy ra trong gia đình Ba Má tôi.
Bé Bảy là đứa em xinh đẹp nhất nhà, nhất là lúc em lên sáu tuổi khi mọi người nam phụ lão ấu xóm giềng hoặc ông đi qua bà đi lại nhìn thấy em là luôn luôn bật ra tiếng khen tặng “em bé đẹp quá!” mà đến tận ngày nay hàng xóm của Má tôi hoặc bạn bè của tôi hay của các em tôi mỗi khi nhắc đến Bé Bảy đều nói về sắc đẹp lộng lẫy của cô bé có đôi mắt kỳ lạ với tròng trắng lại mang màu xám nhạt xanh lơ. Tiếc là tôi tuy say mê nhiếp ảnh lại không chụp bức nào lúc Bé Bảy lên sáu lên bảy là lúc bé cực đẹp, mà chỉ có tấm ảnh ở trên, lúc bé lên hai tuổi khi nhìn thấy tôi ngồi thụp xuống chụp hình trước cổng nhà đã với chân trần chập chững lững thững tiến đến với “Anh Ba” khiến tôi tay chụp hình miệng mồm la bài hãi vì sợ bé vấp té.
Năm 1976, khi lên 6 tuổi, một hôm bé bịnh sốt cao. Má tôi bế bé đến “bác sĩ” Mẫn ở gần ngã ba Bàn Cờ-Điện Biên Phủ, vị “bác sĩ” mà trước 1975 Má hay đưa em đến đó khám bịnh. Lần này ông khám qua loa, dành trọn thời gian lảm nhảm chưởi bới ********, khuyên Má tôi nên cho con cái vượt biên, v.v., rồi cho toa mua thuốc cảm cúm (thằng “bác sĩ” khốn nạn này sau đó vượt biên đi mất). Má tôi đến tận ngày nay vẫn còn nguyền rủa thằng “bác sĩ” chế độ cũ ấy. Vài ngày sau, bịnh bé trở nặng. Ba Má tôi đưa bé lên xe taxi bảo người tài xế quen đưa đến bịnh viện nào gần nhất. Không rõ vì sao bác ấy lại đưa đến Bịnh Viện Quảng Đông (nay là Nguyễn Tri Phương ở Quận 5) thay vì đến Bình Dân ở gần nhà hơn.
Khi bịnh viện bảo bé phải nhập viện cấp cứu, Má tôi vội vã về nhà lấy quần áo và vài vật dụng, Ba tôi theo xe cứu thương đến các bịnh viện khác kiếm mua loại máu phù hợp theo yêu cầu của bác sĩ. Em gái kế của tôi (tức “em gái Thứ Tư” đã nêu trong bài trước đây) theo bác sĩ đến phòng xét nghiệm để chuẩn bị truyền máu cho Bé Bảy nếu thích hợp và nếu Ba tôi không đem máu về kịp. Tôi nằm cạnh ôm Bé, người Bé nóng như than hồng. Tôi thủ thỉ vào tai Bé rằng bé hãy cố gắng, chỉ vài hôm nữa là về. Bé thì thào rằng bé sẽ ở lại đấy luôn chứ không về được nữa. Tôi động viên Bé, nói vào tai Bé rằng tuần sau Bé về nhà thì tôi sẽ chở Bé đi Sở Thú chơi vì chưa bao giờ tôi đưa Bé đi chơi ở bất kỳ đâu cả do tôi vừa đi học, vừa đi dạy, vừa hẹn hò với bạn gái, nên chưa thể đưa mấy đứa em đi chơi đó đây. Đột nhiên bé run bần bật chỉ tay ra cửa, nói: “Anh Ba đuổi tụi nó đi Anh Ba! Mấy đứa nhỏ đó bu lại lôi kéo em đi hoài!” và em vùng té xuống nền gạch. Tôi vôi bế bé lên và luôn miệng trấn an bé: “Có Anh Ba nè! Bé đừng sợ! Có Anh Ba nè!”.Tối hôm ấy Bé mất với lý do “không rõ nguyên nhân” dù sau đó một tuần thì chính quyền Quận 3 cho phun thuốc cả khu phố và nói em tôi đã bị “bịnh sốt xuất huyết” tức một thứ bệnh Việt Nam Cộng Hòa chưa người Sài Gòn nào từng nghe nói đến. Thi thể Bé Bảy được đưa vào ngăn lạnh ở Tang Nghi Quán của Bịnh Viện Quảng Đông, và sau một đám tang nhỏ được tổ chức tại đấy, Bé được đưa thẳng đến Nghĩa Trang Phú Thọ. Quả thực Bé đã không trở về nhà nữa.
Ngay khuya hôm trở về từ đám tang của Bé, tôi ngủ mơ thấy Bé ngồi trên gờ tường trước cổng, còn tôi đứng ôm thân thế nóng như than hồng của Bé, vừa khóc vừa hỏi Bé sao Bé đã qua đời rồi mà còn trở về được vậy và Bé hãy trở về luôn nhé. Cũng từ đó đến nay, chỉ có tôi là người duy nhất trong gia đình là thỉnh thoảng ngủ mơ thấy Bé.
Nhưng dưới đây mới là điều kỳ lạ đáng sợ.
Khi Bà Ngoại tôi nghe hung tin, đã đi xe đò từ Trà Ôn lên. Một tối nọ, sau khi ăn cơm, Bà lẳng lặng xuống bếp tắm. Má tôi cằn nhằn: “ Má ơi là Má! Sao mới ăn cơm mà đi tắm nước lạnh! Má muốn báo con báo cháu hay sao?”. Bà nín thinh tắm. Xong Bà với thân trần, lên lục giỏ kiếm quần áo lành sạch mặc vào, chải tóc vuốt dầu dừa, rồi ra ghế ngồi. Bà đột nhiên khóc, và với giọng nói tất nhiên là của Bà, đã gọi má tôi là Má và gọi tôi là Anh Ba. Mọi người thất kinh hoảng sợ bu quanh Bà, sợ Bà bị điên hay “quỷ ám”. Rồi Bà khóc, nói nhớ nhà, và nói những điều nghe rất huyễn hoặc, nhảm xàm, đến độ nhiều chục năm qua chúng tôi dù tận mắt tận tai chứng kiến cũng không dám kể cho thiên hạ ngoài tập thể gia đình và người thân thiết nghe qua, chẳng hạn như nào là vì Ba Má tôi cứu vớt nhiều người nên “trên” thưởng, cho Bé xuống làm con, nhưng vì “cơ trời” làm nước Việt có đổi thay đão lộn quá lớn khiến đời sống cực khổ quá nên nhất thiết phải đón Bé trở về “Trời”; nào là ở nhà đừng lo buồn cho Bé vì Bé rất được “Phật Bà” cưng yêu, đến độ mỗi ngày cùng vô số bé gái quây quần quanh Phật Bà để học hành thì trong khi mỗi bé có một tấm thảm đẹp lót ngồi thì riêng Bé Bảy được phát cho một “tòa sen” nhỏ xíu để “ưu tiên” ngồi cạnh Phật Bà, v.v. Khi đang dõng tai nghe mấy chuyện hoang đường ấy, tôi rụng rời khi Bà quay sang tôi nói: “Anh Ba nhớ giữ lời hứa nhe! Em về tới nhà rồi nè! Vậy phải chở em đi Sở Thú nhe! Không chở em mà cứ lo cho cái chị đó ở trường là em xô anh té xe ráng chịu!” Lời hứa đó tôi đã chỉ thì thào vào tai Bé Bảy trong phòng cấp cứu vắng lặng, không bất kỳ ai khác ở quanh hay gần đó để nghe nội dung cả! Ít ra trong những chi tiết hoang đường huyễn hoặc nghe giống chuyện xạo, thì cái nội dung lời tôi hứa với Bé 30 phút trước khi Bé qua đời là sự thật. Khi tôi hỏi “Bà Ngoại” cách chở Bé Bảy đi Sở Thú, thì “Bà Ngoại” nói: “Anh Ba vô nhà em kêu em dậy rồi chở em đi”.
Thế là sáng sôm sau, tôi một mình đạp xe đến Nghĩa Trang Phú Thọ (gần Đầm Sen ngày nay), dắt bộ len lõi giữa những nấm mộ đất không theo hàng lối, thỉnh thoảng cả người và xe sụp xuống mấy cái hố đất đào sẵn bị cỏ lau phủ che, để đến mộ Bé Bảy, vỗ nhẹ tay lên tấm bia, nói thì thầm những câu đại loại như: “Anh Ba đến rồi đây. Bé Bảy thức chưa? Dậy đi nghe! Mặc đồ đẹp vô. Anh Ba chờ. Rồi chưa? Vậy leo lên ngồi phía sau anh nhe. Đặt hai bàn tay vịn vô đây nè. Để hai chân lên hai chỗ này. Rồi chưa? Cẩn thận nhe! Lên đường!” Thế là tôi dắt xe len lõi ra cổng, và đạp một lèo đến Thảo Cầm Viên. Sau khi gởi xe, tôi đến cổng mua hai vé, rồi vào trong. Thỉnh thoảng tôi lại mua nước cho Bé uống (mua hai ly, tôi uống một, còn một để trên băng đá ghế ngồi, không hề chạm đến; còn khi tiết kiệm mua chỉ một ly thì tôi để ly đó bên cạnh mình chứ không động đến). Đến mỗi chuồng thú, tôi ngừng lại, lẩm bẩm giải thích này nọ về từng muông thú với Bé Bảy. Khi đã trưa, tôi lại diễn vỡ kịch ở bãi giữ xe, bảo Bé leo lên, bảo Bé đặt tay thế nào, bảo Bé ngồi cẩn thận, v.v., cho đến khi vào tới mộ Bé trong nghĩa trang, bảo Bé hãy yên nghỉ, rồi chia tay Bé ra về.
Cứ thế, trong nhiều năm, tôi cứ đưa Bé Bảy đi chơi Sở Thú như thế mỗi sáng Chủ Nhật. Khi em gái út Thứ Tám của tôi lên 6 hay 7 tuổi, còn em Thứ Sáu của tôi đã đi xe đạp được, tôi dẫn theo hai em và cả ba trên hai chiếc xe đạp vào Nghĩa Trang Phú Thọ đón Bé Bảy đi chơi Sở Thú chung:
Bé Bảy (3)
Sau này, Nghĩa Trang Phú Thọ bị giải tỏa (nay là khu dân cư sầm uất với bao tòa nhà căn hộ cao cấp cao tầng khu vực Âu Cơ-Lạc Long Quân), Ba Má tôi buộc phải tổ chức “lấy cốt” theo lịnh của chính quyền. Nhưng tất cả những gì còn lại của Bé Bảy chỉ là một lóng xương nhỏ xíu như ngón tay út. Tôi đem về dùng cồn đốt cho sạch sẽ vệ sinh rồi cho lóng xương bé nhỏ ấy vào một bình gốm sứ niêm lại bằng xi-măng trắng, đặt trên chiếc bàn nhỏ dùng làm “bàn thờ Bé Bảy” từ sau đám tang của Bé.
Bé Bảy (2)
Khi Ba tôi qua đời, Ba được an táng theo nguyện vọng (ở cạnh Bố Vợ). Anh em chúng tôi có xin Dì cho phép chúng tôi đặt chiếc bình gốm sứ của Bé Bảy gần mộ Ba; và khi được chấp nhận, tôi đã một mình đeo chiếc bình đó trước ngực, ngồi xe khách và qua phà về Trà Ôn, thậm chí những lúc xe ngừng tôi vẫn không theo thiên hạ vào các toilet các quán hai bên đường vì không muốn em mình vào nơi chốn ô uế. Hiện nay, hằng năm anh em chúng tôi từ nhiều nơi trên thế giới tề tựu về Trà Ôn ít nhất hai lần để đến khu mộ gia đình Ông Sáu viếng mộ Ba và mộ Bé Bảy. Trăm lần như một, cứ đến thắp hương vào bát nhang trước ngôi mộ nhỏ xíu của Bé Bảy là tôi lại rơi nước mắt và cứ ngồi đấy vổ nhè nhẹ lên mộ em cứ như đang vuốt lên mái tóc của em thơ và lẩm bẩm nói chuyện với Bé, những lời tâm sự đầy yêu thương mà các anh chị em của Bé đã nhiều năm nghe từ tôi trong khi bản thân Bé chưa từng nghe dù chỉ một lần, rồi xin Bé hãy tha thứ cho tôi vì đã chưa từng nâng niu chăm sóc em tương tự trong cuộc đời này. Mà cứ gì phải về Trà Ôn để một năm rơi nước mắt hai lần cơ chứ! Vì trong cuộc sống trôi qua lằng lặng hơn 40 năm qua, cứ mỗi vài hôm là tôi lại có một đêm nghĩ nhớ về em để lại rơi nước mắt, mà mỗi khi có nước mắt nước mũi như thế thì coi như tôi lại có một đêm trắng về em.