Hỏi: Thế nào là paññā (tuệ)?
Đáp: Paññā= pa+căn ñā. PA là "cùng khắp, trọn vẹn, đầy đủ", căn ÑĀ là "hiểu biết".
Trước tiên, ở khía cạnh "hiểu biết" thì trí (ñāṇa) xem như tương đương với paññā (tuệ), như:
"Somanassa sahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ kusalacittaṃ:
"
Tâm thiện sanh chung với thọ hỷ hòa lẫn với trí, không có sự trợ giúp".
Sự hiểu biết (pajānāti) nói gọn có hai cách:
*- "
Hiểu biết theo đời thường", như am tường các môn học, các môn nghệ thuật ...
*- "
Hiểu biết đặc biệt", như hiểu rõ về tam tướng: Vô thường, khổ, vô ngã, Tứ đế...
Nói cách khác, trí có hai cách "hiểu biết": Hiểu biết về chế định và hiểu biết về chân đế.
Chính tiếp đầu ngữ PA đã nhấn mạnh và tăng cường cho "sự hiểu biết" này.
Có thể ví ñāṇa (trí) như sư tử, còn paññā (tuệ) như sư tử chúa, hoặc ñāṇa như sư tử đang trưởng thành còn paññā như sư tử sung mãn sức lực .
- Ñāṇa (trí) là sự hiểu biết thông thường, còn paññā (tuệ) là "hiểu biết một cách đặc biệt". Hoặc là:
- Ñāṇa (trí) là hiểu biết chế định, chân đế cả "đặc biệt", còn paññā chỉ hiểu biết "đặc tướng của chân đế".
Cảnh chân đế (paramatthasaccārammaṇa) có hai loại: Chân đế thông thường, chân đế đặc biệt.
"
Cảnh chân đế đặc biệt", là khi tâm nhận một trong ba tướng: vô thường, khổ, vô ngã của pháp hữu vi, làm cảnh.
Như một người hiểu được "danh từ
đất chỉ cho những gì có trạng thái (lakkhaṇa) cứng hay mềm". Đó là biết "cảnh chế định".
Người ấy nhậnbiết "trạng thái cứng hay mềm" khi tiếp xúc với đất, đó là biết "cảnh chân đế".
Khi tu tập pháp quán, người ấy thấy "cái gọi là
đất ấy bị tan rã, hoại diệt. Đó là biết "cảnh chân đế đặc biệt".
Trí là sự biết cả ba loại cảnh này; còn paññā (tuệ) chỉ biết cảnh chân đế đặc biệt mà thôi. Nên đôi khi trí chính là tuệ và tuệ chính là trí.
Ngài Buddhagho sa có giải thích paññā như sau:
"Pajānātīti
paññā:
Biết rõ là tuệ"
[45] .
Kiṃ pajānāti? Idaṃ dukkhan'ti – ādinā nayena arisaccāni:
"Biết rõ cái gì? Thưa rằng: Theo phương cách Thánh đế, biết rõ "đây là khổ" ...
Có thể nói: Tuệ nương vào trí mà hình thành. Tức là khi trí vững mạnh trở thành tuệ.
Nói về trí thì có tất cả 73 loại trí, trong đó chư Thánh Thinh văn chỉ có được 67 loại trí và 6 trí dành riêng cho bậc Chánh đẳng giác
[46] .
Tất cả các trí ấy, gọi chung là paññā (tuệ). Đây là lấy theo ý nghĩa "
đầy đủ của PA".
Paññā theo nghĩa
"hiểu biết tường tận (của PA)" thì loại trí này do nương vào tam tướng mà hình thành. Ngài Buddhaghosa có giải thích như sau:
- "Pākaṭa karaṇasaṅkhātena paññapanaṭṭhena
paññā:
"
Tuệ là hiểu biết rõ ràng theo nhiều cách như tên gọi, cách tạo ra, cách nuôi dưỡng..."
Hay : "Aniccādinā pakārena dhamme jānātīti
paññā:
"Biết được quy luật pháp trước tiên là vô thường, gọi là tuệ".
Bộ Pháp Tụ (Dhammasaṅgani) có định nghĩa về tuệ quyền (paññindriya) như sau:
"Katamaṃ tasmiṃ samaye paññindriyaṃ hoti?
Thế nào là tuệ quyền trong khi ấy?
Yā tasmiṃ samaye paññā pajānanā vicayo pavicayo dhammavicayo sallakkhaṇā upalakkhaṇā paccupalakkhaṇā paṇḍiccaṃ kosallaṃ nepuññaṃ vebhabyā cintā upaparikkhā bhūrī medhā pariṇāyikā vipassanā sampajaññaṃ patodo paññā paññiṇdriyaṃ paññābalaṃ paññāsatthaṃ paññāpāsādo paññā-āloko paññā-obhāso paññāpajjoto paññāratanaṃ amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi.
Idaṃ tasmiṃ samaye paññindriyaṃ hoti.
"Trong khi ấy, pháp là trí hiểu, hiểu rõ, lựa chọn, cân nhắc, trạch pháp, tham khảo, phân định, khảo sát, thông thái, rành mạch, khôn ngoan, sáng suốt, suy xét, nghiên cứu, minh mẫn, mẫn tiệp, hồi quang, quán minh, tỉnh giác, sắc sảo, tuệ là tuệ quyền, tuệ lực, tuệ như vũ khí, tuệ như lâu đài, tuệ như ánh sáng, tuệ như hào quang, tuệ như ngọn đèn, tuệ như bảo vật, vô si, chánh kiến.
Đây là tuệ quyền trong khi ấy. [47]
Như vậy, paññā bao gồm những ý nghĩa như đã được liệt kê (lấy theo ý nghĩa ĐẦY ĐỦ của tiếp đầu ngữ PA).
Sách Atthasālinī có giải thích về các từ ngữ trên như sau
[48] :
"Pajānanākāro
pajānanā: Làm cho hiểu biết rõ ràng, là
hiểu rõ.
"Aniccādīni vicinātīti
vicayo:
Xét đoán tính vô thường của vạn vật, gọi là lựa chọn".
"Pavicayoti upasaggena padaṃ vaḍḍhitaṃ:
Cân nhắc là (xét đoán đến) con đường nguy hiểm, tai hại. (Tiếp đầu ngữ Pa là tăng cường cho vicayo).
"Catusaccadhamme vicinātīti
dhamma vicayo:
Nghiên cứu kỹ pháp Tứ đế, gọi là trạch pháp".
"Aniccādīnaṃ sallakkhaṇavasena
sallakkhaṇā: Suy xét đến những biến chuyển (vasena) của vô thường, là phân biệt.
Paṇḍitassa bhāvo
paṇḍiccaṃ:
Thực trạng của sự sáng suốt, là thông thái.
Kusalassa bhāvo
kosallaṃ:
Thực trạng tốt đẹp, là
rành mạch.
"Nipuṇassa bhāvo
nepuññaṃ: Thực trạng khéo léo là khôn ngoan.
"Aiccādīnaṃ vibhāvanavasena
vebhabyā: Giải thích rõ ràng tội lỗi (của) vô thường... gọi là
sáng suốt.
" Aniccādīnaṃ cintanakavasesa
cintā: Trú nơi suy gẫm "tội lỗ của vô thường", là
suy xét.
"Aniccādīni upaparikkhantītiti
upaparikkhā:
Thường khảo sát về tội lỗi vô thường, là nghiên cứu.
Bhūrī, đây là từ có tính ẩn dụ. Bhūri là mặt đất như:
Bhūrīti pathaviyā nāmaṃ:
Bhūrī là tên gọi chỉ cho đất.
Bhūrī ám chỉ tuệ rộng lớn như đất, hay tuệ là nơi nương nhờ. Như đất là nơi nương nhờ của sinh - thực vật.
Ngoài ra, đất tiềm ẩn những mỏ quý; cũng vậy, tuệ tiềm ấn những điều kỳ diệu.
"Asani viya siluccaye kilese medhati hiṃsatīti
medhā:
"
Hủy diệt phiền não một cách sáng suốt, ví như lưỡi sét đánh vào tảng đá,
là "minh mẫn".
"Yassa upapajjati taṃ attahitapaṭipattiyaṃ sampayuttadhamme ca yāthāvalakkhaṇapaṭivedhe parinetīti
pariṇāyikā:
"Điều nào sinh khởi để đạt được lợi ích cho mình, hòa hợp với pháp và hướng dẫn trọn vẹn sự chứng đạt chơn tướng đúng đắn, điều ấy là pariṇāyikā (sáng suốt tự tâm).
Như cây gậy nhọn dùng để huấn luyện ngựa Sindhu mỗi khi nó đi sai đường, buộc nó phải đi đúng theo đưởng mà người ấy muốn. Cũng vậy:
-"kūṭacittaṃ vīthi āropanatthaṃ vijjhatīti patodo viya
patodo:
"Ví như vật nhọn thúc vào tâm tà vạy, buộc tâm phải đi đúng đường,
gọi là patodo (sắc sảo).
Đức Phật có giảng về bốn hạng người hiền thiện ví như ngựa hiền thiện với gậy thúc ngựa (patoda), tóm lược như sau
[49] .
-Hạng ngựa hiền thiện, khi thấy bóng gậy thúc ngựa liền bị dao động, bị kích thích, suy nghĩ "ta nên làm theo ý của chủ".
Cũng vậy, có hạng người hiền thiện nghe "có người chết", tâm dao động, tâm bị kích thích, người ấy nổ lực tu tập và chứng đạt được Nípbàn.
Đây là hạng người hiền thiện thứ nhất.
- Hạng ngựa hiền thiện, khi thấy bóng gậy, không bị dao động. Khi bị gậy thúc ngựa đâm vào hông mới dao động, bị kích thích.
Cũng vậy, có hạng người hiền thiện khi nghe "có người chết", tâm không dao động, không bị kích thích. Khi chính mắt thấy "người chết", tâm bị dao động, bị kích thích; người ấy nổ lực hành pháp, chứng đạt Nípbàn.
Đây là hạng người hiền thiện thứ hai.
- Hạng ngựa hiền thiện không bị dao động bởi hai điều trên, nhưng khi bị gậy thúc ngựa đâm vào thịt, bấy giờ mới bị dao động, bị kích thích.
Cũng vậy, khi nghe hay thấy "có người chết", tâm không dao động không bị kích thích. Nhưng khi người trong thân tộc đồng huyết thống mệnh chung, người ấy bị dao động, bị kích thích, nổ lực hành pháp, chứng đạt Nípbàn.
Đây là hạng người hiền thiện thứ ba.
- Hạng ngựa hiền thiện không bị dao động bởi ba điều trên, nhưng khi bị gậy thúc ngựa đâm vào đến xương mới bị dao động, bị kích thích.
Cũng vậy, có hạng người hiền thiện, không bị dao động khi nghe "có người chết", thấy "có người chết", "có thân tộc chết" vẫn không bị dao động.
Đến khi tự thân bị bịnh, bị thân khổ mãnh liệt, bấy giờ tâm mới bị kích thích, bị dao động; người ấy nổ lực hành pháp chứng đạt Nípbàn.
Đây là hạng người hiền thiện thứ tư.